Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

TIỂU LUẬN:Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập.Mở đầu --------* Tính cấp thiết của đề tàiKhác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, trong nền kinh tế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.71 KB, 66 trang )

TIỂU LUẬN:

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường và hội nhập


Mở đầu
--------

* Tính cấp thiết của đề tài

Khác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cạnh tranh vừa là một trong những đặc
trưng cơ bản, vừa luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng của các doanh nghiệp phải chấp nhận
cạnh tranh. Do vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh luôn là một trong những vấn đề quan
trọng hàng đầu của các doanh nghiệp.

Cơng ty Giấy Bãi Bằng, trong q trình hình thành và phát triển của mình, đã dần dần
thích ứng với môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, Với những cố gắng của
Lãnh đạo Công ty cũng như của tập thể cán bộ công nhân viên, Cơng ty đã duy trì được
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra hàng năm, doanh thu
và lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo nộp ngân sách và nâng cao thu nhập
cho cán bộ công nhân viên.

Tuy nhiên, trong một tương lai không xa, nền kinh tế thị trường nước ta tất yếu sẽ phải
phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, hội nhập ngày càng nhiều hơn, sâu sắc hơn với kinh
tế khu vực và thế giới ... Liệu Công ty Giấy Bãi Bằng cịn có thể duy trì hoạt động như
hiện nay, liệu cơng ty có thể đứng vững trước sự canh tranh ngày càng khốc liệt hơn của
các doanh nghiệp khác, cả trong nước lẫn ngoài nước.


Để tồn tại và phát triển vững mạnh trong mơi trường mới đó, Công ty Giấy Bãi Bằng
phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy, nghiên cứu để nắm rõ
thực trạng, nhận diện chính xác những mặt mạnh, mặt yếu về năng lực cạnh tranh hiện


nay của Cơng ty, tìm ra những giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao nhanh chóng năng lực
cạnh tranh là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách của Công ty.

Đề tài luận văn: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của Cơng ty Giấy Bãi Bằng trong q
trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập" được thực hiện nhằm mục đích góp
phần nhỏ vào việc nghiên cứu ấy.



Đối tượng, phạm vi đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cớu chủ yếu về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh. Đề tài được
nghiên cứu ở phạm vi ngành giấy và chủ yếu tại Cơng ty giấy Bãi Bằng.



Mục đích, nhiệm vụ của đề tài:
Góp phần tìm kiếm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng.
Nhiệm vụ đề tài cần giải quyết gồm:

-

Hệ thống hoá vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

-


Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng.

-

Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng.



Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh và mơ hình hố.



Kết cấu luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành 3
chương.


Yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường và hội nhập.

1.1

Những nội dung cơ bản về cạnh tranh trong cơ chế thị trường.

1.1.1 Nhận thức chung về thị trường - Cơ chế thị trường:

+ Khái niệm thị trường:
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hố và được

hình thành trong lĩnh vực lưu thơng. Người có hàng hố, dịch vụ đem ra trao đổi gọi là
người bán, người có nhu cầu và khả năng thanh toán gọi là người mua. Trong quá trình
trao đổi, giữa người mua và ngưới bán hình thành những mối quan hệ. Vì vậy, xét theo
nghĩa hẹp, thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng
trên phạm vi toàn xã hội, thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán gặp
nhau, nơi cung - cầu gặp gỡ và cân bằng, hoặc nói cách khác, thị trường xét theo nghĩa
rộng là tổng hoà các quan hệ mua bán, cung cầu trên bình diện xã hội.

Như vậy, để hình thành thị trường, địi hỏi phải có các yếu tố cơ bản sau: Đối tượng trao
đổi là hàng hoá, dịch vụ: đối tượng tham gia trao đổi là người mua, người bán: điều kiện
thực hiện trao đổi là khả năng thanh toán, địa điểm trao đổi: Các thể chế hoặc tập tục
(luật chơi) để đảm bảo hoạt động mua bán an tồn, nhanh chóng.

Trong lịch sử nhân loại, thị trường đã phát triển qua những nấc thang khác nhau:

-

Thị trường cổ điển: Là thị trường có đầy đủ các yếu tố hàng hoá, dịch vụ, người
mua, người bán, gắn với tính chất hoặc đặc điểm nào đó.


- Thị trường phát triển: Là thị trường mà người mua, người bán có thể cam kết, thực hiện
mua bán nhưng khơng cần phải trực tiếp trao đổi hàng hố. Đây là thị trường văn minh,
khi người mua, người bán đã đạt tới độ tín nhiệm, quy mơ mua bán lớn.

- Thị trường hiện đại: Là thị trường có người mua, người bán hàng hố, dịch vụ (hữu hình,
vơ hình) người môi giới và các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Vì đối tượng mua bán khá
phức tạp, do đó rất cần người môi giới, tư vấn, nhất là môi giới tư vấn tài chính. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
người ta mua bán hết sức thuận lợi. Mặc dù ở cách xa nhau về mặt địa lý, người ta vẫn có

thể giao dịch, mua bán một cách mau lẹ thông qua các phương tiện thông tin hiện đại.

Thị trường có vai trị quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ thị trường
mà giá cả được hình thành như thước đo chung, là căn cứ khách quan để điều chỉnh hành
vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Sở dĩ thị trường có vai trị to lớn vì nó có những
chức năng cơ bản sau đây:

- Chức năng thừa nhận: Thông qua quá trình trao đổi giữa người mua và người bán, tính
hàng hố của sản phẩm có thể được thừa nhận hoặc khơng được thừa nhận. Nếu được
thừa nhận thì quá trình mua bán được giải quyết, sản phẩm trở thành hàng hố. Nếu
khơng được thừa nhận thì q trình mua bán không được giải quyết, sản phẩm không trở
thành hàng hoá.

-

Chức năng thực hiện: Sự thực hiện giá trị chỉ xảy ra khi q trình trao đổi hàng hố được
thực hiện. Thông qua chức năng thực hiện các hàng hố, dịch vụ mà hình thành nên giá
cả hàng hố, dịch vụ.


-

Chức năng điều tiết: Thơng qua việc hình thành giá cả dưới tác động của quy luật giá trị,
quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, nguồn lực xã hội được điều tiết một cách tự
động từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi hiệu quả thấp sang nơi hiệu quả cao.

Ngồi ra, thị trường cịn kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các
nhà sản xuất kinh doanh và cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý.

+ Cơ chế thị trường: Là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế thị trường. ở đó, các

quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng. Ban đầu, cơ chế thị
trường được Adam Smith khái quát và mơ tả trong học thuyết của ơng. Ơng cho rằng,
nếu bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tự do tiêu dùng, nhà nước không can thiệp vào
kinh tế mà chỉ cần bảo đảm dịch vụ an ninh xã hội thì sẽ có một cơ chế tự nhiên, như một
"Bàn tay vơ hình", điều tiết cung - cầu, điều tiết sản xuất tiêu dùng và cuối cùng giúp
cho việc phân phối các tài nguyên khan hiếm của xã hội một cách hiệu quả nhất. Đó là thị
trường thuần tuý thị trường tự do cạnh tranh khơng có sự can thiệp của Nhà nước.

Ngày nay, cơ chế thị trường tự do thuần t, hầu như khơng cịn tồn tại. ở hầu khắp các
Quốc gia áp dụng cơ chế thị trường, người ta đều sử dụng mơ hình kinh tế hỗn hợp, tức là
kết hợp cơ chế "Bàn tay vơ hình" của thị trường với "Bàn tay hữu hình" - sự can thiệp,
điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế. Mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế
có nhiều mức độ khác nhau, tuỳ theo từng Quốc gia.

Như vậy, cơ chế thị trường hiện nay gồm 3 thành tố:

1.

Thị trường hoạt động theo quy luật vốn có của nó, ai nhận thức được, làm đúng sẽ có lợi,
ngược lại không nhận thức được, không tôn trọng quy luật thị trường sẽ bị thua thiệt hoặc
bị thị trường trừng phạt. Bằng cách này các yếu tố sản xuất, tài nguyên và kết quả sản
xuất sẽ được phân phối theo quy luật thị trường.


2.

Nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường,
cân bằng những vấn đề về kinh tế, xã hội, môi trường cơ chế thị trường hiện đại thể hiện
rõ trong mơ hình kinh tế hỗn hợp. Đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.


3.

Người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp - những tác nhân năng động của cơ chế thị trường được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết
của Nhà nước. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật khách quan của thị trường,
bao gồm:

-

Quy luật giá trị: Việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,
trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phải tuân thủ
quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển.

- Quy luật cung - cầu: Biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu hàng hố thơng qua giá cả hàng
hố. Quy luật này tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá và phương hướng sản xuất, tiêu
dùng của xã hội.

- Quy luật canh tranh: u cầu hàng hố sản xuất ra phải có chất lượng tốt hơn, chi phí
thấp hơn, thái độ phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh với các hàng
hố khác cùng loại.

Như vậy có thể hiểu: Giá cả thị trường, cung - cầu hàng hoá và cạnh tranh là các bộ phận
hợp thành chủ yếu của cơ chế thị trường. Các bộ phận này có quan hệ mật thiết với nhau.
Trong đó, giá cả là cá nhân của thị trường , cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh
hồn, là sức sống của thị trường.

1.1.2

Khái niệm cơ bản cạnh tranh:



Cạnh tranh (tiếng Anh là Competion) về mặt thuật ngữ được hiểu như là sự cố gắng giành
thắng lợi, phần thắng về mình giữa những người những tổ chức hoạt động có những mục
tiêu và lợi ích giống nhau trong kinh doanh, cạnh tranh được định nghĩa như là sự đua
tranh giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm dành ưu thế trên cùng một tài
nguyên, sản phẩm hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.

Cạnh tranh: Là một trong những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, khơng có cạnh
tranh thì khơng có nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân
theo những quy luật khách quan riêng của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy
luật này các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc, thiết bị, cơng nghệ, nâng
cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để dành ưu thế so với đối thủ của mình.
Kết quả là kẻ mạnh về khả năng vật chất và trình độ kinh doanh sẽ là người chiến thắng.
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Nếu lợi nhuận thúc
đẩy các cá nhân tiến hành sản xuất - kinh doanh thì cạnh tranh lại bắt buộc và thơi thúc
họ phải điều hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh một cách có hiệu quả nhất:

+

Tác động tích cực của cạnh tranh là:

- Sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu.
- Khuyến khích áp dụng các tiến bộ kỹ thuật.
- Thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất.

+ Tuy nhiên cạnh tranh cũng có tác động tiêu cực đó là: Trong sản xuất việc giữ bí mật
khơng muốn chuyển giao cơng nghệ tiên tiến, là tình trạng ganh đua quyết liệt, "Cá lớn
nuốt cá bé". Trong đời sống xã hội là sự tàn phá môi trường và sự tha hoá về đạo đức dễ
xảy ra.



1.1.3

Các loại hình canh tranh:

Cạnh tranh được xem xét dưới nhiều khía cạnh, nhiều hình thức khác nhau như: Cạnh
tranh tự do, cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh ... Các hình thức cạnh
tranh phụ thuộc vào tính chất của thị trường và bản chất của nền kinh tế.

- Cạnh tranh tự do: Được hiểu như là một nền kinh tế phát triển một cách tự do, không có
sự can thiệp của Nhà nước, trong đó giá cả lên xuống theo sự chi phối của các quy luật
thị trường, cùng với các quy luật kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị. Cạnh tranh
tự do dẫn đến sự phân hoá 2 cực: Giàu nghèo rõ rệt.

- Cạnh tranh hồn hảo ( Perfect Competition) hay cịn gọi là cạnh tranh thuần tuý (Pure
Competition) là hình thức cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hố là khơng đổi
trong tồn bộ một địa danh của thị trường; Các yếu tố sản xuất được tự do luân chuyển từ
ngành này sang ngành khác; Chi phí vận tải không đáng kể và không đề cập tới.

Cạnh tranh hồn hảo xẩy ra khi khơng một người sản xuất nào có thể tác động đến giá cả
trên thị trường. Mỗi người sản xuất đều phải bán sản phẩm của mình theo giá thịnh hành
mà thị trường đã chấp nhận thơng qua quan hệ cung - cầu. Cạnh tranh hồn hảo xảy ra
khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất một mặt hàng y hệt nhau và sản lượng từng
doanh nghiệp quá nhỏ không thể tác động đến giá cả thị trường. Cạnh tranh hoàn hảo
muốn tồn tại phải có các điều kiện.

- Tất cả các hàng kinh doanh trong ngành đó có quy mơ tương đối nhỏ.

- Số lượng các hàng kinh doanh trong các ngành đó phải rất nhiều trong điều kiện như vậy
khơng có Cơng ty nào đủ sức mạnh để có thể cos ảnh hưởng đến giá cả của các sản phẩm

của mình trên thị trường. Sản phẩm của các hẵng đưa ra trên thị trường giống nhau tới
mức cả người sản xuất và người tiêu dùng rất khó phân biệt.


+ Cạnh tranh khơng hồn hảo: (Imperfect Competition) là hình thức cạnh tranh mà ở đó
các cá nhân, người bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thể lực có thể chi
phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường.

Cạnh tranh khơng hồn hảo có 2 loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc
quyền.

+ Độc quyền nhóm (Oligopoly): tồn tại trong những ngành sản xuất mà ở đó chỉ cơ một số
ít người sản xuất hoặc một số ít người bán sản phẩm. Sự thay đổi về giá của một doanh
nghiệp, gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp
khác và ngược lại. ở các nước phát triển các ngành cơng nghiệp có độc quyền nhóm là
những ngành như sản xuất ơ tơ, cao su, chế biến thép v.v.

+ Cạnh tranh mang tính độc quyền (Mono Polistics Competition): Là hình thức cạnh tranh
mà ở đó những người bán có thể ảnh hưởng đến những người mua bằng sự khác nhau của
các sản phẩm mà mình sản xuất ra về hình dáng, kích thước, chất lượng và nhãn hiệu.
Trong nhiều trường hợp người bán có thể bắt người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ
định ra. Trong hình thức cạnh tranh này có nhiều người bán và có nhiều người mua. Các
sản phẩm của người bán về cơ bản là giống nhau song khác nhau về mẫu mã, chất lượng,
màu sắc v.v. Các hãng kinh doanh thường có cố gắng tạo ra các sản phẩm của họ phong
phú, có nhiều điểm khác biệt so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong ngành
công nghiệp cạnh tranh kiểu này, quy mô của các doanh nghiệp có thể là lớn, vừa, nhỏ vì
vậy nhập và bỏ ngành hàng dễ dàng hơn.

+ Cạnh tranh lành mạnh (Healthy Competition): Là hình thức cạnh tranh lý tưởng, trong
sáng, thúc đẩy sản xuất phát triển, khơng có những thủ đoạn hoặc âm mưu đen tối trong

sản xuất kinh doanh của các nhà doanh nghiệp, thể hiện phẩm chất đạo đức trong kinh


doanh không trái với các quy định của văn bản pháp luật và khơng đi ngược lại lợi ích xã
hội, việc tính tốn thu lợi nhuận trên cơ sở cải tiến, sáng tạo để sản xuất và cung cấp cho
xã hội nhiều sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng.

+ Cạnh tranh không lành mạnh (Unfair Competition): Là hình thức cạnh tranh mà trong
quá trình sản xuất và kinh doanh các nhà doanh nghiệp ln có thái độ không trung thực,
gian dối như: biếu xén, hối lộ để dành ưu thế trong kinh doanh, vu khống về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá của đối tác cạnh tranh; tung ra thị trường sản phẩm mang nhãn hiệu
của đối thủ cạnh tranh, ngăn cản việc phân phối sản phẩm của đối thủ cạnh tranh bằng
các hành vi trái pháp luật, sử dụng "Chiến tranh giá cả" để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.

- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong mọi lĩnh vực và được biểu hiện đa
dạng. Ngoài các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh thuần t cịn xuất hiện các hành vi
lạm dụng thế mạnh về kinh tế, tài chính để cạnh tranh thể hiện tính chất "Cá lớn nuốt cá
bé" (như bán phá giá chẳng hạn).

+ Cạnh tranh bất hợp pháp (Fraudulent Competition): Là những hành vi của các nhà kinh
doanh thực hiện cạnh tranh trái với quy định của pháp luật đi ngược lại các nguyên tắc xã
hội, tập quán truyền thống của kinh doanh lành mạnh, xâm phạm lợi ích của xã hội, của
Nhà nước, của người tiêu dùng và của các nhà kinh doanh khác.

+ Có 2 loại cạnh tranh kinh tế: Là cạnh tranh trong sản xuất và cạnh tranh trong lưu thông.

- Cạnh tranh trong sản xuất: Là cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản xuất - nó bao gồm
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành cạnh tranh trong nội bộ
ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm thu được

lợi nhuận siêu ngạch.


Để có siêu lợi nhuận các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động, làm cho chi phí sản xuất nhỏ hơn so với doanh nghiệp khác - Như
vậy cạnh tranh trong nội bộ ngành chính là động lực cho sự phát triển tiến bộ kỹ thuật.

Khác với cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp sản xuất ở những ngành khác nhau nhằm mục tiêu tìm nơi đầu tư có lợi, là
những nơi có tỷ suất lợi nhuận cao - Điều này đảm bảo cho việc đầu tư vốn bình đẳng
giữa các ngành tạo nhân tố cho sự phát triển.

- Cạnh tranh trong lưu thông Là cạnh tranh trên lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hố, cạnh
tranh trong lưu thơng gồm có cạnh tranh giữa người bán và người mua, người bán với
người bán, người mua với người mua.

Cạnh tranh giữa người bán với người mua chính là sự tác động qua lại giữa sức cung và
sức cầu trên thị trường. Sự cạnh tranh này dẫn đến hình thành giá cả cân bằng trên thị
trường.

Cạnh tranh giữa người bán với người bán là cạnh tranh để làm cho giá cả hàng hố có xu
hướng giảm, cịn cạnh tranh giữa người mua với người mua lại có tác động ngược lại
thường làm cho giá cả tăng lên.

+ Cạnh tranh được coi như là một cuộc cạnh tranh kinh tế: Trong điều kiện đó doanh
nghiệp muốn chiến thắng phải tìm ra các kỹ thuật tiến công phù hợp - Với một cách khác
là phải có các biện pháp cạnh tranh. Ngày nay, người ta thừa nhận trong điều kiện kinh
tế thị trường phải dựa vào cạnh tranh giá cả, chất lượng và điều kiện giao nhận.



- Có thể hiểu cạnh tranh giá cả dưới hai giác độ: Giác độ tích cực là nhờ áp dụng tiến bộ kỹ
thuật nên tăng năng suất lao động, giảm chi phí và giảm giá cả xuống, do vậy hàng hoá
được chấp nhận trên thị trường và doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh trạnh đó là cạnh
tranh lành mạnh; Giác độ thứ hai của cạnh tranh giả cả là tìm cách bán phá giá thậm chí
cịn thấp hơn cả chi phí để đối thủ phải bỏ thị trường sau đó chiếm lại tồn thị phần và tự
do lên giá đó là cạnh tranh không lành mạnh.

- Trong nền kinh tế hiện đại, cạnh tranh bằng chất lượng trở thành then chốt, chất lượng là
chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của hàng hoá về quy cách phẩm
chất, kiểu giáng v.v. làm cho người tiêu dùng thoả mãn.

- Một vấn đề khác trong cạnh tranh là vấn đề điều kiện giao nhận như đảm bảo thời gian
giao hàng, phục vụ sau bán hàng.

- Ngoài ra quảng cáo là biện pháp cạnh tranh thông dụng ngày nay. Qua quảng cáo, hàng
hoá đi vào tâm lý người tiêu dùng và từ đó chiếm lĩnh được thị trường.

Tóm lại cạnh tranh là môi trường tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường, khơng có
cạnh tranh sẽ khơng có tính năng động và sáng tạo trong hoạt động sản xuát - kinh doanh.
Song xã hội dần dần sẽ chấp nhận hành vi cạnh tranh lành mạnh bằng các phương thức
sản xuất và vận chuyển hàng hoá một cách khoa học hiệu quả chứ không thừa nhận hành
vi cạnh tranh bằng cách dựa vào các thủ đoạn lừa đảo, khơng trong sáng.

1.1.4

Tiêu chí xác định sức mạnh cạnh tranh:

Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của một doanh nghiệp có thể biểu thị dưới dạng
quan hệ theo tương quan tỷ lệ thuận nghịch sau đây:



L
K = ---- + M + F
P

Trong đó:

K: Là năng lực cạnh tranh
L: Là chất lượng sản phẩm
P: Giá cả hàng hoá, sản phẩm
M: Các tác nhân trong thị trường
F: Các chính sách tác động vào thị trường và tiếp thị.

Chúng ta lần lượt xét các yếu tố sau:

1.1.5

Các yếu tố tác động cạnh tranh:

Thứ 1: Chất lượng hàng hoá (L) quyết định và tỷ lệ thuận với sức cạnh tranh.

Thứ 2: Giá cả (P) : Theo quy luật cung - cầu thị trường được hình thành từ các hệ thống
cung và cầu. Sự tương tác cung - cầu sẽ dẫn đến sự hình thành giá cả và quyết định số
lượng hàng hoá được trao đổi (gọi là giá cả cân bằng).

Thứ 3: Các tác nhân trong thị trường (M) bao gồm:

+ Người mua: Là tác nhân chủ yếu trên thị trường và họ là khách hàng tiêu thụ sản phẩm
cho các doanh nghiệp. Họ có thể là cá nhân hay là các tổ chức tập thể. Thoả mãn tốt nhất
mọi nhu cầu của họ luôn là mục tiêu hoạt động của các tác nhân khác (nhà cung cấp, nhà

phân phối) trên thị trường.


+ Người cung cấp: Đây là khởi nguồn của dòng vận động hàng hoá đưa ra thị trường để
thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Họ là nguồn cung sản phẩm và là những người sản
xuất (hàng nội) hay là các nhà nhập khẩu (hàng ngoại).

+ Người phân phối: Đây là khâu trung gian giữa người cung cấp và người mua. Họ có vai
trị chủ yếu trong thị trường vì nhờ có họ mà cung gặp được cầu. Hoạt động chủ yếu của
họ là kinh doanh thương mại và bao gồm: Nhà bán buôn, nhà bán lẻ, đại lý.

+ Các tác nhân khác: Đây là những tác nhân quan trọng có ảnh hưởng tới mơi trường hoạt
động của doanh nghiệp bao gồm:

- Nhà nước có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng thông qua việc ban hành hệ thống văn bản
pháp quy chính sách nhằm tạo ra mơi trường chính trị, pháp luật và kinh tế vĩ mô cho
hoạt động của các doanh nghiệp. Đặc biệt chính sách tài khố của Chính phủ ảnh hưởng
tới cung - cầu hàng hố hoặc là chính sách đầu tư cũng vậy.

- Các cơ quan tài chính như ngân hàng, bảo hiểm thơng qua các quy định về tín dụng, lãi
suất, tỷ lệ bồi thường thiệt hại v.v. Các cơ quan này có thể ảnh hưởng đến sự phân bổ
ngân sách cho tiêu dùng hay tiết kiệm đến giá cả hàng hố. Từ đó đến sức mua, đến quan
hệ cung - cầu trên thị trường.

-

Các cơ quan Quốc tế có ảnh hưởng rất lớn tới điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp.
Các cơ quan này gồm các cơ quan Liên hiệp quốc (UMCERP, UNFPA, UNDP, FAO ...)
và các cơ quan tài chính Quốc tế (IMF, WB, ADB ...). Các tổ chức kinh tế thế giới và khu
vực. Ví dụ: Các dự án của ADB cho Việt nam vay tiền làm đường sẽ tăng cầu về vật liệu

xây dựng và về ôtô, xe máy v.v.

- Các tổ chức tư nhân như nghiệp đoàn, các hội.


Thứ 4:
(F): Các chính sách thị trường và tiếp thị bao gồm:

+ Xác định thị trường mà doanh nghiệp hướng tới: Có những hồn cảnh khó khăn xảy ra
cho doanh nghiệp thị trường co hẹp lại, cạnh tranh gay gắt, cần biến đổi, trong tình hình
đó mục tiêu của doanh nghiệp chỉ là tồn tại được trên thị trường hay là duy trì cho doanh
số hay thị phần khơng giảm đi. Ngồi những trường hợp này địi hỏi doanh nghiệp phải
thực hiện một chính sách phịng ngự để bảo về thị trường đã có, và nếu muốn phát triển,
doanh nghiệp phải xác định thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập.

- Xâm nhập vào thị trường của các giới cạnh tranh: Với các mục tiêu này doanh nghiệp thu
hút các khách hàng hiện đang tiêu thụ sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, chính sách
này hợp với các doanh nghiệp có ưu thế mạnh đối với các đối thủ cạnh tranh: Như chất
lượng, giá cả, thị hiếu tiêu dùng v.v.

- Phát triển thị trường với các khách hàng tiêu dùng mới. Trong trường hợp này doanh
nghiệp tìm trong thị trường những vị trí chưa có các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh hoặc vì
một lý do nào đó mà họ bỏ qua. Để đạt được mục đích này, doanh nghiệp phải áp dụng
một số phương pháp tiếp thị thích hợp, như chính sách xúc tiến bán hàng hạ giá, đổi mới.

+ Phân đoạn thị trường để nhằm xác định đoạn thị trường mà doanh nghiệp hướng tới.

Người ta thường căn cứ vào một số tiêu chuẩn để phân doạn thị trường: Như về địa lý, về
dân số - xã hội, tâm lý, hành vi tiêu dùng.


+ Định vị sản phẩm: Vừa thiết kế một sản phẩm vừa tạo ra cho nó một hình ảnh đối với
khách hàng để cho trong tâm lý người này có một vị trí nhất định (rõ và cá biệt) so với


các sản phẩm cạnh tranh vì trong đoạn thị trường mà doanh nghiệp chọn có rất nhiều sản
phẩm cùng loại hoặc có khả năng thay thế so với sản phẩm của doanh nghiệp.

+ Chính sách tiếp thị: Chính sách này bao gồm 4 chính sách, bộ phận, được gọi là "4 P"
tức là viết tắt của (tiếng Anh) Product: Sản phẩm, Price: Giá, Promotion: Xúc tiến bán
hàng, Place: Điểm phân phối.

- Chính sách giá cả: Vùng giá, điều kiện thanh tốn, chế độ tín dụng.

- Xúc tiến bán hàng: Đây là việc lựa chọn các phương tiện chủ yếu để thông tin và gây
ảnh hưởng đến khách hàng của doanh nghiệp: Quảng cáo, xúc tiến bán, giao tiếp, lựa
chọn bán hàng.

- Chính sách phân phối: Cách giao hàng, kỹ thuật bày bán hàng, kho hàng, tổ chức kho
tàng, chu trình phân phối v.v.

1.1.6

Các công cụ cạnh tranh chủ yếu được sử dụng trong nền kinh tế thị trường:

Để nâng cao hệ số biểu thị sức cạnh tranh (K) hiện nay trong cơ chế thị trường các doanh
nghiệp thường sử dụng những công cụ sau đây:

Một là + Chất lượng hàng hố: Đây là cơng cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh
nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh.


Hai là + Giá cả hàng hoá: Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá song
sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh tốn của người tiêu dùng.
Mức sống cịn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hố có giá rẻ, ngược lại khi


mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đến hàng hố có chất lượng tốt,
chấp nhận mức giá cao.

Ba là + áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại: Thực tiễn đã chứng minh các
doanh nghiệp tồn tại và phát triển được cần có dây chuyền cơng nghệ mới, hiện đại, có
phương pháp quản lý khoa học.

Bốn là + Thông tin: Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách
hàng, về giá cả, đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp.

Năm là: Phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp: Đây là công cụ rất quan trọng để chiến thắng trong cạnh tranh. Đây chính là khâu
phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng : Bao gồm tiếp thị, quảng cáo, mời khách, thanh
toán linh hoạt v.v.

Sáu là: Tính độc đốn sản phẩm: Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng
hoá cũng như việc khơng ngừng nâng cao chất lượng tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện
cho sự tồn tại và phát triển hiện nay.

Bảy là: Chữ tín là cơng cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp: Trong quá trình kinh doanh
các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm dành dật khách hàng về phía mình, đặc
biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán như quy ước về giá cả, số lượng,
kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thanh toán bằng phương thức bán
trả góp, bán chịu, bán gối đầu v.v.v Những hành vi này sẽ được thực hiện tốt hơn khi
giữa doanh nghiệp và khách hàng có lịng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành cơng cụ

sắc bén trong cạnh tranh.


Tám là: Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro: Trong kinh doanh lợi nhuận doanh nghiệp
thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh doanh sử dụng có hiệu quả cơng
cụ này địi hỏi các nhà doanh nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh.

+

Các tiêu chí để đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường
bằng các tiêu chí sau: Chất lượng, giá cả hàng hoá bán trên thị trường cao hơn hay thấp
hơn các doanh nghiệp khác, dịch vụ và các điều kiện phục vụ việc mua, bán hàng hoá
thuận lợi hay khơng thuận lợi, chi phí thấp hay cao hơn các doanh nghiệp khác. Khi đánh
giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp người ta thường xem 3 tiêu chuẩn hàng
đầu là chất lượng sản phẩm, giá cả và những điều kiện giao hàng đối với sản phẩm đó.

+ Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao xác nhận các chỉ tiêu như: Tăng năng suất lao động,
nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ, hiệu quả kinh
doanh dịch vụ và điều kiện phục vụ việc mua (bán) hàng hoá, dịch vụ, chi phí dịch vụ và
điều kiện phục vụ.

+ Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao có nghĩa là hàng hố và dịch vụ của doanh nghiệp
phải có chất lượng cao hơn các doanh nghiệp khác, dịch vụ và điều kiện mua (bán) hàng
hố thuận tiện hơn, chi phí thấp hơn các doanh nghiệp khác.

1.2

Quan điểm của Nhà nước ta về cạnh tranh chuẩn bị cho hội nhập
Quốc tế:


Đánh giá về tình hình nền kinh tế nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được, nghị
quyết đại hội IX nêu rõ những yếu kém như sau: "Nền kinh tế phát triển chưa vững
chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ
cả trong nước và nước ngoài, một phần do thiếu sức cạnh tranh". Trên cơ sở đánh giá


tình hình, Nghị quyết đại hội Đảng IX cũng đã nêu rõ định hướng phát triển của nền kinh
tế trong đó nhấn mạnh việc nâng cao sức cạnh tranh như sau: "Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
10 năm 2001 - 2010 nhằm: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế".

Để chuẩn bị cho hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập AFTA, trong các giải pháp chủ
yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Nghị quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh "Tiếp
tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển ... từng
ngành, từng doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam
kết quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, mở
rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thơng và mở rộng thị trường
mới".

Tóm lại: Con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Đảng ta rất quan tâm và đã
có những định hướng cho cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng về
nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập thành công nền kinh tế thế giới mà trước mắt là
AFTA.

Trọng tâm của AFTA là giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0  5 % và triệt tiêu từng bước
hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại trong vòng 15 năm kể từ 1-1-1993 cho 2 loại

mặt hàng chính là hàng cơng nghệ và nơng sản chế biến với 15 nhóm mặt hàng cụ thể là:
Dầu thực vật, xi măng, dược phẩm, phân bón, chất dẻo, sản phẩm cao su, đồ da, bột giấy
v.v.


Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một tất yếu khách quan trong điều kiện khu vực
hoá và tồn cầu hố phát triển nhanh chóng tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các
nền kinh tế ngày một gia tăng. Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ Quốc tế. Đảng ta đã sớm nhận thức được xu thế tất yếu của
quá trình hội nhập Quốc tế và có chủ trương hội nhập với các nền kinh tế thế giới, cũng
như hình thành một số quan điểm và luận điểm cơ bản về mặt lý luận và thực tiễn. Đại
hội Đảng VIII của Đảng đã khẳng định: "Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác Quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực
trong nước là chính đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một
nền kinh tế mở, hội nhập vớ khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả" (Văn
kiện đại hội 8 - nhà xuất bản chính trị quốc gia 1996 trang 84 - 85).

Chương 2
Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi
Bằng trong qúa trình đổi mới cơ chế quản lý và quá trình hội nhập.

2.1

Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ và thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty Giấy Bãi Bằng.
2.1.1

Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật công nghệ - Sản phẩm của ngành công nghiệp


giấy:
Tổng năng lực sản xuất theo thiết kế của các đơn vị thành viên Tổng Công ty Giấy Việt
nam như sau:

- Bột giấy:
- Giấy:

120.000 tấn/năm
183.000 tấn/năm

Sản phẩm bao gồm một số chủng loại chủ yếu:


- Giấy viết, vở học sinh
- Giấy in, giấy in báo
- Giấy vệ sinh, khăn ăn
- Giấy xi măng, bao gói và các tơng các loại.

Sự tăng trưởng về sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Giấy Việt nam trong 5 năm gần
đây như sau:

chỉ tiêu

đơn vị

1997

1998

1999


2000

2001

127.400

162.300

169.200

173.300

187.500

tính
Tổng sản phẩm

Tấn

Doanh thu

Tr. đ

1.646.700 2.269.400 2.247.300 2.246.400 2.322.600

Ta thấy những năm gần đây Tổng Công ty Giấy đã đạt được những thành tưu đáng kể
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm của Tổng Cơng ty đã góp phần quan trọng
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, hạn chế một phần lượng bột giấy và giấy
nhập khẩu. Tuy nhiên sản lượng quá thấp so với các Công ty bột và giấy trong khu vực và

trên thế giới. Công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, thiết bị cũ, năng suất sản xuất trên đầu người
quá thấp, trình độ quản lý yếu kém dẫn đến. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp
đang là những thách thức gay gắt đối với Tổng Công ty Giấy trên đường hội nhập vào
khu vực và thế giới.

Trước tình hình đó Tổng Cơng ty Giấy đề ra chiến lược phát triển ngành giấy từ nay đến
2010, trong đó chú trọng đến các mục tiêu là tập trung đầu tư phát triển công nghiệp sản
xuất bột giâý và giấy gắn liền với việc đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu.

Đầu tư nâng cấp các nhà máy hiện có để đến 2010 đạt sản lượng 600.000 tấn - Trong đó
Bãi Bằng đạt 200.000 tấn giấy và 300.000 tấn bột (kế cả đầu tư mới).


2.1.2

Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Giấy Bãi Bằng:

- Cơng trình nhà máy Giấy Bãi Bằng là món q hữu nghị của Chính phủ và nhân dân
Thuỵ Điển giành cho Việt nam trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ trên cơ sở hiệp định
ký kết giữa hai Chính phủ Việt nam - Thuỵ Điển năm 1972.

- Dây chuyền được thiết kế và lắp đặt khá hồn chỉnh với cơng nghệ khép kín được xếp
vào hàng công nghệ tiên tiến ở thập niên 70. Năng lực sản xuất là 48.000 tấn bột và
55.000 tấn giấy mỗi năm.

- Từ sau khi khánht hành vào năm 1982 cho tới đầu những năm 90, mặc dù được các
chuyên gia Thuỵ Điển giúp đỡ điều hành nhưng do cơ chế kìm hãm nên cơng suất của
nhà máy khơng nâng được lên trên 70% cơng suất thiết kế (là điểm hồ vốn).

Chỉ từ sau khi Nhà nước đổi mới cơ chế, đặc biệt từ sau năm 1995 Công ty mạnh dạn đổi

mới về quản lý, tổ chức ... sản xuất kinh doanh phát triển, sản xuất vượt công suất thiết
kế, nộp ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng
được nâng cao. Công ty đầu tư xây dựng nhiều cơng trình phúc lợi để phát triển dân trí và
giúp đỡ kinh tế - xã hội địa phương phát triển.

Đến năm 1997 theo quyết định của Tổng Công ty Giấy Việt nam nhà máy Gỗ Cầu đuống
một đơn vị đang có nguy cơ phá sản, trở thành đơn vị thành viên của Công ty. Hiện nay
nhà máy Gỗ Cầu Đuống được Công ty đầu tư một dây chuyền sản xuất giấy Tissue với
công suất 10.000 tấn/năm đang đi vào hoạt động, bên cạnh đó vẫn duy trì các sản phẩm
cũ là gỗ dán, đồ mộc.


Để nâng cao công suất và chất lượng sản phẩm. Cơng ty đang đầu tư nâng cấp dây
chuyền hiện có để đạt được 3 mục tiêu cơ bản.

- Năng suất bột tăng lên 61.000 tấn/năm và 100.000 tấn giấy/năm chất lượng đạt tiêu chuẩn
quốc tế và môi trường đạt tiêu chuẩn môi trường quốc gia - và hiện tại Công ty đang trình
Chính phủ dự án tiền khả thi giai đoạn 2 để đầu tư dây chuyền sản xuất bột giấy hiện đại
với công suất thiết kế là 250.000 tấn bột/năm. Khi đó cả nước và Bãi Bằng sẽ khơng phải
nhập bột ngoại và sẽ có bột xuất khẩu.

Kết quả sản xuất kinh doanh của Bãi Bằng 5 năm qua:

năm

sản lượng

Doanh thu

Nộp ngân sách


thu nhập bình

(tấn)

(triệu đồng)

(triệu đồng)

quân (triệu đ)

1997

53.000

585.013

53.179

1.032

1998

60.000

672.270

59.620

1.381


1999

63.100

641.800

62.460

1.500

2000

65.524

722.600

69.480

1.830

2001

72.000

763.640

70.340

1.800



Hệ thống bộ máy tổ chức Công ty:

Tổ chức Công ty theo sơ đồ khái quát dưới đây:

Tổng công ty giấy
việt nam

cơng ty giấy bãi
bằng

các phịng ban chức
năng: TCHC, KTCN, thị
trường, vật tư, TCKT ...

Các
chi
nhán
h
- Hà
Nội
- Đà
Nẵng

HCM

Trong đó:

nhà

máy
giấy

nhà
máy
điện

nhà
máy
hố
chất


nghiệ
p

bảo
dưỡn
g

nhà
máy
gỗ
cầu
đuốn
g

khác
h
sạn


nhà
văn
hố

trườn
g mầm

non


×