Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế PHÁT TRIỂN KINH tế hộ GIA ĐÌNH MIỀN núi TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG cơ CHẾ THỊ TRƯỜNG ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.07 KB, 169 trang )

MỞ ĐẦU

1- Tính cấp bách của đề tài
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta, phát triển
kinh tế hộ gia đình nông dân, là một trong những chủ trương và giải pháp
phát triển kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu
nổi bật đạt được trong những năm đổi mới vừa qua đã khẳng định tính
đúng đắn và khoa học của chủ trương và giải pháp đó. Hiện nay, "Kinh tế
hộ gia đình ở nông thôn... (vẫn đang) là loại hình tổ chức sản xuất có hiệu
quả về kinh tế - xã hội, (sẽ) tồn tại, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn" [43, 11].
Vùng núi nước ta chiếm 3/4 diện tích cả nước, là vùng có ý nghĩa
chiến lược trong các cuộc cách mạng. Hiện nay, là địa bàn sinh sống của
24 triệu người, với 54 dân tộc anh em. Các hộ gia đình dân tộc và miền núi,
trước đây cũng như hiện nay phần lớn là những hộ gia đình nông dân
(khoảng 3 triệu hộ), vì vậy mọi sự đổi thay về kinh tế miền núi trước hết
được biểu hiện ở sự chuyển biến trong nông nghiệp, nông thôn và hình
thức kinh tế hộ gia đình nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, sản
xuất nông nghiệp miền núi đã có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ
khá. Sự đóng góp vào những tiến bộ chung đó của hình thức kinh tế hộ gia
đình nông dân miền núi là to lớn và quan trọng. Tuy nhiên, so với những
kết quả và thành tựu đạt được thì những việc chưa làm được, những tồn tại
yếu kém của kinh tế hộ gia đình nông dân như trình độ phát triển còn ở
mức rất thấp, thực trạng sản xuất nhỏ, tự nhiên, tự cung tự cấp và đói nghèo
còn là phổ biến, nhiều vấn đề bức thiết trong quá trình phát triển chưa được
quan tâm giải quyết thỏa đáng, còn làm day dứt nhiều cấp, nhiều ngành.
1


Thực tế đó, đã và đang đặt ra những yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu, khảo


sát đánh giá một cách khách quan thực trạng kinh tế hộ gia đình nông dân vùng dân tộc
và miền núi, từ đó xác định một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn để thúc đẩy hình
thức kinh tế đó phát triển nhanh và bền vững.
Là người dân tộc, là cán bộ của tỉnh Sơn La, sau nhiều năm công tác, học tập,
nghiên cứu tôi đã lựa chọn đề tài: "Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", nhằm góp một phần đáp ứng những yêu
cầu cấp bách đó.
2- tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua nghiên cứu cho thấy, phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân nói chung
trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta, đã được thể hiện trong các nghị
quyết của Đảng và chỉ thị của Nhà nước.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng đã có nhiều công trình, bài viết của
nhiều nhà nghiên cứu được công bố, chẳng hạn:
- Tập thể các tác giả: "Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất hàng
hóa ", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1993.
- PTS. Nguyễn Hữu Đạt: "Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông dân phát triển
kinh tế hộ gia đình", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- PTS. Chu Văn Vũ (chủ biên): "Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam", Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- PTS. Nguyễn Xuân Nguyên (chủ biên): "Khuynh hướng phân hóa hộ nông
dân trong phát triển sản xuất hàng hóa", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- GS.VS Đào Thế Tuấn: "Kinh tế hộ nông dân", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1997.
- PTS. Vũ Tuấn Anh và PTS. Trần Thị Vân Anh: "Kinh tế hộ - lịch sử và triển
vọng phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.

Và các chương trình nghiên cứu cấp nhà nước, các luận án Phó tiến
sĩ về đề tài nông hộ, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về:


2


"Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá trình chuyển sang có chế thị trường",
một cách đầy đủ, có hệ thống của chuyên ngành kinh tế học phát triển.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Làm rõ hơn cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hộ
gia đình nông dân trong cơ chế thị trường và thực tiễn phát triển kinh tế hộ gia đình
nông dân miền núi. Từ đó, xác định quan điểm, phương hướng và những giải pháp cơ
bản nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đó luận án có nhiệm vụ:
- Phân tích và lý giải: 1. Phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân trong cơ chế
thị trường - một tất yếu khách quan. 2. Phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân ở một số
quốc gia trên thế giới.

- Đánh giá thực trạng kinh tế hộ gia đình miền núi nói chung và
miền núi Tây Bắc nói riêng. Xác định được nguyên nhân của thực trạng và
một số vấn đề mới phát sinh.
- Trình bày và đề xuất một số quan điểm, phương hướng và những giải pháp cơ
bản nhằm đẩy nhanh sự phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
4- Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Vùng núi nước ta, do sự thấp kém về trình độ phát triển, nên phát
triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong cơ chế thị trường đang gặp rất
nhiều khó khăn, bất cập về nhiều mặt, thực tế đó đặt ra nhiều vấn đề cần
nghiên cứu giải quyết.
Do nhiều lý do, trong đó có lý do về năng lực bản thân tác giả, vì vậy, phạm vi,
giới hạn của đề tài là nghiên cứu: Phát triển của kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi,

trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay (qua kết quả nghiên
cứu và khảo sát thực tế ở vùng núi Tây Bắc).
5- Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên nền tảng phương pháp luận là phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt

3


Nam về phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, đồng thời có sử dụng một số kiến thức kinh
tế học hiện đại.
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như so sánh, phân tích thống
kê, nghiên cứu điển hình, phương pháp hệ thống.
Để nâng cao tính khả thi của các giải pháp, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân
tích các mô hình, nhân tố mới một số tỉnh miền núi đã đạt được nhiều thành công trong
việc phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hóa vận động theo cơ chế
thị trường.
6- Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Phân tích rõ hơn vai trò, tính đặc thù, những đặc điểm riêng của kinh tế hộ gia
đình nông dân miền núi.
- Luận giải những nhân tố ảnh hưởng, chi phối sự phát triển kinh tế hộ gia đình
nông dân miền núi trong cơ chế thị trường.
- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, phương hướng, biện pháp cụ thể nhằm
phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi ở nước ta hiện nay.
7- Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ

HỘ GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TRONG CƠ
CHẾ THỊ TRƯỜNG - MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN

Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, thành tựu to lớn mà dân
tộc ta đạt được trong hơn mười năm đổi mới vừa qua luôn có sự đóng góp
rất quan trọng của kinh tế hộ gia đình nông dân Việt Nam. Qua đó đã hình
thành và phát triển một nhóm các hộ giàu và khá, biết làm ăn, vững vàng
trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy vậy, vẫn còn một bộ
4


phận không nhỏ hộ gia đình (tập trung chủ yếu ở miền núi) đang lâm vào
cảnh khó khăn, túng thiếu, làm ăn kém hiệu quả, "chênh vênh" trước quyền
tự chủ của mình. Thực tế đó đã và đang đặt ra yêu cầu: Trong quá trình
chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, phát triển kinh tế hộ gia
đình miền núi như thế nào để vừa sát với điều kiện cụ thể của miền núi một vùng lãnh thổ đặc biệt, vừa hợp quy luật và hợp lòng dân.
Để có câu trả lời đúng đắn, cần bắt đầu từ việc nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về thị trường, cơ chế thị trường.
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về thị trường và cơ chế thị trường
Kinh tế tự nhiên, trong lịch sử phát triển, là hình thức kinh tế đầu
tiên của loài người, với những đặc trưng cơ bản, sản xuất những sản phẩm
nhằm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất, thường bị khép kín
trong phạm vi đơn vị sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, ít có quan hệ với bên
ngoài, mang đậm tính bảo thủ và trì trệ. Hình thức kinh tế này đã tồn tại
trong một thời gian dài từ thời kỳ công xã Nguyên thủy, chiếm hữu Nô lệ
đến chế độ Phong kiến.
Kinh tế hàng hóa, bước phát triển cao và kế tiếp của kinh tế tự
nhiên, là kết quả của việc mở rộng và gia tăng sự phân công lao động của

xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong kinh tế hàng hóa,
người sản xuất tạo ra những sản phẩm không chỉ thỏa mãn nhu cầu trực
tiếp của mình mà chủ yếu nhằm để bán trên thị trường.
Quá trình phát triển của kinh tế hàng hóa đến nay đã trải qua ba giai đoạn: kinh
tế hàng hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do, và kinh tế thị trường hiện đại. Tuy đã có
bước phát triển khá dài và đạt nhiều thành tựu to lớn nhưng hiện nay trong lĩnh vực
nghiên cứu khái niệm "thị trường" vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau:
Theo A.Smuelson: Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người
bán tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa [49, 53].

5


Theo Davidbegg - fisher: Thị trường (theo nghĩa hẹp) - Là tập hợp
các sự thỏa mãn thông qua đó người mua - bán tiếp xúc với nhau để trao
đổi hàng hóa và dịch vụ [10, 45].
Theo các nhà kinh tế Trung Quốc: Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa được
sản xuất ra và hình thành trong quá trình sản sản xuất và trao đổi hàng hóa cùng với mọi
quan hệ kinh tế giữa người với người liên kết với nhau thông qua trao đổi hàng hóa. Vì
vậy, thị trường theo nghĩa rộng là để chỉ các hiện tượng kinh tế được phản ánh thông
qua trao đổi và lưu thông hàng hóa, cùng các quan hệ kinh tế và mối liên hệ kinh tế do
đó mà được liên kết lại. Theo nghĩa hẹp, thị trường là khu vực và không gian trao đổi
hàng hóa. Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào, thì thị trường phát triển đến
trình độ đó [3, 114].
Một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng: Góc độ quan hệ kinh tế, thị trường là
tổng hòa các quan hệ kinh tế thực hiện việc trao đổi hàng hóa trong hình thái kinh tế
hàng hóa. Thị trường, dưới góc độ tổ chức việc trao đổi hàng hóa, là vị trí địa lý kinh tế,
ở đó cung - cầu gặp nhau và được thỏa mãn. Nói cách khác thị trường là những tập kết
của các quan hệ kinh tế hàng hóa, là vũ đài của những người sản xuất hàng hóa.


Qua các ý kiến khác nhau, có thể hiểu (theo cách hiểu chung nhất):
Thị trường, là tổng hợp các điều kiện, các nhân tố để thực hiện giá trị hàng
hóa, phản ánh mối quan hệ giữa người với người (nhà sản xuất và người
tiêu dùng) trong lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, quan niệm về thị trường đã và đang được xem xét từ
nhiều góc độ, phản ánh tính đa dạng và phức tạp của phạm trù này. Tuy
nhiên, điểm chung cơ bản mà hầu như quan niệm nào cũng đề cập đến đó là
người bán và người mua và quan hệ mua - bán giữa hai chủ thể đó là hạt
nhân tạo lập thị trường. Những hành vi đó diễn ra không hề tùy tiện hay lộn
xộn mà luôn theo các yêu cầu nghiêm ngặt do sự tác động và điều tiết của
các quy luật đặc thù của thị trường. Đối với nhà sản xuất hàng hóa cần phải

6


giải quyết các vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho
ai?
Theo các nhà kinh tế Việt Nam, (tiêu biểu là Phó giáo sư Đào Xuân
Sâm), cho rằng: Thị trường (như cách hiểu trên) là một hệ thống lớn, gồm
ba phân hệ, tức là ba thị trường cơ bản gắn bó với nhau:
- Thị trường các loại hàng hóa.
- Thị trường sức lao động.
- Thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Hệ thống thị trường cũng như mỗi phân hệ đều có ba chức năng cơ bản và gắn bó
hữu cơ với nhau: Trước hết, đó là chức năng định giá, tức là tạo cơ chế khách quan của
việc hình thành giá cả thị trường gồm giá cả các loại hàng hóa, tiền lương tức giá cả sức
lao động, lãi suất tín dụng, lợi tức chứng khoán, tỷ giá đồng tiền... là giá cả thị trường
tiền tệ và thị trường vốn. Thứ hai, chức năng kích thích huy động mọi nhân tài, vật lực
vào phát triển sản xuất kinh doanh, với cơ chế cạnh tranh chọn lọc, vì mục đích mưu

cầu lợi ích, lợi nhuận, hiệu quả. Thứ ba, chức năng cân đối điều tiết các quan hệ tỷ lệ
trong sự phát triển kinh tế thông qua những biến động của quan hệ cung cầu, thể hiện qua
sự biến động về giá cả, tiền lương, lợi tức, tỷ giá.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bao
gồm ba nhân tố cơ bản sau:
+ Hệ thống thị trường với tư cách là hệ thống tự tổ chức và vận hành theo cơ
chế thị trường với những quy luật vốn có của nó.
+ Nhà nước với tư cách là nhân tố nội tại của nền kinh tế thị trường, làm chức
năng điều tiết từ bên trong, tạo thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
+ Các hình thức tổ chức sản xuất (trong đó có kinh tế hộ gia đình) hoạt động
trong thị trường, vừa chịu tác động của cơ chế thị trường, vừa đồng thời có tính tự chủ
và tác động tích cực trở lại với cơ chế đó.

Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, của
cả hệ thống thị trường cũng như mỗi phân hệ trong đó, nhằm thực hiện các
chức năng cơ bản của kinh tế thị trường; ứng với những chức năng cơ bản
đó, cơ chế thị trường cũng là tổng thể hữu cơ của các cơ chế: Định giá, kích
thích, huy động, cân đối, điều tiết. Cơ chế thị trường hình thành và hoạt
động theo những quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Cơ chế đó
có thể hoạt động tự phát, cũng có thể được vận dụng bởi chủ thể có thực
lực, nhận thức được quy luật, có kinh nghiệm quản lý nhà nước và hoạt
động kinh doanh có hiệu quả [48, 39-40].
Có thể nêu một số quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường: quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh:

7


Quy luật giá trị:


Là quy luật cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nội dung cơ
bản và yêu cầu khách quan của quy luật: Lượng giá trị của hàng hóa do thời
gian lao động tất yếu quyết định. Trao đổi hàng hóa phải lấy lượng giá trị
đó làm cơ sở để thực hiện trao đổi ngang giá. Sự hoạt động của quy luật
này thông qua giá trị trao đổi (tức giá cả), trao đổi ở đây được thực hiện
bằng tiền bao gồm tiền giấy, tín phiếu, trái phiếu, vàng...
Trong sản xuất, dưới tác động của quy luật giá trị buộc các nhà sản xuất hàng
hóa phải thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm, cải tiến kỹ thuật và quản lý, nâng cao chất lượng mặt hàng. Trong lưu thông,
quy luật giá trị có tác dụng hình thành giá cả thị trường, điều chỉnh cung cầu. Do vậy,
các nhà sản xuất kinh doanh trong đó có hộ gia đình muốn tồn tại và phát triển trong cơ
chế thị trường cần nắm vững nội dung yêu cầu cơ bản của quy luật giá trị.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, đối tượng sản xuất và kinh doanh của kinh tế
hộ gia đình nông dân chủ yếu là các loại nông sản hàng hóa, đối tượng đó có những đặc
điểm riêng, trong đó sự gắn bó hữu cơ giữa cây trồng vật nuôi với đất đai, khí hậu thời
tiết là một trong những đặc điểm riêng khá đặc thù. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của
kinh tế hộ gia đình nông dân không chỉ phụ thuộc vào quá trình đầu tư mà còn phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng. Chất lượng, chi phí trong việc sản xuất ra
một số loại sản phẩm nào đó đối với từng hộ, từng nhóm hộ ở những vùng, những quốc
gia khác nhau thường khác nhau.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của khoa học và công nghệ chỉ có thể hạn chế
một phần tác hại do thiên nhiên gây ra, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng
của điều kiện tự nhiên đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình. Những rủi ro,
thất thiệt mà kinh tế hộ gia đình nông dân phải gánh chịu, vì vậy, không chỉ do những
biến động của thị trường mà còn do sự khắc nghiệt của thiên nhiên gây ra. Để duy trì
quy mô sản xuất nông sản, Chính phủ và các nhà kinh doanh nông sản phải hình thành
nguồn tài chính bảo hiểm thiên tai và có những biện pháp hữu hiệu nhằm ổn định giá cả
thị trường.
Quy luật cung - cầu:


8


Quy luật cung - cầu là quy luật giá trị phát huy tác dụng trong thị trường. Quy
luật cung - cầu phản ánh mối quan hệ giữa hàng hóa mà người sản xuất cung cấp trên
thị trường với nhu cầu xã hội đối với hàng hóa đó.
"Cầu" là lượng một mặt hàng mà người mua, muốn mua ở một mức giá chấp
nhận được; "Cung" là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mức giá chấp
nhận được [10, 45]. Như vậy, trên thị trường luôn có hai lực lượng cơ bản nhất là người
bán và người mua (người tiêu dùng bao gồm tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân).
Hoạt động của quy luật thể hiện, khi giá cả tăng nhà sản xuất sẽ tăng lượng sản xuất để
tăng lợi nhuận và thu nhập và khi giá cả hạ người sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất và ở đây
cầu (người tiêu dùng) sẽ mua nhiều vì giá thấp và ngược lại. Điều đó giải thích vì sao
giá cả thị trường được hình thành ở điểm cân bằng cung - cầu.

Do một số đặc điểm chi phối, nên cung - cầu hàng hóa nông sản,
(nông sản hàng hóa như chúng ta đã biết là đối tượng kinh doanh chủ yếu
của kinh tế hộ gia đình nông dân), có những đặc điểm riêng rất cần được
quan tâm nghiên cứu:
- Hàng hóa nông sản, nhất là lương thực thực phẩm là nhu cầu tối cơ bản
nhưng là nhu cầu có giới hạn. Khi thu nhập thấp, để tồn tại, phần lớn thu nhập của hộ
gia đình dành để mua nông sản. Nhưng khi thu nhập tăng lên thì phần để chi tiêu cho
nông sản, nhất là lương thực - thực phẩm giảm xuống. Cùng với sự tăng lên của mức
sống thì cơ cấu tiêu dùng hàng nông sản của hộ gia đình cũng thay đổi theo hướng: Tỷ
lệ lương thực giảm, tỷ lệ thực phẩm và rau quả tăng, yêu cầu về chất lượng nông sản
cũng tăng lên.

- Trên thị trường khi cầu nông sản tăng, cung giảm, giá nông sản
tăng, hộ tiêu dùng khó có thể giảm ở mức cao mức tiêu dùng nông sản,
trong khi đó do chu kỳ kinh doanh nông nghiệp dài, nên không thể trong

vài ngày, vài tuần hộ gia đình nông dân có thể tạo ra nông sản để tăng cung
cho thị trường. Ngược lại, khi cung nông sản tăng, giá cả hạ, hộ gia đình

9


cũng không thể tăng tiêu dùng nông sản vượt quá nhu cầu tiêu dùng đòi
hỏi.
- Là hàng hóa nông sản thực phẩm nên tiêu chuẩn vệ sinh môi trường luôn
được hộ tiêu dùng quan tâm. Kỹ thuật trồng trọt, phương thức sử dụng phân bón hóa
chất, chất lượng chế biến là những yếu tố quyết định chất lượng hàng hóa nông sản,
quyết định cung cầu hàng hóa nông sản. Vì vậy để nông sản trở thành hàng hóa, kinh tế
hộ gia đình ngoài việc phải tích cực đổi mới kỹ thuật canh tác, cần quan tâm đến công
nghệ bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm.
- Do đối tượng sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ gia đình nông dân có đặc
điểm, là cơ thể sống, sản phẩm hàng hóa là hàng tươi sống, sản xuất mang tính thời vụ,
cung - cầu nông sản cũng thường tăng giảm theo mùa. Việc thừa hoặc thiếu nông sản
hàng hóa và sự biến động của giá cả thị trường nông sản thường do mùa vụ chi phối, tác
động.
Để có nông sản hàng hóa, kinh tế hộ gia đình nông dân phải trải qua quá trình
kinh doanh kéo dài. Ngoài một số cây ngắn ngày, gia súc nhỏ có chu kỳ sinh trưởng
ngắn, có nhiều cây trồng vật nuôi phải mất hàng năm hoặc nhiều năm mới cho sản
phẩm, điều đó cũng có nghĩa là để đạt điểm cân bằng cung - cầu của một số nông sản
cũng cần có nhiều thời gian và cung - cầu trong thị trường tiền tệ và thị trường vốn
không thể không tính đến thực tế: Tốc độ chu chuyển vốn kinh doanh của kinh tế hộ gia
đình nông dân thấp, chậm thu hồi vốn đầu tư. Đây cũng là khó khăn trở ngại lớn của các
hộ gia đình nông dân nghèo khi kinh doanh rừng, cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm
và chăn nuôi đại gia súc. Vì vậy, ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi hộ, nhiều loại nông
sản đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn nhất là thời kỳ đầu của các tổ chức tài chính, ngân
hàng, các doanh nghiệp Nhà nước.

Là sản phẩm tươi sống nên việc vận chuyển, bảo quản, chế biến nông sản là
điều kiện không thể thiếu để nông sản trở thành hàng hóa và là yếu tố tác động ảnh
hưởng lớn theo hướng tích cực và tiêu cực đối với quan hệ cung - cầu hàng hóa nông
sản. Ở miền núi nước ta công nghệ sau thu hoạch và chế biến nông sản yếu kém, hệ
thống cơ sở hạ tầng lạc hậu là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tỷ xuất hàng hóa của kinh tế

10


hộ gia đình nông dân đạt thấp.
Quy luật cung - cầu, đòi hỏi các nhà kinh doanh nói chung và kinh tế hộ gia
đình nông dân nói riêng phải thường xuyên nhận thức quan hệ cung - cầu của hàng hóa
đang kinh doanh hoặc dự kiến kinh doanh. Tức là phải hiểu được nhu cầu tiêu dùng của
xã hội, đó là vấn đề rất khó khăn đối với kinh tế hộ gia đình, bởi vì bản thân hộ gia đình
không có khả năng tiếp cận với thị trường trong nước và thế giới, do đó rất cần có sự hỗ
trợ giúp đỡ của nhà nước.
Quy luật cạnh tranh:
Là quy luật phản ánh mối quan hệ của những người sản xuất hàng hóa. Cơ sở
khách quan của cạnh tranh là sự khác nhau về lợi ích kinh tế giữa những người sản xuất
hàng hóa. Đây là một trong ba quy luật cơ bản của kinh tế thị trường, có quan hệ mật thiết
với quy luật giá trị và quy luật cung cầu.
Dưới sức ép của cạnh tranh đòi hỏi kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa để
đạt tới lợi nhuận cao, cần phải triển khai thực hiện các biện pháp tích cực như hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, văn minh trong giao tiếp và phục vụ, thực hiện
cạnh tranh lành mạnh, và cũng cần ngăn ngừa và cảnh giác với kiểu cạnh tranh không
lành mạnh như trốn thuế, làm hàng giả, nhập lậu hàng hóa...

Trên thị trường, cạnh tranh được phân làm hai loại: Cạnh tranh
hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo là khả năng gia nhập hoặc rút ra khỏi thị trường của người

tham gia thị trường hoàn toàn tự do, hành vi của họ (người bán và người mua) không
ảnh hưởng đến giá cả của thị trường.

Cạnh tranh không hoàn hảo (mang tính độc quyền) là kiểu cạnh
tranh mà khả năng gia nhập hoặc rút khỏi thị trường là khó khăn, hành vi
của họ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường.
Đối với kinh tế hộ gia đình do năng lực sản xuất hàng hóa có hạn nên chỉ có
thể tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Trong cơ chế thị trường, để tăng khả năng cạnh tranh, kinh tế hộ gia đình nông
dân cần khai thác lợi thế so sánh để tăng năng suất và hạ giá thành nông sản. Ở nước ta,

11


trước đây khi nền kinh tế còn hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thì nông
sản được sản xuất theo nguyên tắc "đất nào cây ấy", ngày nay trong quá trình chuyển sang
cơ chế thị trường người ta thường nhấn mạnh "sản xuất sản phẩm gì mà thị trường cần",
chứ không phải sản xuất cái gì có khả năng sản xuất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
trong cơ chế thị trường không cần đến mức độ thuận lợi của ruộng đất, điều kiện khí
hậu thời tiết. Trong kinh doanh nông nghiệp có định lý hiển nhiên là cùng một lượng đầu
tư như nhau nhưng năng suất hiệu quả khác nhau giữa các vùng, giữa các quốc gia. Do đó,
để tăng lợi nhuận, tăng lợi thế cạnh tranh thì việc phân vùng kinh tế, hình thành những
vùng chuyên môn hóa gắn với những lợi thế về ruộng đất, khí hậu thời tiết là một yêu
cầu khách quan.
Trên đây là các quy luật cơ bản kinh tế thị trường, giữa các quy luật có mối
quan hệ biện chứng. Các chủ thể sản xuất kinh doanh trong đó có kinh tế hộ gia đình,
khi chuyển sang cơ chế thị trường muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải chấp nhận
sự tác động của các quy luật đó. Sự tác động đó là khách quan hoàn toàn không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan và nguyện vọng của kinh tế hộ gia đình.


Vấn đề đặt ra là, tại sao chuyển sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế
thị trường là xu hướng phát triển tất yếu, mang tính quy luật của các hình
thức tổ chức sản xuất như kinh tế hộ gia đình nông dân? Một số công trình
nghiên cứu đã lý giải tính ưu việt của kinh tế hàng hóa so với kinh tế tự
nhiên tự cung tự cấp. So với kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa có nhiều ưu
điểm, trong đó có những ưu điểm nổi bật sau:
* Kinh tế hàng hóa kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, nâng cao trình độ xã hội hóa của sản xuất.

Trong kinh tế hàng hóa, lợi nhuận là mục tiêu, là động lực phát
triển. Để thu được lợi nhuận cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường
xuyên nghiên cứu áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới, hợp lý hóa sản xuất. Kết quả là làm tăng năng suất lao động cá
biệt và năng suất lao động xã hội. Do đó kinh tế hàng hóa, tuy mới ra đời

12


nhưng đã tạo ra một lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong
lịch sử phát triển của loài người.
* Kinh tế hàng hóa có tính năng động cao và khả năng thích nghi nhanh.

Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hàng hóa là: Người nào đưa ra thị
trường hàng hóa trước tiên thì người đó thường sẽ thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Nhà sản xuất sẽ thu hẹp hoặc ngừng sản xuất nếu sản phẩm không có
người mua, hay lượng cầu đang giảm, lao động xã hội nhờ đó sẽ được sử
dụng một cách tiết kiệm hơn, vì vậy, trên thị trường, luôn diễn ra quá trình
đổi mới, những sản phẩm mới với chất lượng, quy cách, phẩm chất ngày
càng hoàn thiện sẽ ra đời nhằm thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu
tiêu dùng.

* Kinh tế hàng hóa có những điều kiện để thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất, tinh thần và sự phát triển toàn diện của con người.

Trước yêu cầu và sự tác động mạnh mẽ của các quy luật sản xuất và
lưu thông hàng hóa, các nhà sản xuất kinh doanh phải thường xuyên mở
rộng, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Kết quả đạt
được của các hoạt động đó là tạo thêm những điều kiện thuận lợi để thỏa
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu vật chất, tinh thần và sự phát triển toàn
diện của con người.
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hóa cũng đã và đang bộc lộ những
khuyết tật, những mặt trái, như tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp; tình trạng ô
nhiễm môi trường không khí, nguồn nước, tàn phá đất đai, hủy hoại tài nguyên rừng...
vì mục đích lợi nhuận.
Trong lịch sử phát triển của mình, có thể thấy chưa bao giờ kinh tế thị trường
có sức bành trướng rộng lớn như hiện nay; và đi cùng với nó là những vấn đề cũng rất
phổ biến, đó là sự bùng nổ các vấn đề xã hội. Những từ ngữ tưởng đã đi vào dĩ vãng (như
khủng hoảng, xung đột, dân tộc, sắc tộc...) thì nay lại xuất hiện ở mức đáng sợ. Thất
nghiệp 10% được coi là bình thường, cuộc chạy đua tìm việc làm diễn ra quyết liệt. Sự
phân hóa giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ, ở nước Mỹ 10% số người nghèo nhất bị giảm đi

13


21% thu nhập. Các tệ nạn xã hội đã trở thành những chứng bệnh "Ung thư xã hội" mà
theo nhiều người cho là vô phương cứu chữa. hòa bình, ổn định của nhiều quốc gia trên
thế giới bi đe dọa bởi những mưu tính chính trị kinh tế của một số nước lớn. Trong suốt
50 năm qua (1946- 1996), thế giới của chúng ta đã phải chứng kiến và chịu đựng 198
cuộc chiến tranh với quy lớn nhỏ khác nhau. Sự kiện kinh hoàng mà ít ai lường nghĩ tới
đó là cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á và Đông Á năm 1997, là cuộc khủng
hoảng lớn nhất trong suốt 50 năm, với mức thiệt hại trên 2.000 tỷ USD Mỹ [70, 2-3].

Câu hỏi đặt ra, phải chăng kinh tế thị trường là thủ phạm của những căng thẳng
xã hội, những "bùng nổ" xã hội, những tệ nạn xã hội đó? Theo chúng tôi có thể còn do
nhiều nguyên nhân khác, nhưng nguyên nhân do những khuyết tật, những mặt trái của
kinh tế thị trường phải là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản.
Tóm lại, mặc dù còn nhiều khuyết tật cần "chạy chữa", khắc phục, song với
những ưu điểm nổi bật, hơn hẳn so với kinh tế tự nhiên, thì việc phát triển hình thức kinh
tế hàng hóa là xu hướng tất yếu và tiến bộ, mang tính cách mạng sâu sắc. Tuy nhiên,
thực tiễn phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam và các nước trên thế giới đã chỉ rõ, đó
cũng là quá trình rất phức tạp, mọi quan điểm giản đơn, nóng vội, sẽ khó tránh khỏi dẫn
tới sai lầm "chết người", gây rối loạn kéo dài, thậm chí đổ vỡ với những hậu quả khôn
lường.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường, đã có ý kiến cho rằng đó chỉ là
sự thay đổi về cơ chế quản lý, không thấy đó thực chất là sự đổi mới một
cuộc cách mạng thực sự, với nội dung rất toàn diện từ việc đổi mới cơ cấu
sản xuất, cơ cấu sở hữu, cơ cấu nhân lực lao động, đến việc đổi mới
phương thức hoạt động của các hình thức tổ chức sản xuất và cả cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước, cũng như việc đổi mới sâu sắc toàn diện nội dung
và hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học, nhất là về kinh tế, pháp lý, quản lý
kinh tế - xã hội, thang giá trị xã hội... Chuyển sang nền kinh tế thị trường
như vậy là tình huống chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển, nên rất cần sự
tỉnh táo và thận trọng của các nhà lãnh đạo quản lý.
Bài học lớn trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta là phát
triển các hình thức kinh tế, như kinh tế hộ gia đình, không phải là quá trình được thiết
kế và triển khai theo tư duy chủ quan, giấy tờ, từ trên xuống, còn quần chúng nhân dân
thì chỉ đón nhận, thừa hành một cách thụ động, mà ngược lại, đó là quá trình cách mạng
được khởi đầu từ thực tiễn sinh động, từ ý nguyện và hành động của đông đảo quần
chúng nhân dân, được Đảng và Nhà nước từng bước nắm bắt, định hướng, tổng kết, từ

14



đó mà đổi mới cơ bản chính sách và cơ chế quản lý kinh tế; nói cách khác đó là quá
trình tìm tòi, thử nghiệm và sáng tạo bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ quần chúng nhân
dân, từ thực tế có Đảng lãnh đạo. Đó là cách làm sở trường đã có trong truyền thống
cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh gây dựng, nay vẫn còn nguyên vẹn giá
trị đích thực của nó.

1.1.2. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ gia đình trong nền
kinh tế hàng hóa
Trong nền kinh tế hàng hóa, hình thức kinh tế hộ gia đình nông dân do những ưu thế
riêng, nên đã và đang tồn tại phát triển một cách khách quan. Song, để khẳng định vị trí,
vai trò tích cực của mình trước hết họ phải là "hộ hàng hóa". Phát triển kinh tế hộ gia
đình nông dân trong kinh tế hàng hóa, thực chất là quá trình phát triển từ "hộ tự cung tự
cấp" lên "hộ hàng hóa" với những ưu điểm vượt trội của nó (nội dung này sẽ nêu kỹ ở
phần sau).
Quan niệm về hộ, gia đình và kinh tế hộ gia đình.
Quan niệm về "Hộ", "Gia đình", "Kinh tế gia đình" và "Kinh tế hộ gia đình" được nhiều
tổ chức, nhiều viện nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm đề
cập từ nhiều góc độ khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu, nhà nông học Nga - Traianốp, đã nhấn mạnh: Khái niệm Hộ,
đặc biệt trong đời sống nông thôn, không phải bao giờ cũng tương đương với khái niệm
sinh học làm chỗ dựa cho nó, mà nội dung còn có cả một loạt những phức tạp về đời sống
kinh tế và đời sống gia đình" [39, 136-137].
Theo Liên Hợp Quốc thì "Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng
ăn chung và có chung một ngân quỹ". Còn theo các nhà khoa học về dự hội thảo quốc tế
lần thứ tư về quản lý nông trại tại Hà Lan (năm 1980) thì "Hộ là đơn vị cơ bản của xã
hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác"
[71, 8].
Qua khảo sát "Kinh tế hộ trong quá trình phát triển" ở một số nước châu Á, các nhà

nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, (đứng đầu là giáo sư T.G.MCGEE, Giám đốc
viện nghiên cứu châu Á, thuộc trường đại học tổng hợp Britiah Columbia, Canađa), đã
thống nhất cho rằng: Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là nhóm người
cùng chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà, ăn
chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ. Trong quá trình đô thị hóa ở các nước
châu Á: Các thành viên của hộ không nhất thiết sống chung trong một mái nhà. Họ có

15


thể sống khá xa gia đình nhưng có đóng góp vào nguồn thu nhập của hộ và họ được coi
là thành viên của hộ... Hộ là đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động, là đơn vị bảo đảm quá
trình tái sản xuất nguồn lao động thông qua việc tổ chức nguồn thu nhập chung... Các
thành viên của hộ có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để
bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng [71, 9].
Ở Việt Nam, theo Tổng cục Thống kê: "Hộ gồm những người có quan hệ hôn nhân hoặc
ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, có quỹ thu chi chung và cùng chung sống lâu dài" [1, 17].
Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Kinh tế học (Việt Nam), cho rằng:
"1. Hộ là nhóm người cùng chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc. 2. Họ
cùng sống chung hay không cùng sống chung trong một mái nhà. 3. Có chung một
nguồn thu nhập và ăn chung. 4. Cùng tiến hành sản xuất chung... Gia đình là cơ sở của
hộ nói chung. Gia đình là một loại hình hộ chứa đựng các yếu tố để hình thành những
loại hình hộ mở rộng khác... Kinh tế gia đình được đặt trong mối quan hệ với kinh tế tập
thể. Còn kinh tế hộ được quan niệm như là các hoạt động kinh doanh của một đơn vị vị
kinh tế độc lập. Do đó không thể đồng nhất giữa kinh tế hộ với kinh tế gia đình mặc dù
giữa chúng có đặc điểm chung" [71, 11-12].
Theo quan niệm của nhóm nghiên cứu "Kinh tế hộ" trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (Việt Nam) Và trường Đại học British
Columbia (Canađa) thì "Hộ là một khái niệm tồn tại ở Việt Nam từ thời phong kiến... Hiện
nay trong các văn bản pháp luật, hộ được xem như là chủ thể trong các quan hệ dân sự do

pháp luật quy định và được định nghĩa như là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu
chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung... Hộ được coi là một tế bào của xã hội,
nhưng không phải bao giờ cũng hoàn toàn trùng khớp với gia đình.... Có ba tiêu thức để
phân biệt "Hộ" và "Gia đình" là: a. Quan hệ hôn nhân, huyết thống và dân tộc; b. Cư trú
chung; c. Có cơ sở kinh tế... Hộ gia đình là khái niệm chủ yếu dựa trên tiêu thức thứ
nhất" [1, 16].
Quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế học phát triển thuộc Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, nhấn mạnh: Kinh tế hộ gia đình "là một loại hình kinh tế tương đối
phổ biến và được phát triển trên thế giới. Nó có một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc

16


phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp... Các thành viên của kinh tế hộ gia đình là
những người có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống, người chủ quản lý của kinh tế hộ
gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong khuôn khổ của nền kinh tế, gia đình có thể tiến hành
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Chủ hộ điều hành mọi quá trình sản xuất kinh
doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của mình... ở nước ta, kinh tế hộ gia
đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân..." [6,
324-325].
Khái niệm hộ nông dân gần đây lại được định nghĩa như sau: "Nông dân là các nông hộ,
thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong
sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc
trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn
chỉnh không cao". Hộ nông dân có những đặc điểm: Là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là
đơn vị sản xuất vừa là đơn vị tiêu dùng. Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở
trình độ phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa hoàn toàn. Trình độ
này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân và thị trường. Các hộ nông dân ngoài hoạt
động nông nghiệp còn tham gia các hoạt động phi nông nghiệp với mức độ khác nhau
khiến cho khó giới hạn thế nào là một hộ nông dân [67, 51].


Qua các ý kiến khác nhau về quan niệm "Hộ", "Gia đình", "Kinh tế
hộ", "Kinh tế hộ gia đình", cho thấy chúng được nghiên cứu từ nhiều góc
độ khác nhau, phản ánh tính phong phú, đa dạng, và phức tạp về nội dung
của các khái niệm đó. Tuy vậy, cũng có những điểm chung cơ bản mà
nhiều quan niệm đề cập đến đó là: Quan hệ hôn nhân, huyết thống, quan hệ
mật thiết với nơi cư trú chung và có cơ sở kinh tế chung.
Góc độ kinh tế học phát triển, (theo chúng tôi), cụm từ: "Kinh tế hộ gia đình"
là phạm trù thống nhất để chỉ một hình thức kinh tế trong phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Trong môi trường kinh tế hàng hóa hiện nay, đó là hình thức tổ chức sản xuất
cơ sở rất cơ bản, là đơn vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế hàng hóa, là đơn vị sản xuất
quy mô nhỏ nhưng có hiệu quả trong nông nghiệp và nông thôn.
Sự bền vững của loại hình kinh tế này trước những thăng trầm của lịch sử, với

17


những đặc điểm có tính đặc thù, đặc biệt là vai trò vị trí rất quan trọng đối với kinh tế
nông nghiệp và nông thôn, đã và đang được các nhà kinh điển và nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Trong thực tiễn, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho những quan
điểm nhận thức không đúng về vai trò, vị trí của hình thức kinh tế hộ gia đình nông dân.

Một số quan điểm cơ bản về vị trí, vai trò của hình thức kinh tế hộ gia đình
nông dân.
Như chúng ta đã biết, kinh tế hộ gia đình nông dân hình thành, tồn tại và phát
triển trong chế độ Nô lệ và chế độ Phong kiến. Bước ngoặt phát triển của nó gắn liền
với cách mạng tư sản, thông qua cách mạng đó, quan hệ chiếm hữu ruộng đất phong
kiến bị xóa bỏ, những người tá điền trước đây đã trở thành những người sở hữu tự do những người tiểu nông có đất được cấp. Có thể nói, bước tiến từ chế độ điền trang
phong kiến lên hình thức sở hữu tiểu nông đã tạo bước ngoặt lớn đối với việc phát triển
kinh tế hộ gia đình nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa vận động theo cơ chế thị

trường.
Trong quá trình công nghiệp hóa tư bản cổ điển, phân tích sự biến động trong
nông nghiệp và nông thôn ở nước Anh, C. Mác đã chỉ rõ: "Khi xem xét nghề nông phải
có bàn tay của người tiểu nông bằng lao động "của mình"... Ngay cả nước Anh siêu
công nghiệp cho tới nay đã khẳng định hình thức lãi nhất không phải là nông trại công
nghiệp hàng hóa mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê. Ở những nước
còn giữ hình thức tư hữu, chia đất thành những khoảnh nhỏ thì giá cả lúa mì rẻ hơn ở
những nước có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa [31, 125-126].
Kế thừa và phát triển những tư tưởng và luận điểm về kinh tế tiểu nông của
C.Mác và Ăngghen, khi nghiên cứu về việc lựa chọn con đường phát triển nông nghiệp
ở Nga, Lênin đã nhấn mạnh: Không thể phát triển nông nghiệp ở nước Nga theo con
đường đại điền trang kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là kiểu
một chủ trại tự do - nghĩa là mảnh đất được dọn sạch những tàn tích thời trung cổ - đó là
kiểu Mỹ [28, 182].
Cùng thời với Lênin, khi nghiên cứu sự vận động và phát triển của nông trại ở

18


các nước châu Âu, Kauxki cho rằng: Sự vận động phát triển của nông hộ gắn liền với
quá trình phát triển của nền sản xuất nông nghiệp tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa. Sự vận động đó diễn ra qua ba giai đoạn sau:
- Giai đoạn phá vỡ nền nông nghiệp tự cấp tự túc, hộ nông dân chuyển sang
sản xuất hàng hóa và chịu sự chi phối của tư bản cho vay và tư bản thương nghiệp.

- Giai đoạn phát triển kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
- Giai đoạn nông trại tư bản không cạnh tranh được với nông trại nhỏ, hộ nông
dân chuyển sang chăn nuôi hoặc hợp tác chế biến để tăng giá nông sản [65, 12-13].
Những luận điểm của Mác, Lênin, qua thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, đó là
những quan điểm có tính khoa học, cách mạng cao và những quan điểm có tính khái

quát, chung nhất.

Có ảnh hưởng trực tiếp đối với sự phát triển của hình thức kinh tế
hộ gia đình nông dân, phải nói đến những quan điểm của Traianốp. Ông đã
coi kinh tế nông dân là phương thức sản xuất tồn tại trong mọi chế độ xã
hội, từ Nô lệ qua Phong kiến đến chủ nghĩa Tư bản. Phương thức sản xuất
này có quy luật phát triển riêng của nó và trong mỗi chế độ của nó luôn tìm
cách thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành [65, 12].
Traianốp là nhà nghiên cứu đầu tiên rút ra kết luận: "Hình thức kinh
tế nông hộ có khả năng thích ứng và tồn tại trong mọi phương thức sản
xuất, có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Việc thừa
nhận hình thái kinh tế gia đình nông dân không có bóc lột lao động làm
thuê, mà chỉ sử dụng sức lao động của gia đình mình là hình thức sản xuất
mang lại hiệu quả kinh tế cao" [63, 68].
Hộ gia đình nông dân, theo Traianốp, là một doanh nghiệp không dùng lao
động làm thuê, vì vậy họ không có khái niệm tiền lương, lợi nhuận, địa tô, lợi tức... Thu
nhập thuần túy cao là mục tiêu phấn đấu của hộ. Hình thức kinh tế nông hộ có khả năng
thích ứng và tồn tại trong mọi phương thức sản xuất. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, nông
trại nhỏ gia đình tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn nông trại lớn tư bản và

19


hình thức nông trại nhỏ có lợi cho tư bản vì khai thác được cao nhất thặng dư lao động ở
nông thôn, giữ giá nông sản thấp. Kinh tế hộ gia đình nông dân vẫn tồn tại và phát triển
ngay trong lòng xã hội tư bản.
Nhà nông học Traianốp được cả thế giới biết đến. Những kết quả nghiên cứu
của ông đến nay vẫn rất có giá trị và được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.
Như vậy, quan điểm bao trùm, khá tương đồng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin và các nhà nghiên cứu về kinh tế hộ gia đình nông dân là khẳng định

tính bền vững, sự thích nghi trong phát triển và nhấn mạnh vị trí, vai trò to lớn của hình
thức kinh tế này đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành nông
nghiệp, kinh tế nông thôn nói riêng.
Tuy nhiên, thực tiễn vận động phát triển của kinh tế hộ gia đình nông dân cho
thấy, sẽ sai lầm nếu coi đó là hình thức kinh tế đã hoàn thiện. Những hạn chế, yếu kém
không nhỏ của nó là những vấn đề không thể bỏ qua, mà ngược lại rất cần được nghiên
cứu, xem xét cụ thể, để từ đó có những giải pháp khắc phục một cách phù hợp và khoa
học.

Những ưu, nhược điểm và xu hướng vận động của kinh tế hộ gia
đình nông dân.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất hình thành sớm nhất trong hoạt động kinh tế
của loài người, kinh tế hộ gia đình nông dân, với tư cách là một trong những hình thức
tổ chức sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, vì vậy cũng được ra đời từ rất sớm, ở mỗi
giai đoạn khác nhau vị trí của ngành nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ gia đình nông
dân nói riêng trong cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia đều có một vai trò, vị trí rất quan
trọng: Cung cấp lương thực thực phẩm, nhu cầu tối cơ bản cho con người, nguyên liệu
cho công nghiệp, sản phẩm cho xuất khẩu, trong những thập kỷ gần đây vai trò của loại
hình kinh tế này trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái và gắn với các loại hình
kinh tế khác đặc biệt là kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước được nhiều quốc gia quan tâm.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, kinh tế hộ
gia đình nông dân đã từng bước có những biến đổi cơ bản về cách thức tổ chức sản xuất
kinh doanh, "hộ tự cấp, tự túc" với kỹ thuật canh tác lạc hậu, đã chuyển dần thành "hộ
hàng hóa" với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, vận động theo cơ chế thị trường, năng
suất lao động, tỷ suất hàng hóa trong nông nghiệp nhờ đó đã có bước tăng trưởng vượt
bậc. Tại các quốc gia phát triển hộ hàng hóa chỉ chiếm 5-7% tổng số hộ, nhưng đã tạo ra
một khối lượng nông sản đáp ứng đủ nhu cầu trong nước với mức tiêu dùng cao và có
một phần để xuất khẩu.
a. Những ưu điểm vượt trội của "hộ hàng hóa" so với "hộ tự cấp, tự túc"


Kinh tế "hộ hàng hóa" và kinh tế "hộ tự cung, tự cấp", là hai loại
hình tổ chức sản xuất, ngoài một số điểm chung giống nhau, là những điểm
20


khác nhau khá cơ bản. Nếu như "Hộ tự cung, tự cấp" - là những hộ mà mục
đích sản xuất, kinh doanh nhằm chủ yếu vào việc thỏa mãn những nhu cầu
trực tiếp của hộ, nên thường có quy mô sản xuất nhỏ, khép kín, bảo thủ, trì
trệ, thì "hộ hàng hóa" là những hộ có mục đích sản xuất, kinh doanh nhằm
tạo ra những sản phẩm để bán trên thị trường. Lợi nhuận cao là mục tiêu
phấn đấu, và là cái đích phải đạt tới của "hộ hàng hóa".
Trong kinh tế thị trường, sự khác biệt đó đã tạo cho "hộ hàng hóa" những ưu
điểm vượt trội so với "hộ tự cung, tự cấp". Có thể thấy qua một số nội dung sau:
* Tạo điều kiện sử dụng hợp lý các nguồn lực, khai thác phát huy những lợi
thế so sánh của từng hộ, từng vùng.
Hộ gia đình nông dân là tế bào kinh tế - xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ
sở của nông nghiệp và nông thôn, các thành viên trong hộ gắn bó với nhau chặt chẽ
trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, dựa trên cơ sở huyết thống, ngoài ra
còn do truyền thống qua nhiều thế hệ, do phong tục tập quán, tâm lý đạo đức gia đình và
dòng họ.
Về kinh tế, các thành viên trong hộ gắn bó với nhau trên các mặt sở hữu, quản
lý và phân phối, mà cốt lõi của nó là quan hệ lợi ích kinh tế, họ có cùng mục đích và
cùng lợi ích chung là làm cho hộ mình ngày càng phát triển, ngày càng khá giả. Do
thống nhất về lợi ích nên các thành viên trong hộ đều làm việc hết mình với sự tự
nguyện, tự giác cao nhằm đạt mức thu nhập cao nhất trong gia đình. Trong mỗi hộ
thông thường bố mẹ vừa là chủ hộ, vừa là người tổ chức hiệp tác, phân công lao động,
vừa là người lao động trực tiếp. Các thành viên trong hộ cùng lao động nên gần gũi và
rất hiểu trình độ, tình hình và hoàn cảnh của nhau, điều đó đã tạo điều kiện phân công và
hiệp tác lao động trong hộ được hợp lý hiệu quả hơn.
Mỗi hộ gia đình nông dân đều có các tài sản chung như ruộng đất, trâu bò công

cụ lao động. Các thành viên trong hộ sử dụng thường xuyên nên hiểu khá rõ đặc điểm
các tài sản. Họ thường sử dụng có hiệu quả, và rất có ý thức chăm sóc bảo quản các tài
sản để có thể sử dụng lâu dài.

Trong kinh tế hộ gia đình, quan hệ giữa quản lý sản xuất và người
trực tiếp sản xuất luôn có sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, cho nên

21


các thông tin được xử lý nhanh kịp thời, các quyết định quản lý, sản xuất
thường đúng đắn và có sức thuyết phục.
Về quan hệ phân phối, các thành viên trong hộ cùng làm, cùng ở, cùng ăn, dưới
sự sắp xếp bố trí của chủ hộ. Nhờ đó các mâu thuẫn trong phân phối (nếu có phát sinh)
cũng được giải quyết một cách thuận lợi, khi con cái trưởng thành tách ra lập hộ khác,
bố mẹ có trách nhiệm giải quyết việc phân chia tài sản gia đình cho con cái trên cơ sở
bàn bạc dân chủ.
Chính vì những lợi thế đó đã tạo cho "hộ hàng hóa" những điều kiện thuận lợi
để sử dụng hợp lý các nguồn lực, khai thác và phát huy những lợi thế so sánh của từng
hộ gia đình.
Mặt khác, trong nông nghiệp, lao động của hộ gia đình luôn có quan hệ mật
thiết với điều kiện tự nhiên và quá trình sinh trưởng của cây trồng vật nuôi. Hiệu quả
sản xuất của kinh tế hộ nông dân không những chỉ phụ thuộc vào chất lượng tác động
của con người mà còn phụ thuộc vào đặc tính của ruộng đất, điều kiện địa lý. Từng hộ,
nhóm hộ ở từng vùng, từng quốc gia đều có những ưu thế riêng trong việc sản xuất một
số loại sản phẩm nào đó với chất lượng cao chi phí thấp so với các quốc gia, các vùng
khác, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa, vận động theo cơ chế thị trường sẽ tạo điều
kiện cho hộ gia đình khai thác tốt các nguồn lực đó để phát triển.
* Thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, công nghệ và quá trình quản lý kinh doanh.


Chuyển sang sản xuất hàng hóa yêu cầu mỗi chủ thể kinh doanh
trong đó có kinh tế hộ gia đình nông dân phải chấp nhận cạnh tranh, tìm
mọi biện pháp kinh doanh có hiệu quả để tăng lợi nhuận. Ngoài việc bố trí
cơ cấu sản xuất phù hợp với từng vùng sinh thái, họ phải thường xuyên lựa
chọn các giống cây trồng vật nuôi mới, thực hiện cơ giới hóa, hợp lý hóa
quá trình sản xuất kinh doanh và không chỉ dừng lại ở những tác động trực
tiếp vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, mà còn phải căn cứ vào nhu cầu thị
trường về chất lượng sản phẩm, với tiêu chuẩn vệ sinh khắt khe, để đáp ứng
kịp thời, đầy đủ, đúng nhu cầu. Quá trình đó tất yếu thúc đẩy sự đổi mới

22


công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến nông sản và tổ chức khoa học
quy trình phân phối lưu thông hàng hóa nông sản.
* Thúc đẩy năng suất lao động nông nghiệp và năng suất lao động xã hội.

Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm khác sản xuất công
nghiệp. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là sinh vật (thực vật, động
vật). Do yêu cầu của quy luật sinh học đối với cây trồng, vật nuôi, đòi hỏi
các chủ hộ phải thường xuyên điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên trong
hộ một cách cụ thể, chi li đến từng giờ, từng ngày, từng cây trồng vật nuôi,
và sự đòi hỏi cao về sự chăm sóc cần mẫn với tình cảm thực sự của người
lao động. Những thao tác, những công việc cụ thể trong các khâu như làm
đất, gieo trồng, chăm sóc... Không thể kiểm tra, đo đạc và đánh giá theo
đơn vị thời gian trừu tượng, chất lượng, hiệu quả của phần lớn các công
việc trung gian hoặc những thao tác riêng lẻ không thể đánh giá chính xác
được (trong sản xuất công nghiệp người ta có thể đo đạc điều chỉnh toàn bộ
hoạt động của người công nhân bằng những chỉ tiêu chính xác theo quy
trình kỹ thuật chuẩn mực). Hộ gia đình nông dân, do đó phải là những chủ

nhân đích thực về đất đai và cây trồng vật nuôi, phải là những người luôn
quan tâm lo lắng sâu sắc đến mùa màng. Có như vậy, mới thường xuyên
điều chỉnh một cách sáng tạo và kịp thời những thao tác kỹ thuật thích ứng
với những diễn biến của thời tiết khí hậu, đất đai, cây trồng... Chính điều
đó góp phần thúc đẩy và nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.
V.I. Lênin và nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định ý nghĩa quyết định của việc
nâng cao năng suất lao động xã hội. Do có vị trí vai trò đặc biệt, nên trình độ, năng suất lao
động của kinh tế hộ gia đình nông dân, nhất là năng suất lao động ngành sản xuất lương
thực, thực phẩm, có ý nghĩa quyết định đến việc phân công bố trí lại lao động trong nông
nghiệp và các ngành khác của nền kinh tế quốc dân. Phát triển "hộ hàng hóa" gắn với việc
khai thác có hiệu quả những lợi thế về điều kiện tự nhiên, xã hội, là yếu tố quan trọng hàng
đầu để nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Mặt khác, để tăng khả năng cạnh

23


tranh các "hộ hàng hóa" buộc phải áp dụng có hiệu giữa những thành tựu khoa học công
nghệ, công cụ lao động và công nghệ quản lý mới để nâng cao năng suất lao động. Tác
dụng đó có ý nghĩa rất lớn đối với các quốc gia, các khu vực đi lên từ nông nghiệp, ở các
nơi đó đại bộ phận lao động xã hội là làm nông nghiệp và quá trình phát triển đòi hỏi phải
giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp một cách tuyệt đối, nhưng vẫn phải đảm bảo sự tăng cao
cả về số lượng và chất lượng các hàng hóa nông sản. Biện pháp kinh tế cơ bản để giải
quyết yêu cầu đó là nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Phát triển kinh tế hộ
gia đình nông dân hàng hóa là một trong những cách thức quan trọng để nâng cao năng
suất hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Như vậy, nếu như nâng cao năng suất lao động,
thực hiện phân công lao động xã hội là điều kiện để phát triển kinh tế hộ sang sản xuất
hàng hóa, thì đến lượt nó sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường lại thúc đẩy mạnh mẽ việc
nâng cao năng suất lao động và tạo nhu cầu và điều kiện để phân công lao động trong nông
nghiệp và toàn xã hội, trong đó có kinh tế hộ gia đình nông dân.
* Nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội nông thôn.

Tại các quốc gia phát triển và đang phát triển, khu vực nông thôn
thường lạc hậu hơn so với khu vực công nghiệp và thành thị. Phát triển
kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hóa đã và đang góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình đổi mới sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp, từ đó làm
tăng hiệu quả kinh tế.
Một số hộ trong quá trình phát triển đã trở thành những hộ giàu, thu nhập và
đời sống tăng lên rõ rệt, có điều kiện mở rộng sản xuất. Trên thực tế có nhiều hộ đã trở
thành các ông chủ, ưu thế của nhóm hộ này là có vốn và lao động, có kinh nghiệm sản
xuất, biết tính toán làm ăn, biết tiếp cận thị trường, biết tiếp thu khoa học kỹ thuật và
công nghệ mới. Nhóm các hộ này đã góp phần tích cực trong việc sử dụng đất đai, lao
động, vốn liếng tốt hơn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong nông thôn, tăng thêm sản
phẩm và sản phẩm hàng hóa cho xã hội và đồng thời trong mức độ nhất định góp phần
xây dựng nông thôn mới. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của nhóm hộ này còn là tấm

24


gương sáng cho các hộ trung bình và nghèo học tập, phấn đấu đi lên. Nhờ đó thu nhập
của lao động và dân cư nông nghiệp sẽ dần tăng lên, đó thực sự sẽ là động lực cuốn hút
các hộ gia đình nông dân tham gia sản xuất hàng hóa, vươn lên vượt khó để làm giàu.

Mặt khác, chính từ sự nghiệt ngã của cơ chế thị trường đã buộc các
hộ phải tự mình nâng cao trình độ văn hóa, tiếp cận thị trường, ứng dụng
công nghệ mới... Quá trình đó một mặt làm biến đổi tính chất lao động
trong nông nghiệp, và nhận thức của người nông dân, mặt khác thúc đẩy
tạo lập mối liên kết tất yếu giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, giữa
kinh tế hộ gia đình nông dân với các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh
tế Nhà nước. Trong quá trình đó cũng hình thành và phát triển hình thức

kinh tế hợp tác mới giữa các hộ gia đình. Tất cả điều đó đã góp phần cải biến
sâu sắc kinh tế - xã hội nông thôn.
b. Những hạn chế, yếu kém của"hộ hàng hóa"
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội, trong quá trình vận động phát triển, "hộ
hàng hóa" cũng đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém:

Hình thức kinh tế tự nhiên đã kiến tạo nên mô hình "hộ tự cấp tự
túc" với nhiều hạn chế, yếu kém. "Hộ hàng hóa" - sản phẩm của kinh tế
hàng hóa, là bước phát triển cao kế tiếp của "hộ tự cung tự cấp", nhưng
không phải đã khắc phục hết được những hạn chế, yếu kém đó. Do tổ chức
sản xuất trong không gian rộng, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên
một số hoạt động như thủy lợi, bảo vệ thực vật, giao thông, dịch vụ... cần
có sự phối hợp thống nhất trên toàn địa bàn với sự tham gia của nhiều hộ
gia đình, nếu để từng hộ tự lo liệu thì không làm được hoặc làm không hiệu
quả. Có thể thấy, đây là hạn chế rất đặc trưng. Trong điều kiện cạnh tranh
hiện nay, nhất là ở các quốc gia đang phát triển do năng lực nội tại nhìn
chung còn thấp, lại bị giới hạn bởi không gian hoạt động sản xuất của
mình, nên kinh tế hộ gia đình nông dân không có điều kiện, khả năng tự

25


×