Tải bản đầy đủ (.doc) (255 trang)

ĐỀ tài KHOA học PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG tín DỤNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN góp PHẦN đẩy NHANH CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 255 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
"Phát triển thị trường tín dụng nông thôn góp phần đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" là đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2006, do Giám đốc Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho TS. Phạm Thị Khanh, giảng viên
chính, làm chủ nhiệm, Viện Kinh tế và phát triển là cơ quan chủ trì.
Mục tiêu của đề tài: Trên cơ sở hệ thống hóa và làm sáng tỏ hơn
những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển TTTDNT vùng ĐBSH, đề tài đề
xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển TTTDNT
góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH nông thôn vùng ĐBSH.
Để đạt được mục tiêu trên, Chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu đã
xác định cho mình các nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ bản chất, đặc điểm, vai trò và nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến phát triển TTDNT trong quá trình CNH, HĐH; tìm hiểu một số bài
học kinh nghiệm phát triển TTTDNT ở một số nước đang phát triển có điều
kiện phát triển tương đồng Việt Nam.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển TTTDNT vùng ĐBSH
trong những năm đổi mới, chủ yếu là những năm gần đây.
Ba là, luận chứng phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
phát triển TTTDNT hiện đại đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh CNH, HĐH nông
thôn vùng ĐBSH.
Tập trung vào các mục tiêu và nhiệm vụ khoa học nêu trên, Chủ nhiệm
đề tài đã tập hợp, tuyển chọn nhiều cộng tác viên thuộc Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu, hình
thành 16 chuyên đề, với nội dung đa dạng, số liệu phong phú.
Xin trân trọng giới thiệu tập kỷ yếu với độc giả và mong nhận được
các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học thẩm định công trình này.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
1



Chuyên đề 1
THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NÔNG THÔN VÀ VAI TRÒ
CỦA THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TS. Phạm Thị Khanh
ThS. Phí Thị Hằng

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NÔNG THÔN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Các khái niệm
- Khái niệm tín dụng
Thuật ngữ tín dụng - Credit có nguồn gốc từ tiếng La-tinh: Credittum,
có nghĩa là sự tin tưởng hay tín nhiệm. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, nội hàm từ "tín dụng" dần được rộng mở.
Theo các nhà kinh tế, tín dụng là một phạm trù kinh tế. Tín dụng hình
thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền sản
xuất hàng hóa. Tuy nhiên, dưới góc độ khác nhau, các nhà kinh tế đưa ra
những định nghĩa khác nhau về tín dụng. Trong đó, nổi bật là:
+ Cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam định
nghĩa: "Tín dụng là sự vay mượn tiền mặt và vật tư" [70, tr. 994]. Định nghĩa
này thể hiện mối quan hệ cấu thành bản chất bên trong của quan hệ kinh tế:
vay - mượn, cả về tiền mặt lẫn hàng hóa, với tư cách là hiện vật giữa các chủ
thể kinh tế.
+ Tác giả Lê Văn Tề, trong cuốn Tiền tệ và Ngân hàng cho rằng: Tín
dụng diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam không chỉ là sự vay mượn đơn thuần
mà còn là sự vay mượn với sự tín nhiệm nhất định [60, tr. 97-108]. Định
nghĩa này hàm nghĩa tín dụng là quan hệ kinh tế vay mượn trên cơ sở lòng tin
của cả người cho vay và đi vay.
2



+ Tác giả Vũ Văn Hóa, trong cuốn Lý thuyết tiền tệ quan niệm rằng:
tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (Trái chủ hoặc người
cho vay) chu cấp tiền, hàng hóa, dịch vụ, chứng khoán dựa vào lời hứa thanh
toán trong tương lai của bên kia (Thụ trái hoặc người đi vay) [19, tr. 72].
Cách luận giải này phản ánh tính chất ràng buộc của quan hệ kinh tế giữa
người cho vay và người đi vay. Đối tượng tín dụng phong phú, cụ thể (tiền,
hàng hóa, dịch vụ, chứng khoán) và dựa vào lòng tin, sự tín nhiệm.
+ Học giả người Pháp - Louis Baudin khẳng định: Tín dụng là sự trao
đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa tương lai, tức là hai bên cam kết: một bên thì
trao đổi ngay một số tiền bạc, bên kia cam kết sẽ hoàn trả lại những điều khoản
đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định [66, tr. 96]
nào đó. Ở đây, Louis Baudin cũng chỉ ra mối quan hệ trao đổi tài hóa trong
hiện tại để lấy tài hóa trong tương lai giữa người cho vay và người đi vay, với
những điều kiện và khoảng thời gian xác định.
+ Khi nghiên cứu về Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, Các Mác chỉ rõ: Tín dụng là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ
đã khiến cho một người này giao cho một người khác một số tư bản nào đó,
dưới hình thức tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đáng giá một số tiền nhất
định nào đó. Số tiền này được trả lại trong một thời gian nhất định [M-AG,
t25, tr. 613]. Và, điều tất yếu của sự luân chuyển (trở về) điểm xuất phát của
đồng tiền không chỉ giữ được nguyên vẹn giá trị của nó mà đồng thời nó lại
lớn lên thêm trong quá trình vận động [M-AG, T25, tr. 526].
Nghiên cứu tín dụng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
Các Mác đã chỉ rõ bản chất của tín dụng:
Một là, xuất hiện sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị
từ chủ thể cung tín dụng sang chủ thể cầu tín dụng.
Hai là, sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị trong
khoảng thời gian xác định và mang tính tạm thời.
Ba là, chủ thể cầu tín dụng phải hoàn trả gốc và lãi (lợi tức) cho chủ

thể cung tín dụng.
3


Như vậy, các nhà kinh tế đều khẳng định một quan hệ tín dụng tồn tại
và phát triển phải đảm bảo 3 điều kiện trên. Biểu hiện ra trên bề mặt xã hội
của quan hệ tín dụng là sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng, qua các
giai đoạn: phân phối vốn tín dụng, sử dụng vốn tín dụng và hoàn trả vốn tín
dụng. Sự vận động của lượng giá trị tín dụng khi quay về điểm xuất phát luôn
phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm, dưới hình thức lợi tức, thông qua cơ
chế điều tiết lãi suất. Tính hoàn trả của tín dụng là cơ sở khoa học để phân
biệt phạm trù tín dụng với phạm trù kinh tế khác.
Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa về tín dụng như sau:
Tín dụng là quan hệ kinh tế gắn với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng
theo nguyên tắc hoàn trả nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn phát triển kinh tế - xã
hội.
Trong nền KTTT hiện đại, tín dụng không chỉ dựa vào lòng tin, sự tín
nhiệm của người cho vay vốn và người đi vay vốn mà được pháp luật bảo vệ.
Đó là cơ sở quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển ngày càng lớn
mạnh các quan hệ tín dụng cũng như thị trường tín dụng, đảm bảo cung vốn
cho phát triển nền kinh tế hiện đại, xây dựng một xã hội văn minh.
Nền KTTT càng phát triển, hình thức tín dụng càng phong phú. Song,
trên thị trường đang tồn tại và phát triển các hình thức tín dụng cơ bản: Tín
dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng,
tín dụng Nhà nước, tín dụng quốc tế. Trong giới hạn, phạm vi nghiên cứu, đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu tín dụng ngân hàng.
"Tín dụng ngân hàng phản ánh quan hệ vay mượn vốn tiền tệ giữa các
ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế" [68, tr. 244].
Như vậy, đối tượng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng hoạt động với tư cách là một trung gian tài

chính, thực hiện nhiệm vụ đi vay vốn của người có vốn để cho vay những
người cần vốn; được hưởng lãi suất, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và
được pháp luật bảo vệ.
- Khái niệm TTTDNT

4


Theo kinh tế học hiện đại, "Thị trường là một cơ chế trong đó người
mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng" [52, tr. 69].
Xét về bản chất, thị trường chính là nơi gặp gỡ, trao đổi hàng hóa (hiện vật và
phi hiện vật) giữa người mua và người bán; giá cả hàng hóa được xác định
trên cơ sở thị trường.
Trong nền KTTT, nhất là nền KTTT hiện đại, nhu cầu vốn đầu tư phát
triển SX - KD là rất lớn. Tuy nhiên, năng lực tiết kiệm của từng chủ thể SX KD là có hạn, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển,
trong khi xã hội luôn tồn tại những chủ thể có khoản thu nhập (tiết kiệm) chưa
tiêu dùng, mong muốn được đầu tư để hưởng lợi. Do đó, trên thị trường tất
yếu nảy sinh quan hệ cung - cầu vốn nói chung, vốn tín dụng nói riêng, đáp
ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư. Hay một cách cụ thể hơn, thị trường tín
dụng, trong đó có TTTDNT tất yếu phải hình thành, phát triển để giải quyết
bài toán tiết kiệm và đầu tư của mọi chủ thể kinh tế trong xã hội.
TTTDNT là nơi diễn ra hoạt động cung - cầu vốn tín dụng giữa các
chủ thể cho vay vốn và chủ thể đi vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn tín
dụng phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn.
Sơ đồ 1: Hoạt động của thị trường tín dụng nông thôn
Cho vay vốn
Hoàn trả vốn

Chủ thể
cho vay vốn


Trung gian tài chính
trên địa bàn nông thôn

Cho vay vốn
Hoàn trả vốn

Thị trường tín dụng
nông thôn

Cho vay vốn
Hoàn trả vốn

Trung gian tài chính
trên địa bàn nông thôn

5

Chủ thể
đi vay vốn

Cho vay vốn
Hoàn trả vốn


Hoạt động của TTTDNT, xét về bản chất là sự vận động của một loại
quỹ tiền tệ, bao gồm hai quá trình: tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng (huy động
vốn và cho vay vốn tín dụng) trên thị trường.
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận để phân loại TTTDNT. Dưới góc độ pháp
lý, nguồn gốc, nội hàm của khái niệm tín dụng, địa bàn hoạt động của các quỹ

tín dụng… có thể phân chia TTTDNT thành 3 loại: thị trường tín dụng chính
thức, thị trường tín dụng bán chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức.
+ Thị trường tín dụng chính thức là nơi diễn ra công khai các hoạt động
huy động, cung ứng và giao dịch vốn tín dụng giữa các tổ chức trung gian tài chính
với chủ thể cầu vốn, tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Lực lượng tham gia cung
vốn trên thị trường này là các trung gian tài chính, bao gồm: hệ thống ngân hàng,
Kho bạc Nhà nước, hệ thống QTDND, hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính...
Lực lượng tham gia cầu vốn là hộ gia đình, các chủ thể SX-KD ở khu vực nông thôn.
+ Thị trường tín dụng bán chính thức là nơi diễn ra công khai các hoạt
động trợ giúp cung ứng, giao dịch vốn tín dụng của các tổ chức xã hội (Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam,
Hội Thanh niên Việt Nam…). Các tổ chức xã hội không phải là chủ thể trực tiếp
cung vốn tín dụng mà chỉ là lực lượng trợ giúp Chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ (NGO) giải ngân cho các chương trình, dự án theo chỉ định, nhằm đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, nhất là đối với vùng nghèo, xã
nghèo. Mọi giao dịch vốn tín dụng của các tổ chức xã hội đều đặt dưới sự chỉ
đạo trực tiếp và giám sát chặt chẽ của chính quyền các cấp. Lực lượng tham gia
cầu vốn cũng là hộ gia đình, các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn.
+ Thị trường tín dụng phi chính thức là nơi diễn ra hoạt động huy động,
cung ứng, giao dịch vốn tín dụng công khai hoặc ngấm ngầm, nằm ngoài khuôn
khổ pháp luật của Nhà nước hoặc không phụ thuộc, không chịu sự quản lý của
chính quyền, Nhà nước. Chủ thể tham gia cung vốn tín dụng trên thị trường này
là tư nhân cho vay nặng lãi, tư thương bán chịu hàng hóa, chủ cửa hàng cầm đồ
hoặc nhóm hợp tác tín dụng tự nguyện như: hụi, họ, phường, bạn bè, anh em cho
vay tương trợ nhau. Chủ thể cầu vốn trên TTTDNT là hộ gia đình, chủ thể SX -

6


KD ở khu vực nông thôn. Đa số họ là những người rất khó tiếp cận được với thị

trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng bán chính thức hoặc đã tiếp
cận được với các thị trường tín dụng đó nhưng chưa thỏa mãn được nhu cầu về
vốn cho hoạt động SX - KD hoặc cho tiêu dùng của mình.

7


Như vậy, hệ thống TTTDNT được hình thành bởi các thị trường tín
dụng bộ phận: Thị trường tín dụng chính thức, thị trường tín dụng bán chính
thức và thị trường tín dụng phi chính thức. Trong nền KTTT, sự tồn tại và
phát triển của các loại thị trường tín dụng trên là tất yếu. Cả ba loại thị trường
tín dụng tác động qua lại lẫn nhau, cạnh tranh nhau trong cung - cầu vốn tín
dụng ở khu vực nông thôn. Trong đó, thị trường tín dụng chính thức và thị
trường tín dụng bán chính thức hoạt động có sự bảo đảm của luật pháp. Do
đó, khả năng phát triển của 2 loại thị trường tín dụng này là rất mạnh, góp
phần cung - cầu vốn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói
chung, đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn nói riêng. Trái lại, thị trường tín
dụng phi chính thức hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở lòng tin; tính bền vững
trong quan hệ cung và cầu vốn yếu. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất hàng
hóa chưa thật sự phát triển, thị trường tín dụng phi chính thức vẫn có vai trò
nhất định trong huy động, cho vay vốn phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở khu vực nông thôn nói chung, CNH, HĐH nông thôn nói riêng.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài đi sâu nghiên cứu TTTDNT chính
thức. Các thị trường: tín dụng bán chính thức và phi chính thức chỉ là những nhân
tố có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường tín dụng chính thức ở nông thôn.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH
- TTTDNT trải ra trên địa bàn rộng lớn, số lượng khách hàng đông
đảo vừa thúc đẩy quá trình huy động, cho vay vốn vừa cản trở quá trình này.
Nông thôn là khu vực kinh tế kinh tế - xã hội rộng lớn, còn nhiều tiềm
năng chưa được khai thác, phát triển; số lượng khách hàng cung - cầu vốn tín

dụng đông đảo và chuyên về sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
ngành nghề phi nông nghiệp khác. Một khi TTTDNT phát triển, các trung
gian tài chính có mặt ở khắp các địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể có vốn, cần cho vay vốn tiếp cận với các trung gian này; kích thích và
thu hút những đồng vốn nhỏ, lẻ, nhàn rỗi trong từng hộ gia đình, cá nhân, các
tổ chức xã hội, doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn vào các trung gian tài
chính. Đồng thời tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vay vốn tín dụng để đầu tư
8


phát triển SX - KD. Như vậy, TTTDNT phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi,
thúc đẩy quá trình tiết kiệm và đầu tư.
Tuy nhiên, địa bàn hoạt động của TTTDNT rộng lớn, có số lượng khách
hàng lớn nhưng số lượng tiền trên từng món vay nhỏ bé, manh mún vừa khó
khăn cho công tác quản lý đồng vốn đã cho vay vừa phát sinh thêm chi phí giao
dịch, làm cho lợi nhuận kinh doanh trên TTTDNT thấp hơn các khu vực kinh tế
khác. Đây là một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng mở rộng TTTDNT.
- Chủ thể tham gia hoạt động cung - cầu vốn trên TTTDNT có sự khác
biệt so với chủ thể cung - cầu vốn ở các thị trường tài chính khác.
+ Chủ thể cung vốn tín dụng là các trung gian tài chính, bao gồm phần
lớn các tổ tín dụng có mặt ở rộng khắp khu vực nông thôn, song chủ lực cung
vốn tín dụng ở địa bàn nông thôn vẫn là NHNo&PTNT, NHCSXH, QTDND.
Đó chính là những chủ thể gắn bó chặt chẽ với nông dân, nông nghiệp, nông
thôn; có bề dày kinh nghiệm trong huy động và cho vay tín dụng phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, tổng nguồn vốn kinh doanh
của các tổ chức tín dụng trên đây vẫn nhỏ bé so với yêu cầu phát triển hiện
đại, bền vững khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn - khu vực nông thôn. Năng lực
tài chính của các tổ chức tín dụng hạn chế, năng lực cán bộ làm công tác tín
dụng chưa cao, nội lực của khu vực nông nghiệp, nông thôn hạn hẹp… chưa
thể đáp ứng nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời vốn tín dụng, nhất là loại tín dụng

trung và dài hạn để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Chủ thể cầu vốn tín dụng chủ yếu là nông dân, một phần là các nhà
SX - KD ngành nghề phi nông nghiệp. Chủ thể cầu vốn tín dụng ở nông thôn
cần cù, chịu khó nhưng đa số họ là những người nghèo, không có tài sản thế
chấp để vay vốn tín dụng. Trình độ lập dự án SX - KD cũng như cách hạch
toán kinh doanh theo cơ chế thị trường còn hạn chế; thiếu sự hiểu biết đầy đủ
về hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tín dụng… tác
động tiêu cực tới phát triển TTTDNT. Thêm vào đó là tâm lý bảo thủ, trì trệ
của người sản xuất nhỏ… đã cản trở khả năng tiếp cận TTTDNT và sử dụng
hiệu quả vốn tín dụng của các chủ thể cầu vốn.
9


- Lãi suất trên TTTDNT thường đa dạng, phong phú; vừa tuân thủ lãi
suất kinh doanh vừa tuân thủ lãi suất ưu đãi dẫn đến cơ chế điều hành lãi
suất tín dụng trên thị trường nông thôn không đồng nhất.
Lãi suất trên TTTDNT được áp dụng song hành 2 loại: lãi suất tín
dụng thương mại và lãi suất ưu đãi. Do những điều kiện khách quan và chủ
quan về địa lý, lịch sử, xã hội… khu vực nông nghiệp, nông thôn có xu hướng
phát triển chậm hơn so với các khu vực kinh tế khác. Trên thế giới, nhiều
nước đã áp dụng hai loại lãi suất trên TTTDNT nhằm đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp, nông thôn, ổn định xã hội. Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước đã ban
hành chủ trương, chính sách, trong đó có chính sách tài chính - tiền tệ, thực
hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô, thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
phát triển sản xuất nông nghiệp và ngành nghề phi nông nghiệp; thu hẹp dần
khoảng cách giàu - nghèo giữa các khu vực trong cả nước; thực hiện công
bằng xã hội. Vì vậy, lãi suất cho vay được áp dụng trên TTTDNT vừa hàm
chứa sự nâng đỡ, hỗ trợ, vừa định hướng kích thích tăng trưởng nguồn vốn tự
có của từng hộ gia đình. Hay nói một cách khác, cụ thể hơn: lãi suất cho vay
trên TTTDNT vừa mang tính ưu đãi vừa mang tính thương mại là cần thiết,

thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội bền vững.
- Đối tượng vay vốn tín dụng trên TTTDNT đa số là hộ gia đình sản
xuất nông nghiệp, được phân định theo vùng, miền và từng loại cây con có
chu kỳ sinh trưởng dài, ngắn khác nhau; từng loại đất… dẫn đến số lượng
vốn cho vay không lớn, thủ tục cho vay phức tạp, khoản vốn cho vay phức tạp,
thủ tục rườm rà và nhiều tầng nấc trung gian; lãi suất áp dụng cho từng đối
tượng trên địa bàn rộng lớn… tạo nên sự trì trệ trong toàn hệ thống TTTDNT.
- Hoạt động của TTTDNT không tách rời hoạt động của thị trường tài
chính, chịu sự chi phối không chỉ của chính sách tài chính - tiền tệ mà còn bị
chi phối của hàng loạt chính sách (chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn; chính sách đầu tư, chính sách đất đai, chính sách thuế…). TTTDNT
hoạt động trong khung khổ pháp luật của Nhà nước.
10


II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NÔNG THÔN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN

2.1. Về CNH, HĐH nông thôn, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội ở khu vực nông thôn
CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ
môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [13, tr. 94].
Như vậy, CNH, HĐH nông thôn là một quá trình thực hiện đa nhiệm vụ:
Một là, thực hiện chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng hiện đại,
trong đó tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động ở hai ngành công

nghiệp, dịch vụ. Đó là hai ngành có đóng góp tích cực, chủ đạo vào tăng
trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng nhanh thu nhập cho người lao động
trong nền kinh tế hiện đại. Đồng thời, phải giảm tương đối tỷ trọng sản phẩm
và lao động nông nghiệp nhưng tăng tuyệt đối giá trị sản phẩm trong nông
nghiệp. Xu thế này là một tất yếu trong lịch sử phát triển kinh tế, nhất là trong
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn,
trước hết là phát triển mạng lưới giao thông, điện, thông tin liên lạc… phục
vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Ba là, tiến hành quy hoạch phát triển nông thôn; tổ chức lại sản xuất,
xây dựng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nền KTTT hiện đại; khai thác
tiềm năng, thế mạnh đang còn tiềm ẩn ở khu vực nông thôn.
Bốn là, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế; phát triển xã hội văn minh, hiện
đại, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp; gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với bảo
vệ môi trường sinh thái. Hay nói cách khác, phát triển nông thôn bền vững về
kinh tế, bền vững về xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
11


Xét về bản chất, mục tiêu lâu dài và tổng quát của CNH, HĐH nông
thôn là "Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và
bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh, có cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội phát triển ngày càng hiện đại" [13, tr. 96].
Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ trên đây của Đảng, Nhà nước
trong thời gian tới, cụ thể là giai đoạn 2007 - 2010 và 2020 cần phải tập trung
huy động mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực tín dụng đầu tư cho phát triển.
Tuy nhiên, để khai thác một cách hiệu quả nguồn vốn tín dụng của cả

nước nói chung, nguồn vốn tín dụng trên địa bàn nông thôn nói riêng, đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội ở địa bàn này tất yếu phải đẩy mạnh xây dựng và phát triển
TTTDNT một cách đồng bộ và hiệu quả; phát huy tốt nhất vai trò của TTTDNT,
đảm bảo cung ứng vốn nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn.
2.2. Vai trò của TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn
Vai trò của TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn, thể hiện
ở những khía cạnh sau đây:
+ Một là: TTTDNT đóng vai trò quan trọng trong thu hút, phân bổ vốn
tín dụng, đầu tư phục vụ CNH, HĐH nông thôn, đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội ở khu vực nông thôn; khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Nếu như không có TTTDNT hoặc TTTDNT hoạt động kém hiệu quả
thì những khoản tiết kiệm nhỏ, lẻ, phân tán và tạm thời nhàn rỗi sẽ tiếp tục
nằm im dưới dạng "của cải dự trữ"; không thể sinh lợi cho các chủ thể nắm
giữ của cải đó, cũng không có tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế,
đảm bảo tiến bộ xã hội.
Đồng vốn nhàn rỗi trong dân cư không luân chuyển trong lưu thông,
khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ rơi vào tình trạng thiếu vốn, sản xuất không
phát triển và nền kinh tế sẽ rơi vào "vòng luẩn quẩn": tiết kiệm thấp, đầu tư
12


thấp, sản xuất không phát triển, thu nhập thấp. Trái lại, TTTDNT hình thành và
phát triển sẽ thực hiện được chức năng là kênh dẫn vốn gián tiếp quan trọng ở
khu vực nông thôn. Thông qua TTTDNT những khoản tiết kiệm chưa tiêu
dùng, những đồng tiền phân tán, nhỏ lẻ và tạm thời nhàn rỗi ở trong tay các chủ
thể cung vốn (cá nhân, hộ gia đình, tổ chức xã hội, doanh nghiệp...) thuộc mọi
thành phần kinh tế được chuyển đến các trung gian tài chính. Qua kênh dẫn
vốn này vốn tín dụng đến những chủ thể chưa có vốn hoặc thiếu vốn, đang có
nhu cầu vay vốn tín dụng đầu tư phát triển kinh tế, phát triển xã hội ở khu vực
nông thôn. Chính quá trình luân chuyển vốn từ chủ thể cung vốn sang chủ thể

cầu vốn trên TTTDNT thông qua các trung gian tài chính đã đặt thị trường huy
động vốn này vào vị trí là một trong những kênh huy động vốn quan trọng bậc
nhất trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. TTTDNT thu hút, huy động
vốn tiết kiệm của dân cư, hình thành nguồn vốn lớn, tập trung, góp phần tạo
vốn để thực hiện CNH, HĐH nông thôn, trước hết là: phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn hiện đại, nhất là phát triển đường giao thông liên tỉnh, liên huyện,
liên xã, liên thôn; phát triển mạng lưới điện, thông tin liên lạc; xây dựng các
công trình thủy lợi… phục vụ đắc lực cho chuyển dịch CCKT nông thôn hiện
đại, bền vững, phù hợp và hội nhập kinh tế quốc tế, đó là: giảm nhanh tỷ trọng
sản phẩm nông nghiệp và lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng sản phẩm
và lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn; mở rộng
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề dịch vụ ở khu vực
nông thôn đặc biệt là khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống để vừa
giữ được bản sắc truyền thống của dân tộc, vừa tiến theo quá trình hội nhập,
đảm bảo tính hiện đại trong sản phẩm, tăng hàm lượng giá trị vô hình vào SX KD; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với thị trường trong nước,
quốc tế; nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường. Đồng thời,
TTTDNT phát triển gián tiếp góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động ở khu vực nông thôn. Suy đến cùng, phát triển TTTDNT thúc
đẩy mạnh mẽ cung - cầu tín dụng; khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
+ Hai là, phát triển TTTDNT góp phần nâng cao năng lực hạch toán
kinh doanh của các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn, đặc biệt chủ thể kinh
13


tế là các hộ gia đình nông dân, đẩy mạnh SX - KD gắn với thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Khó khăn lớn nhất của nhiều nước, trong đó có Việt Nam khi chuyển
đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế KTTT đó là tư duy
chậm đổi mới để tiến kịp nền KTTT. Sự thiếu nhanh nhạy, thiếu thông tin và
thiếu hiểu biết về KTTT của chủ thể kinh tế ở nông thôn cản trở thiết lập, xây

dựng dự án SX - KD; khả năng hạch toán kinh doanh yếu. TTTDNT hình
thành và phát triển như là một "cú huých" làm chuyển động tư duy của chủ
thể sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa. Chủ thể kinh tế nói chung,
nông dân nói riêng buộc phải tự suy nghĩ trên luống cày của mình, SX - KD
sản phẩm gì? Ai là người tiêu thụ sản phẩm? Làm như thế nào để đem lại hiệu
quả kinh tế cao nhất? Nghĩa là, tư duy của họ gắn với nền KTTT. Dân cư
nông thôn đa số là người nghèo, năng lực tài chính thấp, nội lực hạn chế,
không thể tự tài trợ đầy đủ vốn cho dự án SX - KD buộc phải huy động vốn từ
bên ngoài, trong đó có huy động vốn tín dụng trên TTTDNT. Khi họ vay vốn,
tất yếu phải tuân thủ theo quy luật: có vay, có trả (cả gốc và lãi) cho chủ thể
cung vốn tín dụng. Sức ép đó buộc chủ thể kinh tế phải xây dựng, phát triển
các dự án kinh doanh sao cho có hiệu quả để vừa có khả năng trả nợ được
khoản đi vay vừa có lợi nhuận để tái SX - KD, tái sản xuất sức lao động để
làm giàu cho mình, cho xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các chủ thể
kinh tế ở nông thôn nói chung, hộ gia đình nông dân sản xuất hàng hóa nói
riêng phải đối mặt với cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Xu thế
đó đặt ra yêu cầu đối với các chủ thể kinh tế phải đổi mới nhận thức và hành
động trong hoạt động SX - KD. Tất nhiên, bước chuyển đó không phải ngay
lập tức mà phải dần dần. Phát triển TTTDNT đã gián tiếp nâng cao năng lực
hạch toán kinh doanh của chủ thể kinh tế trong cơ chế KTTT hiện đại.
+ Ba là, phát triển TTTDNT không chỉ tạo nên sự đa dạng, phong phú
các kênh, huy động và cho vay vốn phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn mà còn tạo động lực cạnh tranh trên thị trường vốn cả nước nói chung,
thị trường vốn ở khu vực nông thôn nói riêng.
14


Nền KTTT càng phát triển, hệ thống các kênh dẫn vốn càng trở nên đa
dạng: Kênh dẫn vốn trực tiếp (thông qua thị trường chứng khoán) và kênh dẫn

vốn gián tiếp (thông qua các trung gian tài chính, bao gồm ngân hàng và các
tổ chức phi ngân hàng). Hai kênh dẫn vốn này tác động lẫn nhau, cạnh tranh
nhau cùng phát triển; làm tăng nhanh vòng luân chuyển, các nguồn tài chính,
đồng thời hạ thấp chi phí, tăng tính hiệu quả kinh tế cho chủ thể cung vốn và
chủ thể cầu vốn; phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn.
Tuy nhiên, nông thôn là khu vực rộng lớn về đất đai, đông đúc về dân
cư và cũng thường là khu vực kém phát triển hơn so với các khu vực kinh tế
khác. Hơn nữa, kinh tế ở khu vực này chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp chế biến nông - lâm sản, tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền
thống… Năng lực tài chính của các chủ thể kinh doanh yếu; dự án kinh doanh
nhỏ; món vay thường nhỏ, lẻ nhưng số lượng món vay lớn; khả năng kinh
doanh hạn chế… Những yếu thế đó dẫn đến việc huy động vốn trực tiếp trên
thị trường chứng khoán là rất khó khăn, kể cả trong tương lai gần. Do đó, phát
triển TTTDNT không chỉ đáp ứng được nhu cầu đa dạng, phong phú vốn SX KD của mọi tầng lớp dân cư nông thôn mà còn tiếp tục phát huy vai trò của
kênh dẫn vốn gián tiếp, quan trọng nhất cung ứng vốn thực hiện mục tiêu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện mới và hoàn cảnh mới hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
+ Bốn là, thông qua phát triển TTTDNT Nhà nước có thể thực thi các
chính sách tài chính - tiền tệ, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong phát triển kinh tế
nông thôn.
CNH, HĐH nông thôn là một quá trình lâu dài, đầy khó khăn, phức
tạp. Bởi vì, nông thôn là khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn, song xuất phát
điểm của sự nghiệp CNH, HĐH rất thấp: Dân số đông, tỷ lệ lao động làm
nông nghiệp cao; trình độ lao động thấp; khoa học - công nghệ và kết cấu hạ
tầng khu vực nông thôn lạc hậu… dẫn đến năng suất, chất lượng hàng nông
15


sản cũng như sản phẩm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… chưa cao.
Trong khi đó, sức ép của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn.

Để khắc phục những khó khăn trên, không chỉ huy động tổng lực các
nguồn lực đầu vào phục vụ quá trình CNH, HĐH nông thôn, phát triển kinh tế xã hội nông thôn mà còn cần phải phát triển đồng bộ và có chất lượng các loại
thị trường, trong đó, ở khu vực nông thôn phát triển TTTDNT đóng một vai
trò quan trọng đặc biệt. Thông qua phát triển TTTDNT, Chính phủ có thể
thực hiện việc điều tiết (bơm - hút) các dòng vốn, đẩy mạnh luân chuyển tiền
tệ theo cơ chế thị trường mở. Đồng thời, Nhà nước cũng có thể sử dụng các
công cụ: công cụ lãi suất, công cụ tái chiết khấu, công cụ dự trữ bắt buộc…
thực hiện điều tiết vĩ mô trong huy động vốn tín dụng đầu tư thực hiện CNH,
HĐH và phát triển kinh tế nông thôn; đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh
tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
+ Năm là, Phát triển TTTDNT góp phần giảm bớt, tiến tới xóa bỏ tệ
nạn cho vay nặng lãi; làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng, tạo điều kiện
thuận lợi để dân cư nông thôn huy động vốn thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn; xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn, thị trường tín dụng phi chính thức vẫn có điều kiện phát triển. Ngoài
những tác động tích cực (tạo thêm kênh huy động vốn cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn; dân cư dễ tiếp cận tới nguồn vốn tín dụng phi chính thức
do thủ tục đơn giản, thời gian vay - trả vốn không cố định…), thị trường tín
dụng phi chính thức còn có mặt trái (lãi suất rất cao, rủi ro đến với người dân
nghèo vay vốn trên thị trường này thường trực…), tệ nạn cho vay nặng lãi có
điều kiện phát triển. Ở một số nơi, tệ nạn cho vay nặng lãi phát triển mạnh
gây bất lợi cho tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thậm chí làm
bất ổn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này.
Vì vậy, phát triển TTTDNT chính thức có hiệu quả sẽ thu hẹp dần thị
trường tín dụng phi chính thức ở khu vực nông thôn, xóa bỏ triệt để tệ nạn
cho vay nặng lãi, lành mạnh hóa quan hệ tín dụng trên TTTDNT.
16



Chuyên đề 2
CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TS. Phạm Thị Khanh
CN. Trần Thị Tuyết Lan

1. Khả năng cung ứng vốn tín dụng và khả năng cầu vốn của các
chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn có tác động trực tiếp tới phát triển
tín dụng trên TTTDNT
Theo lý thuyết của kinh tế học hiện đại, thị trường tín dụng nói chung,
TTTDNT nói riêng chịu sự tác động trực tiếp của nhân tố cung vốn tín dụng
và nhân tố cầu vốn tín dụng; giá cả (lãi suất) trên thị trường vốn tín dụng; sự
điều chỉnh cung - cầu vốn tín dụng thông qua lãi suất trên TTTDNT dẫn đến
cân bằng cung - cầu vốn tín dụng.
Cung (Supply) vốn tín dụng chính là những khoản tiết kiệm hay thu
nhập chưa tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh tế, của dân
cư… được chuyển đến các trung gian tài chính (chủ yếu là ngân hàng) hình
thành nên khối lượng tiền tệ, sẵn sàng cung ứng trên TTTDNT. Đó là:
- Những khoản tiết kiệm của dân cư.
- Những khoản tiết kiệm của các loại hình doanh nghiệp.
- Các Quỹ tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức xã hội.
- Những khoản tiết kiệm của NSNN Trung ương và NSNN địa phương.
- Khối lượng tiền tệ lưu thông ngoài ngân hàng và mức giảm dự trữ
tiền tệ của hệ thống ngân hàng cũng như các trung gian tài chính khác…
Cầu (Demand) vốn tín dụng là nhu cầu vay vốn tín dụng để đầu tư của
các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn, bao gồm:
17



- Nhu cầu vốn tín dụng của dân cư (cá nhân và hộ SX - KD).
- Nhu cầu vốn tín dụng của các loại hình doanh nghiệp.
- Nhu cầu vốn tín dụng của Nhà nước Trung ương và chính quyền địa
phương (hay sự thâm hụt NSNN Trung ương và chính quyền địa phương cần
phải bù đắp).
- Mức giảm khối lượng tiền tệ cung ứng và mức tăng dự trữ tiền tệ.
Tập hợp nhu cầu vốn tín dụng của các chủ thể kinh tế hình thành lực
lượng cầu vốn tín dụng ở khu vực nông thôn. Cung - cầu vốn tín dụng trên
TTTDNT phụ thuộc vào giá cả (lãi suất) của vốn tín dụng. Hay nói một cách
khác mức tăng, giảm của cung - cầu vốn tín dụng do lãi suất tín dụng trên
TTTDNT quyết định. Cung - cầu tín dụng đạt cân bằng ở mức lãi suất (giá
vốn) nhất định, phản ánh qua đồ thị sau:
Sơ đồ: Cung - cầu vốn tín dụng trên TTTDNT
(Lãi suất) i
D (Cầu)
S (Cung)
i0

E0

Q0

Q
(Lượng tiền tín dụng)

Như vậy, yếu tố lãi suất và cung - cầu tín dụng trên TTTDNT luôn
tác động qua lại lẫn nhau, ngược chiều nhau, thúc đẩy nhau cùng tồn tại và
phát triển. Đối với cầu tín dụng: khi lãi suất tăng, cầu tín dụng giảm và ngược
lại. Khi lãi suất giảm, cầu tăng lên. Đối với cung tín dụng: Khi lãi suất tăng,
cung tín dụng tăng lên và khi lãi suất giảm, cung tín dụng giảm theo. Cung cầu tín dụng đạt mức cân bằng ở E o, với mức lãi suất i o và khối lượng tiền tín

dụng ở Qo.
18


Sơ đồ phản ánh sự tác động qua lại lẫn nhau giữa cung tín dụng và cầu
tín dụng trên TTTDNT, phụ thuộc vào lãi suất tín dụng. Xét về bản chất, đó chính
là sự tham gia của các chủ thể cung - cầu vốn tín dụng ở khu vực nông thôn. Nếu
thiếu sự xuất hiện của các chủ thể đó sẽ không thể hình thành và phát triển
TTTDNT. Do đó, nhân tố cung - cầu vốn tín dụng là một trong những nhân tố
quan trọng nhất, quyết định nhất tới sự mở rộng hay thu hẹp TTTDNT cũng như
đánh giá chất lượng phát triển TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn.
2. Trình độ phát triển của hệ thống tài chính nói chung, hệ thống
các trung gian tài chính nói riêng ảnh hưởng tới sự phát triển của
TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn
- Sự trưởng thành của hệ thống tài chính và các trung gian tài chính
không chỉ coi là tiêu thức quan trọng đánh giá sự phát triển của nền KTTT
hiện đại, hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là nhân tố cơ bản thúc đẩy sự
trưởng thành và lớn mạnh của TTTDNT. Một hệ thống tài chính phát triển ở
trình độ cao vừa có thể tập trung được nguồn tài chính, hình thành sức mạnh
tài chính mà còn mở rộng, giao lưu và luân chuyển nhanh chóng các luồng
vốn đầu tư trên phạm vi ngành, vùng, quốc gia, khu vực và trên phạm vi toàn
cầu; thực hiện "bơm - hút" hiệu quả các nguồn lực tài chính nói chung, nguồn
vốn tín dụng nói riêng phục vụ mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Ngược lại, hệ thống tài chính cũng như các trung gian tài chính yếu kém sẽ là
một trở lực, ngăn cản sự giao lưu các nguồn vốn; vốn tín dụng sẽ rất khó tới
được khu vực nông nghiệp, nông thôn - nơi khó hấp dẫn các nguồn vốn đầu
tư, nhất là vốn tín dụng; TTTDNT sẽ kém phát triển.
- Trong nền KTTT hiện đại, sự trưởng thành của hệ thống các trung
gian tài chính ở khu vực nông thôn không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để các
chủ thể cung vốn và các chủ thể cầu vốn dễ dàng tiếp cận với nhau trên

TTTDNT mà còn cung cấp nhanh, chính xác và kịp thời các thông tin về chủ
thể cung và chủ thể cầu vốn tín dụng. Từ đó, giảm thiểu các rủi ro, bất trắc
liên quan tới thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch về năng lực của các chủ
thể tham gia trên TTTDNT. Nhờ đó, giảm được rủi ro, giảm chi phí đầu tư,
19


nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển SX - KD; thúc đẩy CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn tăng trưởng và phát triển.
3. Năng lực sử dụng vốn tín dụng của các chủ thể cầu vốn tín dụng
tác động tới việc thu hẹp hay mở rộng TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH
Huy động vốn của các trung gian tài chính ở khu vực nông thôn chỉ là
điều kiện cần để phát triển TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH. Điều kiện
đủ để TTTDNT phát triển còn tùy thuộc vào khả năng hay năng lực sử dụng
vốn tín dụng của các chủ thể cầu vốn trên TTTDNT.
Mục đích đầu tư vốn tín dụng của các chủ thể vay vốn trên TTTDNT
là rất phong phú, đa dạng. Các chủ thể cầu vốn tín dụng có thể dùng khoản
vốn tín dụng đầu tư đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ,
hiện đại, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn hay trực
tiếp phát triển kinh tế nông thôn, như: Phát triển nông nghiệp hàng hóa, lựa
chọn cây trồng, vật nuôi có lợi thế để phát triển các vùng chuyên canh, gắn
với công nghiệp chế biến nông, lâm sản, hướng về thị trường trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Một
khi chủ thể vay vốn tín dụng đủ lớn, kịp thời, sử dụng đồng vốn vay hiệu quả
không những đảm bảo trả được nợ gốc mà còn có điều kiện thanh toán lãi cho
các trung gian tài chính; thúc đẩy SX - KD cũng chính là tạo ra tăng trưởng và
phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân, trước
hết là dân cư ở khu vực nông thôn. Đây chính là đảm bảo sự tồn tại, phát triển
vững chắc của TTTDNT và ngược lại. Nói cách khác, sử dụng hiệu quả vốn tín
dụng sẽ tạo đà cho tích lũy và đầu tư, thúc đẩy TTTDNT phát triển bền vững.

4. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng tới phát triển
TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH, mọi
Nhà nước, không phân biệt chính trị - xã hội đều thể hiện quyền lực hay sức mạnh
của mình thông qua điều tiết các chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách phát
triển thị trường tài chính nói chung, chính sách phát triển TTTDNT nói riêng.
20


Nếu mục đích của Nhà nước lấy xây dựng xã hội ngày càng hiện đại,
công bằng, dân chủ, văn minh thì động lực chính là phải đẩy mạnh tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững, đặc biệt phải hướng tới phát triển mạnh
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn. Xuất phát từ điều kiện về kinh tế, lịch
sử và tự nhiên, khu vực nông thôn thường có sự lạc hậu tương đối so với các
khu vực khác. Do đó, định hướng chiến lược của Nhà nước tạo điều kiện cho
khu vực nông thôn phát triển thông qua điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô,
nhất là chính sách đẩy mạnh phát triển TTTDNT.
- Nhà nước định hướng chiến lược phát triển hiệu quả TTTDNT thông
qua việc thúc đẩy, mở rộng mạng lưới các trung gian tài chính ở khu vực
nông thôn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội
giữa nông thôn và thành thị. Thông qua chính sách phát triển TTTDNT, Nhà
nước tác động vào các chủ thể cung - cầu vốn tín dụng ở khu vực nông thôn,
nhất là hộ nghèo, vùng nghèo (miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa), có thể
dễ dàng tiếp cận tới TTTDNT bằng nhiều cách: đơn giản hóa thủ tục vay và
cho vay; đổi mới phương thức cho vay, hình thành các ngân hàng lưu động,
cho phép hình thành tổ, nhóm vay vốn tín dụng… Nhờ vốn tín dụng, các chủ
thể SX - KD ở khu vực nông thôn có thể phát huy được lợi thế của mình, đẩy
mạnh phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường
trong nước và ngoài nước… Khi sản xuất kinh tế nông thôn có đầu ra, khả
năng sử dụng vốn tín dụng của dân cư nông thôn có hiệu quả sẽ tạo ra sự

trường tồn và phát triển không ngừng của thị trường tài chính nói chung,
TTTDNT nói riêng.
- Nhà nước có thể thực hiện chính sách cho vay tín dụng với lãi suất
ưu đãi đối với phát triển kinh tế nông thôn. Việc cho vay lãi suất ưu đãi đối
với phát triển kinh tế nông thôn thông qua nhiều kênh, hoặc Nhà nước trực
tiếp trích NSNN bổ sung vào vốn điều lệ cho các ngân hàng thực hiện các
chính sách xã hội (phương án này khá hiếm), hoặc giao trách nhiệm cho các
ngân hàng chuyên trách, chẳng hạn Ngân hàng chuyên thực hiện các chính
sách xã hội…
21


- Thông qua điều tiết vĩ mô, Nhà nước có thể định hướng, thậm chí
quy định (có tính pháp lệnh) cho các trung gian tài chính trên địa bàn nông
thôn thực hiện cho vay theo mục tiêu, chương trình, dự án nếu xét thấy có
hiệu quả. Những khoản cho vay nhằm vào mục đích phát triển kết cấu hạ tầng
phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế nông thôn; hình thành các vùng cây
chuyên canh, vật nuôi hàng hóa; các sản phẩm hàng hóa phi nông nghiệp khác
có thị trường tiêu thụ rộng lớn ở cả trong nước, nước ngoài; hoặc các dự án
thực hiện mục tiêu kép - phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Nhất là, Nhà
nước định hướng cho vay tín dụng phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở
những vùng nghèo, hộ nghèo có ý chí thoát khỏi đói nghèo, vươn lên khá và
giàu… Thông qua điều tiết vĩ mô bằng chính sách của Nhà nước đã thúc đẩy
TTTDNT phát triển phục vụ mục tiêu CNH, HĐH khu vực nông thôn.
- Thông qua điều tiết vĩ mô, Nhà nước gián tiếp tác động vào phát
triển TTTDNT; khuyến khích các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn áp
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nhất là nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và làng nghề truyền thống khác; đẩy mạnh khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư… Đối với những chủ thể kinh tế đi đầu trong ứng dụng tiến
bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất có thể khuyến khích bằng nhiều biện

pháp hoặc thưởng hoặc hỗ trợ bằng tiền, hiện vật, cho vay vốn đủ lớn… Khi
sử dụng thành công tiến bộ khoa học - công nghệ; xây dựng được những điển
hình kinh tế nhằm tạo ra sức lan tỏa, cuốn hút, thúc đẩy kinh tế nông thôn
phát triển. Những biện pháp mang tính hỗ trợ của Nhà nước tạo điều kiện cho
TTTDNT phát triển hiệu quả.
5. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ảnh hưởng tới quá
trình phát triển TTTDNT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn
- Cũng giống như bất cứ một loại thị trường nào, TTTDNT có nhiều
chủ thể kinh tế cùng tham gia hoạt động: chủ thể cung vốn - chủ thể cầu vốn
và các trung gian tài chính… lợi ích của các chủ thể trên TTTDNT là khác
nhau, thậm chí là ngược chiều nhau:
22


+ Các chủ thể cung vốn tín dụng nhượng "quyền sử dụng vốn tín
dụng" cho chủ thể cầu vốn tín dụng với mục đích thụ hưởng lãi suất cao nhất
có thể. Đồng thời dễ dàng, thuận lợi rút vốn khi cần thiết.
+ Các chủ thể cầu vốn tín dụng mua "quyền sử dụng vốn tín dụng" với
mong muốn mức lãi suất là thống nhất; thủ tục đơn giản, thuận lợi; lượng vốn
đủ lớn, phù hợp với chu kỳ phát triển SX - KD.
+ Các trung gian tài chính mong muốn nhận được lợi ích lớn nhất khi
thực hiện dịch vụ tài chính; phát triển được mạng lưới và khách hàng cung cầu vốn trên TTTDNT; đảm bảo an toàn đồng vốn đã huy động và cho vay…
Như vậy, về cơ bản, lợi ích của các chủ thể kinh tế tham gia trên
TTTDNT là khác nhau, nhưng cùng chung mục đích là góp phần tạo nên
TTTDNT. Tuy nhiên, bên cạnh sự hòa hợp, thống nhất đó còn tạo dựng nên
những mâu thuẫn, cần có sự bảo đảm của pháp luật để các chủ thể tham gia
vào TTTDNT thực hiện đúng và tốt quyền lợi và trách nhiệm của mình.
- Các chủ thể cung vốn và chủ thể cầu vốn trên TTTDNT có điểm
khác biệt so với các chủ thể cung vốn và chủ thể cầu vốn trên các thị trường
vốn khác là ở chỗ:

+ Tiềm lực tài chính của các chủ thể cung vốn ở khu vực nông thôn
không mạnh. Nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chỗ kinh tế nông thôn phát
triển chậm hơn so với các khu vực kinh tế khác, dẫn đến thu nhập thấp, tích
lũy thấp, tiết kiệm thấp, lượng vốn huy động TTTDNT hạn hẹp.
+ Các chủ thể cầu vốn tín dụng sử dụng vốn chủ yếu vào phát triển
SX - KD trong ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền
thống... nhất là trong quá trình CNH, HĐH, lượng vốn yêu cầu cho đầu tư
phát triển ngày càng lớn để đầu tư phát triển kinh tế nông thôn hiện đại, đồng
bộ; sản phẩm hàng hóa có chất lượng, mở rộng được thị trường tiêu thụ ở cả
trong nước và ngoài nước; gắn kết với hội nhập kinh tế... Tuy nhiên, đại đa số
chủ thể cầu vốn tín dụng là nông dân, tư duy về KTTT đang hình thành, tâm
lý của người sản xuất nhỏ vẫn tiếp tục bám đuổi họ trong SX - KD. Tư duy
23


của nông dân thời kỳ bao cấp vẫn tồn tại đã cản trở quá trình mở rộng, phát
triển TTTDNT cũng như đảm bảo an toàn đồng vốn đã cho vay. Do đó, đổi
mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ, đảm
bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia TTTDNT; ngăn chặn, đẩy lùi
những tiêu cực có thể nảy sinh trong hoạt động huy động và cho vay vốn tín
dụng trên TTTDNT.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế trên TTTDNT bao
gồm: Các văn bản luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể cung, cầu vốn tín
dụng và các văn bản luật điều chỉnh chủ thể tham gia làm dịch vụ tín dụng
trên TTTDNT, như: Luật đầu tư, Luật tín thác, Luật hợp đồng, Luật dân sự,
Luật hình sự, Luật công ty, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật và pháp
lệnh ngân hàng, Luật bảo hiểm... Hệ thống luật hình thành cơ sở pháp lý điều
chỉnh các quan hệ kinh tế trên TTTDNT đầy đủ, đồng bộ và có chất lượng cao
sẽ thúc đẩy TTTDNT hoạt động lành mạnh, an toàn, hiệu quả, đáp ứng được
yêu cầu vốn tín dụng đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy

nhiên, xây dựng được hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, có chất lượng cao
chỉ là điều kiện cần để TTTDNT phát triển hiệu quả. Vấn đề quan trọng hơn
đó là triển khai và thực hiện luật hiệu quả, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà
nước, của nhân dân, phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi vi phạm
pháp luật liên quan tới TTTDNT, xử lý nghiêm minh các hành vi sai trái
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các chủ thể tham gia
trên TTTDNT.
6. Hệ thống thông tin kinh tế ảnh hưởng tới phát triển TTTDNT
trong quá trình CNH, HĐH nông thôn
Phát triển nền KTTT trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, hệ thống thông tin kinh tế đóng vai trò quyết định tới việc mở rộng
hay thu hẹp TTTDNT. Hệ thống thông tin kinh tế chính là căn cứ để các chủ
thể cung vốn và chủ thể cầu vốn, các trung gian tài chính tiến hành điều chỉnh
các hoạt động kinh tế của mình một cách hiệu quả.
24


Việc xác lập hệ thống thông tin kinh tế không chỉ cho biết tiềm lực tài
chính của chủ thể cung vốn mà còn xác định rõ tình hình huy động, cho vay
của các chủ thể cung vốn; năng lực sử dụng vốn tín dụng của các chủ thể cầu
vốn tín dụng trên TTTDNT; hiệu quả SX - KD của các chủ thể vay vốn... Từ
đó dự báo nhu cầu vốn tín dụng, chuẩn bị năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu
vốn tín dụng trong quá trình CNH, HĐH nông thôn; đảm bảo an toàn đồng
vốn đã huy động và cho vay, thúc đẩy phát triển hay thu hẹp TTTDNT.

25


×