Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ THU hút và sử DỤNG vốn đầu tư để PHÁT TRIỂN KINH tế VÙNG MIỀN núi PHÍA bắc nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 207 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với tất cả các quốc gia, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế
đều cần phải có vốn đầu tư. Mức độ huy động và hiệu quả sử dụng lượng
vốn đầu tư huy động được là một trong những nhân tố quyết định sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia và mỗi vùng, lãnh thổ ở quốc gia đó.
Trong những năm tới để phát triển kinh tế nhằm từng bước giảm
bớt khoảng cách về kinh tế - xã hội giữa miền núi phía Bắc với các vùng
lãnh thổ khác trong cả nước; đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, miền núi phía Bắc đang
rất cần nhiều vốn. Những năm vừa qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng
nền kinh tế miền núi phía Bắc đã xuất hiện nhiều hình thức huy động và sử
dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế, những kết quả về kinh tế - xã hội mà
miền núi phía Bắc đạt được chứng tỏ lượng vốn huy động đã được sử dụng
có hiệu quả. Tuy nhiên do đặc điểm kinh tế - xã hội và một số nguyên nhân
khác như: chính sách đầu tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư... quy định việc huy
động và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế ở miền núi phía Bắc đã
bộc lộ những hạn chế và yếu kém. Những hạn chế và yếu kém đó là một
trong những nguyên nhân cơ bản góp phần để lại cho miền núi phía Bắc
những hậu quả kinh tế - xã hội nặng nề như: Sự nghèo nàn lạc hậu đang có
khoảng cách ngày càng xa so với các vùng lãnh thổ khác, sự tàn phá rừng
nghiêm trọng, môi trường sinh thái và nguồn sinh thủy đã bị hủy hoại và cạn
kiệt dần.
Giải quyết những tồn tại kinh tế - xã hội miền núi phía Bắc cần phải
giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó vốn đầu tư để phát triển kinh tế
miền núi là một trong những vấn đề cực kỳ nan giải có tính cấp bách cả về lý
luận và thực tiễn. Xuất phát từ yêu cầu trên, NCS chọn đề tài: "Thu hút và

1



sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc nước ta hiện
nay".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc là một vấn đề
lớn mang tính chiến lược, nên được Đảng và Nhà nước quan tâm, sự quan
tâm đó được thể hiện thông qua đường lối chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế miền núi. Ngoài ra, nó còn được
các nhà hoạch định chiến lược, các nhà khoa học nghiên cứu và các công
trình nghiên cứu đã được đăng tải trên những phương tiện thông tin. Trong
đó đáng chú ý là một số công trình như:
- PGS.PTS Lê Du Phong và PTS Hoàng Văn Hoa: Phát triển kinh
tế-xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.
- GS.Bế Viết Đẳng: Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh
tế-xã hội ở miền núi. NXB Chính trị quốc gia. Nxb Văn hóa dân tộc, 1996.
- PTS. Phạm Văn Vang: Kinh tế miền núi và các dân tộc. Thực
trạng - Vấn đề và giải pháp. Nxb Khoa học xã hội, 1996...
Vốn đầu tư phát triển kinh tế miền núi phía Bắc còn là vấn đề trọng
tâm của những cuộc hội thảo, của các công trình khoa học và các báo cáo
của các bộ ngành.
- Đề tài KX04-11: Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính
sách đối với các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế-xã hội miền
núi. Hà Nội, 1995.
- Đề tài KX08-10: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội miền núi.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh- Phân viện Hà Nội:
Khai thác, huy động các nguồn lực phục vụ quá trình phát triển kinh tế các
tỉnh miền núi phía Bắc năm 1997.


2


- Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây
Bắc. Hà Nội 8-1996.
- Báo cáo của các bộ ngành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc và Miền núi, trong các hội
nghị sơ và tổng kết về phát triển kinh tế-xã hội miền núi. Chẳng hạn: Hội
nghị sơ kết 3 năm phát triển kinh tế-xã hội miền núi (1993-1995) và đề ra
phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế miền núi 1996-2000 và 2010. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tóm tắt chương trình phát
triển nông-lâm-ngư nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn vùng núi Bắc Bộ
tới năm 2000 và 2010, Hà Nội 9-1996. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phát triển
kinh tế - xã hội miền núi Bắc Bộ đến năm 2000 và 2010, Hà Nội 9-1996.
Ngoài ra vấn đề vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc còn
được đề cập trong một số luận án (thạc sĩ, phó tiến sĩ, tiến sĩ) và một số bài
viết trên các báo chí.
Nhưng những công trình khoa học và những báo cáo tổng kết đó chỉ
dừng lại ở những định hướng lớn hoặc chỉ nghiên cứu ở những khía cạnh
riêng biệt hay chỉ là những nhận định đánh giá chung, chưa có một công
trình và đề tài nào viết về "Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển
kinh tế miền núi phía Bắc" một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống của
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của vốn đầu tư
đối với phát triển kinh tế miền núi xác định được những phương hướng và
giải pháp cơ bản để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nhằm phát
triển kinh tế miền núi phía Bắc.
Nhiệm vụ của luận án:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về huy động và sử dụng vốn

đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc.

3


- Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư để phát triển
kinh tế ở miền núi phía Bắc từ 1986 trở lại đây.
- Đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm
huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế miền núi
phía Bắc.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án nghiên cứu huy động và sử dụng vốn đầu tư từ 1986 trở
lại đây.
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề huy động và sử dụng vốn
đầu tư (tiền tệ) để phát triển kinh tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, các chính sách của Nhà nước về
phát triển kinh tế nông thôn nói chung, về phát triển kinh tế miền núi và
miền núi phía Bắc nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học trước đó, tham khảo kinh nghiệm của một số nước về việc
huy động và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế nông thôn và miền núi.
Luận án sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu của khoa học
kinh tế, trong đó chú trọng sử dụng phương pháp thống kê - so sánh, phân
tích - tổng hợp, khảo sát thực tế từ đó khái quát thành những vấn đề lý luận.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Phân tích rõ hơn tính đặc thù, những đặc điểm riêng của quá trình
huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế miền núi phía Bắc.
- Làm rõ thêm những phương hướng, những giải pháp chủ yếu
nhằm huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế

miền núi phía Bắc.
7. Kết cấu luận án

4


Luận án có 185 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương với 8 tiết.
Chương 1

VỐN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

1.1. VỐN ĐẦU TƯ - VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1.1. Khái niệm vốn đầu tư
Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối
với việc phát triển kinh tế nói chung và từng vùng lãnh thổ nói riêng. Trong
điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn
nhưng khả năng đáp ứng chưa tương xứng do tích lũy từ nội bộ nền kinh tế
còn quá thấp. Thiếu vốn là hiện tượng phổ biến đối với các doanh nghiệp,
các tầng lớp dân cư cần vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Nhận thức
và vận dụng đúng đắn vốn đầu tư sẽ khai thác được tiềm năng về vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả để phát triển kinh tế.
Vậy vốn đầu tư là gì? Lý giải vấn đề này, các nhà kinh tế học thuộc
những trường phái kinh tế trước đây đã tìm hiểu vốn đầu tư thông qua
phạm trù tư bản.
Xuất phát từ học thuyết tiền tệ, chủ nghĩa trọng thương "coi nhiệm
vụ trung tâm là tích lũy tiền và tích trữ tiền, chứ không phải tích lũy tư bản

trong sản xuất và lưu thông" [80, 50].
Như vậy chủ nghĩa trọng thương đã lẫn lộn tiền với tư bản hay nói
cách khác chủ nghĩa trọng thương đã coi tư bản là tiền.
Còn chủ nghĩa trọng nông mà đại biểu là Phrăngxoakênê lại coi tư
bản không phải là bản thân tiền tệ, mà là tư liệu sản xuất mua được từ tiền

5


tệ đó. Đó chính là những yếu tố vật chất đưa vào sản xuất nông nghiệp như:
Súc vật cày kéo, nông cụ, hạt giống, tư liệu sinh hoạt của công nhân. Như
vậy theo Phrăngxoakênê thì "Tư bản chỉ đơn thuần là một đống vật chất"
[80, 294], tư bản là một vật cụ thể chứ không phải là tiền như chủ nghĩa
trọng thương quan niệm.
Annơ Rôbegiắccơ Tuyếcgô một đại biểu khác của trường phái trọng
nông trong quá trình nghiên cứu đã đưa ra một định nghĩa về tư bản, theo
ông tư bản là "những động sản được tích lũy lại" [80, 311]. Điều đó cho
thấy ông đã khắc phục được phần nào chủ nghĩa tự nhiên, khi nêu quan
niệm giá trị về tư bản.
Đến Ađam Xmít, mặc dù ông đã có quan niệm đúng đắn tư bản là
"động lực của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa" [83, 59] và xác định được nguồn
gốc chủ yếu để tích lũy tư bản ở trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng do cách lý
giải kiểu tự nhiên chủ nghĩa, Ađam Xmít đã cho rằng (tư bản là cái bộ phận
dự trữ nhờ đó mà con người "trông mong nhận được thu nhập") [83, 153].
Hay nói cách khác là Ađam Xmít đã coi tư bản chỉ là dự trữ sản xuất về của
cải vật chất. Nối gót Ađam Xmít, Đavít Ricácđô cũng coi tư bản đồng nhất
với dự trữ sản xuất và quỹ công cụ sản xuất. Theo ông "tư bản là một bộ
phận của cải trong nước, được dùng vào việc sản xuất và gồm thức ăn, đồ
mặc, các công cụ, nguyên vật liệu, máy móc, v.v... cần thiết để vận dụng
lao động" [83, 242].

Như vậy, về cơ bản các nhà kinh tế học trước C.Mác đều coi tư bản
là vật. Nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa với phương pháp
trừu tượng hóa khoa học, C. Mác đã khái quát hóa phạm trù vốn đầu tư qua
phạm trù tư bản. Trong quá trình nghiên cứu sự chuyển hóa của tiền thành
tư bản C.Mác đã đề cập "Như vậy là giá trị được ứng ra lúc ban đầu không
những được bảo tồn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn
cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận
động ấy đã biến giá trị đó thành tư bản" [42, 228], và để rõ hơn C.Mác nói

6


"giá trị luôn chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, nhưng nó không
bao giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy nó biến thành một thể tự
động... Vì rằng sự vận động trong đó nó đẻ ra giá trị thặng dư là sự vận
động của bản thân nó, cho nên sự tăng lên của nó là một sự tự tăng lên. Nó
có được cái thuộc tính thần bí là tạo ra giá trị, do chỗ bản thân nó là giá trị.
Nó sinh con đẻ cái hay ít ra cũng đẻ trứng vàng" [42, 232]. Trên tinh thần
đó C.Mác đi đến kết luận: "Như vậy giá trị trở thành giá trị tự vận động,
thành những đồng tiền tự vận động và với tư cách như thế nó trở thành tư
bản. Nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông, rồi trở lại lĩnh vực lưu thông, tự duy trì
và sinh sôi nảy nở trong lưu thông, quay về dưới dạng tự lớn lên và không
ngừng bắt đầu cũng một vòng chu chuyển ấy" [42, 234] và để hiểu bao quát
hơn toàn diện hơn về tư bản, khi nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản
C.Mác nói "tư bản, với tư cách là giá trị tự tăng thêm, không những bao
hàm các quan hệ giai cấp, bao hàm một tính chất xã hội nhất định, dựa trên
cơ sở là lao động tồn tại dưới hình thức lao động làm thuê, nó còn là một sự
vận động "một quá trình tuần hoàn tiến hành qua những giai đoạn khác
nhau, và bản thân nó lại bao hàm ba hình thái khác nhau của quá trình tuần
hoàn. Vì thế người ta chỉ có thể hiểu tư bản là một sự vận động, chứ không

phải là một vật đứng yên" [59, 9]. Như vậy thấy rất rõ rằng tư tưởng về tư
bản của C.Mác được cô đọng là: "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng
dư. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư, phải không ngừng được sử
dụng trong giai đoạn sản xuất, nếu không thì nói một cách chặt chẽ, nó
không phải là tư bản nữa" [60, 378]. Như vậy tư tưởng ngắn gọn của C.Mác
về tư bản đã bao hàm đầy đủ bản chất và tác dụng của vốn. Tư tưởng đó
phản ánh:
- Tư bản là giá trị, giá trị chỉ trở thành tư bản khi giá trị đó được sử
dụng nhằm mục đích mang giá trị thặng dư. Theo C.Mác giá trị là lao động
trừu tượng của con người kết tinh trong hàng hóa. Trong nền kinh tế, hàng
hóa chứa đựng giá trị gồm: hàng hóa vật chất (máy móc, thiết bị, nguyên

7


liệu...), tiền, hàng hóa sức lao động, hàng hóa dịch vụ, những hàng hóa vô
hình (vị trí kinh doanh, bản quyền phát minh sáng chế, thành tựu khoa
học).
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Nghiên cứu quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng giá trị thặng dư chỉ được sản
xuất ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất tư bản chủ nghĩa và được thực hiện
trong lĩnh vực lưu thông tư bản chủ nghĩa. Về thực chất giá trị thặng dư là
giá trị do sức lao động tạo ra thêm ngoài giá trị sức lao động, là lao động
không công của công nhân làm thuê. Do vậy, với phương pháp nghiên cứu
của C.Mác thì về cơ bản chỉ có giá trị của các yếu tố lao động và tư liệu sản
xuất được bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mang lại giá trị thặng
dư mới là tư bản.
Từ sự phân tích trên cho thấy, với mục đích nghiên cứu nhằm vạch ra
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã luận giải rõ vị trí và bản
chất của vốn nhưng chỉ giới hạn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhằm

đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế, phạm trù vốn đầu tư đã được các
nhà kinh tế tiếp cận với nhiều quan niệm, dưới đây là một số quan niệm chủ
yếu:
Quan niệm 1: "Trong dân gian vốn có nghĩa là tiền hoặc tài sản. Đối
với các kinh tế gia, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất (các yếu tố khác là lao
động và đất đai) được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ" [80, 368].
Quan niệm 2: "Đây là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản
xuất (đất đai, lao động, vốn).Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế
tạo để phục vụ sản xuất (tức là: máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự
trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm)" [81, 300].
Quan niệm 3: "Những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản
thân nó cũng được cái khác tạo ra. Vốn là một trong bốn yếu tố của sản
xuất, và bao gồm máy móc, nhà máy và nhà cửa là cái làm cho sản xuất trở

8


thành hiện thực nhưng trừ nguyên liệu thô, đất đai và lao động. Tuy nhiên
vốn bản thân nó cũng là sản phẩm của lao động và nguyên liệu thô và có
thể được coi như giá trị được tích lũy của những cái này" [79, 56].
Quan niệm 4: "Vốn đầu tư là toàn bộ chi phí vật chất để phục vụ
cho hoạt động đầu tư, bao gồm việc thay thế, phục hồi, sửa chữa, phát triển
các công trình kinh tế, văn hóa xã hội" [35, 10].
Quan niệm 5: "Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội của các cơ sở
sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động
của các nguồn vốn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất
xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt xã hội và gia đình" [41, 8].
Những quan niệm về vốn đầu tư ở trên phản ánh:
- Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được của quá trình

sản xuất.
- Vốn đầu tư là tiền ..., là toàn bộ chi phí vật chất..., vốn bao gồm
máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa...
- Vốn góp phần tạo ra hàng hóa, dịch vụ, thu nhập ...
Trên thực tế, trong nền kinh tế các yếu tố của quá trình sản xuất
ngày càng được mở rộng, ngoài các yếu tố của tài sản hữu hình còn bao
gồm các yếu tố của tài sản vô hình. Để nhận diện rõ về vốn đầu tư, cần
phân tích sâu hơn bản chất và tác dụng của vốn trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất: Vốn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hoạt
động được dùng vào đầu tư nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Tài sản
hoạt động đó bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản hữu hình
gồm hai bộ phận: những tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp sản xuất (máy
móc, thiết bị, công cụ, nhà xưởng...) và những tài sản hữu hình chỉ phục vụ
gián tiếp sản xuất (trụ sở cơ quan, phương tiện đi lại...). Trong hai bộ phận

9


ấy, bộ phận thứ nhất là năng lực sản xuất giữ vai trò quyết định tới hiệu quả
của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy ở các nước chậm phát triển, các
vùng lãnh thổ và các ngành cần chú ý tới đặc điểm này để sử dụng hiệu quả
lượng vốn huy động được. Trước hết ở các nước chậm phát triển giai đoạn
đầu cần đầu tư chủ yếu cho việc mua sắm tư liệu sản xuất; đến một trình độ
phát triển nhất định thì đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất tư liệu sản xuất
ở trong nước để đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản
vô hình bao gồm: vị trí kinh doanh, bản quyền phát minh sáng chế, thành
tựu khoa học kỹ thuật...
Thực tế trong nền kinh tế các nước tài sản vô hình ngày càng có vai
trò quan trọng trong cơ cấu vốn, các chủ đầu tư kinh doanh đã thu được lợi
nhuận rất lớn từ việc khai thác và sử dụng nguồn vốn vô hình này.

Thứ hai: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả
tiền đều là vốn. Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu
dùng hàng ngày, tiền để cất trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để
chi tiêu và tiền tiết kiệm để dành, đây là các khoản tiền không sinh lời, không
thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Đối với các nước chậm phát triển để khắc
phục tình trạng thiếu vốn trong nền kinh tế, đã có quan niệm cho rằng nhà
nước nên phát hành tiền tệ để đầu tư, quan niệm này cần loại bỏ vì tiền do
nhà nước phát hành có hai loại. Loại được đảm bảo bằng tài sản thật (đảm
bảo bằng vàng hay hàng hóa) và loại không được đảm bảo bằng tài sản thật
(tiền lạm phát). Chỉ những đồng tiền được đảm bảo bằng tài sản thật, được
đưa vào đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời tiền đó mới là vốn đầu tư.
Trong nền kinh tế việc sử dụng tiền trong đầu tư kinh doanh chính
là quá trình vận động của vốn. Trong quá trình vận động tiền ra đi rồi quay
về điểm xuất phát ban đầu với một lượng lớn hơn bản thân nó. Trong thực
tế sản xuất, kinh doanh có ba hình thức vận động của đồng vốn.
- Hình thức 1: T - T'. Đây là hình thức vận động vốn của các tổ
chức tài chính trung gian.

10


- Hình thức 2: T - H - T'. Đây là hình thức vận động của vốn ở các
doanh nghiệp thương mại và dịch vụ.
- Hình thức 3: T - H - SX - H' -T'. Đây là hình thức vận động của
vốn đầu tư ở các doanh nghiệp sản xuất.
Trong đó:
SX: quá trình sản xuất kinh doanh.
H: tư liệu sản xuất, sức lao động..., những hàng hóa vô hình.
T: lượng tiền ban đầu đưa vào đầu tư kinh doanh.
H': hàng hóa thu được sau quá trình sản xuất kinh doanh

T': Lượng tiền thu được sau quá trình đầu tư kinh doanh.
Chú ý: T' > T, T' = T + ∆ t
∆ t là lượng giá trị tăng thêm sau quá trình đầu tư kinh doanh.

Như vậy trong quá trình vận động vốn đầu tư thường thay đổi hình
thái và thông qua sự thay đổi đó tạo khả năng sinh lời của vốn. Khả năng
sinh lời của vốn đầu tư vừa là mục đích cuối cùng của đầu tư kinh doanh,
vừa là phương tiện để đồng vốn vận động ở giai đoạn tiếp sau với quy mô
lớn hơn.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường vốn là hàng hóa đặc biệt. Hàng
hóa đặc biệt này cũng có chủ sở hữu, nhưng khác hàng hóa thông thường ở
chỗ quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Trường hợp chủ sở hữu
tự đầu tư sản xuất kinh doanh là vì mong muốn thu được kết quả cao hơn
giá vốn. Trường hợp này mức độ rủi ro lớn hơn. Trường hợp chủ sở hữu
vốn bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, lúc này giá vốn
chính là giá trả cho quyền sử dụng vốn (giá vốn ở ngân hàng chính là lãi
suất vay). Như vậy, chỉ khi đạt được lợi ích thỏa đáng chủ sở hữu vốn mới
tự đầu tư sản xuất kinh doanh hay bán quyền sử dụng vốn.

11


Thứ tư: Trong nền kinh tế hàng hóa, vốn có giá trị về mặt thời gian
nên ở các thời điểm khác nhau thì giá trị của đồng vốn rất khác nhau. Đồng
thời chính nhờ sự tách biệt giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
theo thời gian đã làm cho vốn có điều kiện tích tụ, tập trung và lưu thông
trong đầu tư kinh doanh để sinh lời.
Qua sự phân tích trên thấy rằng, khi chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
XHCN, thì phạm trù vốn đầu tư cần được nhận thức cho phù hợp hơn. Hiện

nay từ góc độ chuyên ngành khác nhau (tài chính, ngân hàng, kinh tế chính
trị) các tác giả đã nêu ra những quan niệm về vốn đầu tư. Trên cơ sở nghiên
cứu, tham khảo những quan điểm về vốn của những nhà kinh tế, của những
nhà khoa học trong và ngoài nước, ở phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng
tôi cho rằng: vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ,
máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng
chế, chi phí nghiên cứu phát triển...) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được
mục tiêu đã dự định. Ở giới hạn, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của
luận án, vốn đầu tư chỉ còn là phần vốn tiền tệ giành cho đầu tư phát triển
kinh tế.
Đối với tất cả các quốc gia vốn là yếu tố không thể thiếu được để
phát triển kinh tế, để tiến hành sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị
trường với bất kỳ chủ thể kinh doanh nào đều cần phải có lượng vốn đầu tư
ban đầu để chi phí cho việc thuê đất đai, xây dựng nhà xưởng, mua sắm
trang thiết bị, trả lương... Còn đối với các chủ thể đầu tư đang tiến hành
hoạt động thì vốn đầu tư được dùng để mua sắm trang thiết bị máy móc
mới, đổi mới công nghệ, xây dựng và nâng cấp nhà xưởng... nhằm mở rộng
quy mô phát triển sản xuất kinh doanh.
Trên thực tế để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và đáp ứng yêu
cầu của quá trình sản xuất kinh doanh vốn đầu tư còn được phân thành
những loại cơ bản sau:

12


- Phân loại theo hình thái và nguồn lực đầu tư: Theo cách này vốn
đầu tư được phân thành hai loại vốn hữu hình và vốn vô hình.
+ Vốn hữu hình: Đây là loại vốn đầu tư có hình thái vật chất cụ thể
gồm các tài sản hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán. Ở
tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh vốn đầu tư được chuyển hóa phần

lớn dưới dạng hình thái vốn hữu hình.
+ Vốn vô hình: Đây là phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử
dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Phần vốn này bao gồm: quyền sử dụng vị trí kinh doanh, chi phí sử
dụng bí quyết công nghệ, chi phí cho việc phát minh sáng chế, v.v... Trong
thực tế tỷ trọng vốn vô hình ngày càng chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu
tư. Đây là điều các chủ thể đầu tư cầu chú ý để khai thác sử dụng vai trò
của vốn vô hình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Phân loại theo thời gian sử dụng: ở đây vốn đầu tư được phân
thành ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Cách phân loại
này giúp các chủ thể đầu tư có kế hoạch huy động và sử dụng vốn để đảm
bảo tiến độ của quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Vốn ngắn hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư nhưng chỉ
trong thời hạn một năm.
+ Vốn trung hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư trong thời
hạn từ 1 năm đến 5 năm.
+ Vốn dài hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư có kỳ hạn từ
5 năm trở lên.
- Phân loại theo nguồn vốn và chế độ sở hữu: Cách phân này vốn
đầu tư được phân thành vốn pháp định và vốn vay.
+ Vốn pháp định: là số vốn bắt buộc phải có để thành lập doanh
nghiệp. Đây là số vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, phần vốn này là một
bộ phận quan trọng của vốn đầu tư. Để giảm bớt rủi ro các chủ thể đầu tư

13


thường tìm mọi cách xây dựng phương án sản xuất kinh doanh mà tỷ lệ góp
vốn pháp định trong tổng vốn đầu tư càng ít càng tốt.
+ Vốn vay: là lượng vốn chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư, đây

là lượng vốn cần thiết mà các chủ thể đầu tư phải huy động để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế, để đảm bảo tính liên tục và tính hiệu quả của quá
trình sản xuất kinh doanh. Lượng vốn vay được thực hiện theo nguyên tắc
tín dụng, có nghĩa là chủ thể đi vay cần phải hoàn trả vốn vay và lãi theo
đúng kỳ hạn. Đặc điểm này của nguồn vốn vay đòi hỏi các chủ thể đầu tư
cần phải tính toán chặt chẽ lượng vốn cần vay và sử dụng lượng vốn vay có
hiệu quả cao nhất.
Ngoài những cách phân loại trên, vốn đầu tư còn được phân loại
theo những cách thức khác như: căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn
đầu tư, vốn được phân thành vốn cố định và vốn lưu động; phân loại theo
đặc điểm hoạt động vốn đầu tư được phân thành vốn đầu tư cơ bản và vốn
đầu tư vận hành; phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, vốn được
phân thành vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp; căn cứ vào quyền
sở hữu các nguồn vốn để tiến hành đầu tư ở phạm vi không gian trong nước
hay ngoài nước, ở cách phân loại này vốn được phân thành: vốn đầu tư
trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Phần nghiên cứu tiếp sau sẽ phân
tích rõ hơn về hai nguồn vốn này.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế của một quốc gia được hình thành từ
hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước.

Nguồn vốn trong nước được hình thành chủ yếu từ nguồn tiết kiệm
của xã hội, vốn từ các doanh nghiệp và vốn huy động thông qua việc sử
dụng những tài sản quốc gia.
- Nguồn vốn tiết kiệm của xã hội bao gồm phần tiết kiệm của Chính
phủ và phần tiết kiệm của dân cư. Phần tiết kiệm của Chính phủ chính là
phần tiết kiệm của ngân sách Nhà nước. Tiết kiệm của ngân sách nhà nước
hay là phần vốn ngân sách nhà nước chi cho phát triển kinh tế là phần

14



chênh lệch giữa tổng số thu so với tổng số chi thường xuyên của ngân sách
nhà nước. Tiết kiệm của ngân sách nhà nước thay đổi phụ thuộc vào những
nhân tố sau:
+ Sự tăng giảm các khoản thu: thu thuế, thu phí, thu lợi tức cổ phần,
thu hợp tác lao động, thu từ bán hay cho thuê tài nguyên và tài sản thuộc
nhà nước quản lý... trong các nguồn thu đó thuế là nguồn thu chủ yếu cho
ngân sách của các quốc gia.
+ Sự tăng hay giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước.
Các khoản chi ngân sách của quốc gia bao gồm: chi đầu tư cho phát triển
kinh tế, chi giáo dục, chi an ninh quốc phòng, chi khoa học công nghệ, chi
hành chính sự nghiệp v.v... Về nguyên tắc việc chi tiêu phải dựa vào khả
năng thu. Nhưng thông thường đối với các nước chậm phát triển và đang
phát triển nhu cầu chi bao giờ cũng lớn hơn so với nguồn thu. Để giải quyết
tình trạng thiếu hụt ngân sách ngoài việc tăng thu, giảm chi, chính phủ các
nước thường áp dụng các biện pháp đi vay hoặc in thêm tiền. Thường lệ
việc huy động từ tiền tiết kiệm của dân cư là giải pháp phổ biến được các
quốc gia hay áp dụng.
Phần tiết kiệm của các tầng lớp dân cư. Đây là nguồn được hình
thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư, thu nhập của dân cư được
hình thành: thu nhập từ kết quả lao động trong những lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ... của các gia đình và cá nhân người lao động; thu nhập do thừa kế,
thu nhập do thân nhân từ nước ngoài gửi về; các loại thu nhập khác (trúng
xổ số, giá cả thay đổi). Như vậy, tiết kiệm của các tầng lớp dân cư phụ
thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Trong nền kinh tế tiết
kiệm của dân cư là một bộ phận chủ yếu và ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong việc hình thành vốn đầu tư của các quốc gia. Mức độ tiết kiệm
của nguồn vốn này phụ thuộc vào các nhân tố sau:

15



+ Trình độ phát triển của nền kinh tế. Thông thường đối với các
nước có trình độ phát triển kinh tế ở mức thấp thì qui mô và tỷ lệ tiết kiệm
của dân cư cũng thấp.
+ Tập quán và xu hướng tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Trong
điều kiện nền kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp, do ảnh hưởng của nền
kinh tế thị trường và trào lưu tiêu dùng của xã hội thường dễ dẫn đến tỷ lệ
tiết kiệm của dân cư cũng ở mức hạn chế.
+ Mức đóng góp xã hội và những thay đổi trong chính sách giáo
dục, y tế, xã hội ... cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tiêu dùng và tiết kiệm
của các tầng lớp dân cư.
- Nguồn vốn hình thành từ các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường các doanh nghiệp thường xuyên phải huy động vốn để sử dụng vào
mục đích sản xuất kinh doanh ở những thời điểm thích hợp. Trong quá
trình sản xuất kinh doanh và trong thời gian huy động vốn của các doanh
nghiệp, số vốn chưa dùng đến có thể được cung cấp cho các nhà đầu tư
hoặc các doanh nghiệp khác thông qua đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp
qua các tổ chức tài chính trung gian. Nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng của
các doanh nghiệp bao gồm: vốn khấu hao cơ bản, vốn trích từ phần lợi
nhuận để tái đầu tư và một số nguồn vốn khác như: vốn lưu động chưa
dùng đến, lượng tiền chưa đến kỳ hạn thanh toán...). Trong các nguồn vốn
đó, nguồn hình thành từ phần lợi nhuận để tái đầu tư giữ vai trò quan trọng
vì nó là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp về quy mô vốn,
khoa học và công nghệ, sử dụng nhân tài v.v...
Điều đáng chú ý là khi đề cập nguồn tiết kiệm, thì tổng tiết kiệm
trong nước của mỗi một quốc gia (bao gồm tiết kiệm của Chính phủ, tiết
kiệm của dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp) phụ thuộc hoàn toàn vào
sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thu nhập bình
quân đầu người càng cao, thì khối lượng tiền tiết kiệm của quốc gia càng

lớn và ngược lại. Do vậy khả năng huy động vốn từ tiền tiết kiệm để đầu tư

16


phụ thuộc vào khả năng tiết kiệm và vào tình hình phát triển kinh tế của các
quốc gia. Từ đó cho thấy, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tiết kiệm theo cách hiểu thông thường là phần còn lại của thu nhập
sau khi đã đảm bảo cho tiêu dùng thiết yếu, còn đầu tư theo cách hiểu bao
quát nhất thì đầu tư là việc bỏ vốn, vật tư, sức lực... ở thời điểm hiện tại
nhằm thu được hiệu quả trong tương lai. Trong nền kinh tế mối quan hệ
giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện: Trước hết muốn đầu tư phải cần có
vốn đầu tư. Vốn đầu tư được hình thành từ nguồn tiết kiệm, như vậy tiết
kiệm là cơ sở của đầu tư. Trường hợp lượng tiết kiệm quá ít thì khó huy
động đủ vốn cho nhu cầu đầu tư, điều này ảnh hưởng tới hiệu quả của đầu
tư kinh doanh và ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong
trường hợp tiết kiệm nhằm mục đích dự trữ quá nhiều (không có ý định đầu
tư) không chuyển thành lượng vốn đầu tư thì lại trở thành lực cản đối với
quá trình mở rộng đầu tư để phát triển sản xuất. Vì vậy đối với mỗi quốc
gia trong mỗi một giai đoạn nhất định cần xử lý hài hòa và hợp lý giữa tiết
kiệm và đầu tư để đạt được tốc độ tăng trưởng nền kinh tế theo ý định
mong muốn.
Trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, khi tiết kiệm là cơ sở
của đầu tư thì ngược lại đầu tư sẽ tạo ra cơ sở để mở rộng nguồn tiết kiệm.
Trong nền kinh tế thị trường đầu tư có thể tiến hành theo hai phương thức:
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là phương thức đầu tư
mà người bỏ vốn phải tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Đầu tư gián tiếp là phương thức đầu tư bằng cách mua các chứng khoán có
giá trị như: công trái, trái phiếu, tín phiếu... để được hưởng lợi tức. Phương
thức đầu tư này người bỏ vốn không trực tiếp tham gia vào việc quản lý

kinh doanh. Đối với các chủ đầu tư ở các thành phần kinh tế họ sẵn sàng
đầu tư với bất kỳ phương thức nào, khi họ nhận thức được thời cơ sẽ đem
lại lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Khi đầu tư đạt được kết
quả, thì kết quả đó là cơ sở để huy động được các nguồn tiết kiệm làm tiền

17


đề để tăng quy mô đầu tư của quá trình sản xuất kinh doanh ở giai đoạn tiếp
sau.
- Nguồn vốn hình thành thông qua việc sử dụng lao động và tài
nguyên thiên nhiên. Thế mạnh của các tỉnh miền núi phía Bắc được biểu
hiện dưới dạng tiềm năng đó là nguồn nhân lực, những tài sản hữu hình và
những tài sản vô hình. Những nguồn tiềm năng đó nếu được khai thác và sử
dụng có hiệu quả sẽ chuyển hóa thành nguồn vốn tiền tệ, làm cơ sở tăng
thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Việc khai thác những tiềm năng thế
mạnh như đất đai, khoáng sản, lao động..., tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
về tiềm năng của từng quốc gia và chính sách khai thác, sử dụng của các
quốc gia đó. Để chuyển hóa lượng vốn tiềm năng thành lượng vốn đầu tư
thực tế trước hết phải có lượng vốn đầu tư ban đầu. Lượng vốn này sẽ được
sử dụng cho việc điều tra khảo sát, cải tạo, khai thác và sử dụng đối với các
loại tài nguyên thiên nhiên và được đầu tư cho việc bồi dưỡng, giáo dục
đào tạo nguồn nhân lực. Đối với những nước chậm và đang phát triển việc
sử dụng có hiệu quả lượng vốn ban đầu, để khai thác tiềm năng thế mạnh
của mỗi nước có vai trò rất quan trọng trong việc tích lũy vốn để thực hiện
quá trình công nghiệp hóa ở từng quốc gia.
Nguồn vốn nước ngoài: Trong nền kinh tế thị trường các nước đang
phát triển để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, ngoài việc huy động
triệt để nguồn vốn trong nước để đầu tư còn phải kết hợp với việc huy động
nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn của Chính phủ

các nước, của các tổ chức tài chính, tiền tệ, quốc tế và của các doanh nghiệp.
Huy động nguồn vốn bên ngoài chủ yếu thông qua những hình thức vay nợ,
viện trợ, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, nhưng tùy theo giai đoạn và
hoàn cảnh của từng nước mà mức độ sử dụng những hình thức này có khác
nhau. Việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của một nước. Trường
hợp ngược lại ngoài việc kìm hãm tốc độ phát triển và tăng trưởng của nền

18


kinh tế, nó còn tạo ra sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị của với những nước
đi vay và cho vay. Do vậy việc huy động và sử dụng vốn đầu tư bên ngoài
cần được cân nhắc và tính toán thật chặt chẽ khoa học trong chiến lược
phát triển kinh tế của từng quốc gia.
1.1.2. Vốn đầu tư tăng trưởng kinh tế và đầu tư phát triển
Ngày nay ở hầu hết các nước, đặc biệt là đối với các nước đang
trong thời kỳ công nghiệp hóa đều rất chú trọng xây dựng cấu trúc tăng
trưởng và phát triển. Tăng trưởng là sự gia tăng về lượng, mà cốt lõi là tổng
sản phẩm xã hội; còn phát triển là sự đạt được về chất, mà cốt lõi lại là
phúc lợi của xã hội và cá nhân. Thông thường chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
được tính bằng tốc độ tăng GDP hàng năm, đó là mức phần trăm (%) tổng
sản phẩm tăng thêm hàng năm so với năm trước, hoặc bình quân trong một
khoảng thời gian. Nhưng tiêu chuẩn để đánh giá một quốc gia phát triển
được đo bằng nhiều chỉ tiêu tổng hợp do chính sách đầu tư phát triển của
các quốc gia đó đem lại. Do vậy chính sách đầu tư phát triển của một quốc
gia là một chính sách tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu: Tăng trưởng kinh
tế, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động, bảo vệ môi trường sinh thái và ổn định chính trị, xã hội... Trong nền
kinh tế để huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cần phải phân biệt

rõ hai loại ảnh hưởng của đầu tư tăng trưởng và đầu tư phát triển.
- Đầu tư tăng trưởng là đầu tư làm tăng giá trị sản lượng hàng hóa
dịch vụ, tăng thu nhập bình quân đầu người và tạo nên sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Nhưng loại đầu tư này chưa tác động thúc đẩy sự tiến bộ về
mọi mặt xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý mà còn tạo ra sự mất cân
đối giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, do vậy tăng trưởng sẽ
không bền vững nếu không kết hợp với mục tiêu phát triển. Chẳng hạn, đối
với những nước có thế mạnh về nông nghiệp, nếu chỉ chú trọng ưu tiên đầu
tư cho phát triển nông nghiệp, không đầu tư hoặc đầu tư thấp vào các lĩnh
vực khác (công nghệ, dịch vụ, du lịch, kết cấu hạ tầng...), trong trường hợp

19


này nền kinh tế vẫn tăng trưởng và giả thiết sự tăng trưởng đó là liên tục thì
nền kinh tế đó mãi mãi là nền kinh tế nông nghiệp. Song, trên thực tế, sự
mất cân đối giữa các ngành, đặc biệt là giữa hai ngành nông nghiệp và công
nghiệp đã tạo ra những tiền đề bất ổn định cho sự phát triển của ngành
nông nghiệp và của cả nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế có những trường hợp do
lợi ích cục bộ, không đứng trên quan điểm cơ cấu kinh tế và chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội của cả vùng (cả nước) nên sự tăng trưởng cá biệt
không phù hợp với lợi ích chung của cả nền kinh tế, thậm chí gây ảnh
hưởng và làm thiệt hại cho nền kinh tế. Ví dụ: Do lợi ích cục bộ của ngành
than và vì lợi nhuận, ngành than sẵn sàng đầu tư bằng mọi giá, thì việc đầu
tư khai thác của ngành than sẽ ảnh hưởng môi trường sinh thái, và sự phát
triển của các ngành khác như du lịch, hải sản v.v...
- Đầu tư phát triển là đầu tư cũng làm tăng giá trị sản lượng hàng
hóa dịch vụ, tăng thu nhập bình quân đầu người và cũng tạo nên sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Nhưng vai trò quyết định của đầu tư phát triển là

làm thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của một quốc gia trong việc thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư phát triển có một vai trò
quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế của một quốc gia. Chính sách
đầu tư phát triển kinh tế là một chính sách tổng hợp đồng thời phản ánh
chính sách tăng trưởng kinh tế và quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã
hội. Nói cách khác, đầu tư phát triển kinh tế là một chiến lược đầu tư
tổng thể, trong đó các mối quan hệ về hiệu quả đầu tư rất được chú trọng
quan tâm (đầu tư công nghệ, đầu tư con người, đầu tư bảo vệ môi trường...)
nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện vững chắc và ổn định của cả nền
kinh tế.
Như vậy, nếu cho rằng hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn của đầu tư
tăng trưởng, thì hiệu quả kinh tế xã hội sẽ là đặc trưng cơ bản của đầu tư

20


phát triển. Vì thế trong nền kinh tế thị trường mục tiêu cơ bản của các nhà
đầu tư là quan tâm đến đầu tư tăng trưởng và nhất là đầu tư tăng trưởng
kinh tế thuần túy. Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhà
nước phải quan tâm đến đầu tư phát triển và có sự điều tiết can thiệp hợp lý
thông qua chủ trương, chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế. Do vậy,
mức độ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của một nước, phụ
thuộc vào chính sách đầu tư của nhà nước trong việc thực hiện sự kết hợp
giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân; thông qua chủ trương chính sách, nhất là chính
sách đầu tư tới toàn bộ nền kinh tế và giữa các vùng lãnh thổ. Tuy nhiên,
cần thấy rằng mọi sự phát triển đều bắt đầu bằng sự tăng trưởng kinh tế. Do
đó tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định của sự phát triển, điều này đòi
hỏi chính sách đầu tư của mỗi vùng và chính sách đầu tư của cả nền kinh tế
phải đảm bảo giải quyết hài hòa hai mục tiêu tăng trưởng và phát triển.

Trong nền kinh tế để xác định hiệu quả của quá trình sử dụng vốn
đầu tư, trước hết cần làm rõ mối quan hệ giữa vốn đầu tư với tăng trưởng
kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với vốn đầu tư theo mô hình
HRAOO DOMAR được xác định bằng công thức [35, 21].

G=

S
K

Trong đó:
G: Tốc độ tăng trưởng
S : Tỷ lệ tích lũy GNP
K: Hệ số gia tăng vốn đầu ra ICOR

ICOR =

∆K
∆Y

Trong đó:

21


ICOR: là hệ số đo lường năng lực sản xuất của tư bản đầu
tư.
K: Số vốn đầu tư tăng thêm trong năm
Y: Mức gia tăng GDP năm đó
Mô hình này chỉ rõ quy mô, tốc độ tăng của sản lượng phụ thuộc

vào quy mô, tốc độ tăng thêm của vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và
do sự khác nhau về trình độ kinh tế nên hệ số ICOR ở từng quốc gia là
khác nhau và cả trong cùng một nước hệ số ICOR cũng có sự khác nhau do
trình độ phát triển kinh tế ở từng giai đoạn quy định. Ở các nước công
nghiệp phát triển thường hệ số ICOR cao hơn nhiều so với các nước đang
phát triển; vì để gia tăng Y thì ở các nước đó phải đầu tư một lượng vốn lớn
hơn để mua máy móc thiết bị, do đó ICOR cao hơn. Còn ở các nước đang
phát triển việc tăng thêm Y có thể sử dụng nhiều lao động để thay thế máy
móc..., do vậy ICOR nhỏ hơn. Đây là một lợi thế của các nước chậm phát
triển trong quá trình huy động và sử dụng vốn. Đối với tất cả các nước, đặc
biệt là đối với các nước chậm và đang phát triển, hệ số ICOR là chỉ tiêu
hàng đầu cần tính đến khi tiến hành huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Như vậy hệ số ICOR theo mô hình trên cho biết sự đóng góp của vốn
vào sự tăng trưởng GDP. Nhưng sự tăng trưởng GDP ngoài sự đóng góp
của vốn còn có sự tác động của các yếu tố khác; để tính toán mức đóng góp
của từng yếu tố tới sự tăng trưởng các nhà kinh tế Robest Solon và Eduard
Demison đã sử dụng hàm sản xuất.
J = F (K, L, T, A ) [58, 85]
Trong đó:
J : đầu ra hay sản phẩm quốc dân
K: Dự trữ tư bản (vốn)
L: Số lượng lao động
T: Dự trữ đất trồng trọt và các tài nguyên thiên nhiên.

22


A: Sự tăng lên về năng suất hay hiệu quả sử dụng đầu
vào.
Hàm số này cho thấy sự tăng lên của sản phẩm quốc dân trong mối

quan hệ với các yếu tố của đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên, năng suất và
hiệu quả quản lý đầu vào). Từ thực nghiệm các nhà kinh tế đã nhận xét đối
với các nước phát triển, thì mức độ đóng góp của năng suất lao động và
hiệu quả quản lý về các yếu tố đầu vào cho sự tăng trưởng đầu ra nhiều hơn
so với mức đóng góp của vốn cho sự tăng trưởng. Trái lại, ở các nước đang
phát triển yếu tố vốn lại có vai trò lớn nhất đối với sự tăng trưởng của đầu
ra. Sở dĩ vốn có vai trò quan trọng to lớn trong tăng trưởng bởi vì sự tăng
thêm vốn đối với các nước đang phát triển đã bao hàm cả sự đổi mới về
công nghệ biểu hiện ở máy móc, thiết bị mới được đầu tư, bao hàm cả sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Do vậy đối với các nước chậm và đang phát
triển, vốn và tăng huy động vốn để đầu tư là yếu tố quan tâm hàng đầu để
thực hiện quá trình công nghiệp hóa ở các quốc gia.
Trên cơ sở tiếp cận mối quan hệ giữa sự gia tăng của vốn đầu tư với
sự gia tăng của GDP, cho phép khẳng định, vốn là yếu tố quan trọng nhất
đối với sự tăng trưởng và phát triển của các nước đang phát triển. Trong
nền kinh tế hiệu quả của quá trình sử dụng vốn đầu tư còn được xác định
mang tính chất định tính, như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, mức
độ thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo vệ môi
trường sinh thái; mức gia tăng người có việc làm; mức gia tăng sử dụng tài
nguyên; nâng cao mức sống vật chất và văn hóa của con người; từng bước
rút ngắn khoảng cách về kinh tế - văn hóa.., giữa các vùng lãnh thổ và giữa
các quốc gia. Nhưng lưu ý rằng, hệ thống chỉ tiêu tổng hợp này chỉ có thể
đạt được do chính sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế mang lại. Do
vậy việc xác định về vai trò của vốn đối với sự tăng trưởng và phát triển ở
các nước đang phát triển theo tinh thần trên hoàn toàn đúng và phù hợp với
hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Đối với miền núi phía Bắc, vốn đầu tư là yếu

23



tố quyết định tới sự phát triển kinh tế, từng bước giảm bớt khoảng cách về
kinh tế - xã hội của vùng với các vùng lãnh thổ khác trong cả nước.
Trên thực tế, mức độ giải quyết mối quan hệ giữa vốn đầu tư với
tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa vốn đầu tư với phát triển ở các
nước là khác nhau. Một số nước do quá chú trọng đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế ở mức độ cao, nên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội cho nền kinh tế quốc dân. Bình luận về vấn đề này, báo Bưu điện
Băng Cốc viết "Từ kinh nghiệm ba thập kỷ qua, người ta nhận ra rằng nhịp
độ tăng trưởng cao, sự bành trướng nhanh chóng của một bộ phận chế tạo,
việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, việc đa dạng hóa các mặt hàng xuất
khẩu đã đạt được với một giá đắt về tài nguyên thiên nhiên" [30, 206].
Những hậu quả kinh tế - xã hội mà các nước đang gặp phải là [30, 199]:
- Tài nguyên rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Bảng sau sẽ phản ánh
tình hình rừng và mất rừng ở một số nước.
Bảng 1: Tình hình rừng và mất rừng ở Đông Nam Á hiện nay
TT

Tên nước

Diện tích rừng
hiện nay (ha)

Diện tích rừng
bị mất (ha)

Số thời gian rừng bị
phá hủy hoàn toàn (năm)

1

Inđônêxia


85.000.000

1.500.000

57

2

Philippin

10.000.000

700.000

14

3

Malaixia

6.307.000

325.000

12

4

Thái Lan


29.000.000

1.400.000

21

Nguồn: Con đường phát triển của một số nước châu Á- Thái Bình Dương,
Nxb Chính trị quốc gia.

Qua bảng trên cho thấy Malaixia là nước có tỷ lệ mất rừng cao nhất
(8%/năm), Philíppin (7%/năm), Thái Lan (5%/năm). Nước có tốc độ phá rừng
lớn nhất là Inđônêxia,Thái Lan (khoảng 1 triệu ha/năm), Philippin (0,5 triệu
ha/năm), Malaixia (0,4 triệu ha/năm). Như vậy nếu tốc độ này tiếp tục thì
sau 12 năm Malaixia sẽ mất hết rừng, Philippin 14 năm, Thái Lan 21 năm
và Inđônêxia 57 năm. Nạn phá rừng chính là nguyên nhân của những trận

24


bão lụt thiên tai bất thường ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời
sống của nhân dân các nước.
- Môi trường bị ô nhiễm nặng nề, năm 1989 riêng ở thủ đô Băng
Cốc có 900 người mắc bệnh đường hô hấp do ô nhiễm môi trường gây ra.
- Sự phân cực xã hội phát triển, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng
tăng. Theo thống kê quốc gia Thái Lan, thu nhập của 20% tổng số hộ gia
đình giàu có nhất tăng từ 49,3% trong thời gian 1975-1978 lên 54% và năm
1957-1988; trong khi đó thu nhập 20% số gia đình nghèo khổ nhất giảm từ
6,1% xuống còn 4,5% cùng kỳ. Năm 1987 Malaixia có 82.000 hộ gia đình
ở thành thị và 485.000 hộ gia đình nông thôn thuộc diện nghèo khổ. Năm

1988 tỷ lệ nghèo khổ ở Philippin lên tới 49% dân số, trong đó phần lớn ở
nông thôn [30, 199-204]. Như vậy sự phân hóa giàu nghèo gia tăng do tác
động của cơ chế thị trường, của sự chú trọng đầu tư tăng trưởng thái quá
vào các khu vực trung tâm không những chỉ tồn tại ở các nước đang phát
triển, mà nó còn là phần thưởng xứng đáng kể cả đối với những nước công
nghiệp phát triển "chúng ta quan sát thấy những xu hướng tương tự như thế
ở ngay những quốc gia giàu nhất, biểu hiện cụ thể ở khuynh hướng đô thị
hóa thái quá với những tổng thể đô thị cực lớn gọi là "megalopolis", và
giữa khung cảnh phồn hoa tráng lệ ấy là những khóm dân cư khánh kiệt vì
nạn nghèo khổ, mà cũng chẳng biết nghề nghiệp gì để kiếm sống" [61,
239].
- Các vấn đề xã hội, chính trị nảy sinh ảnh hưởng nghiêm trọng tới
quá trình phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của người lao động ở các
nước. Chẳng hạn ở Malaixia vào tháng 5 năm 1969 xảy ra bạo loạn đẫm
máu, nguyên nhân của tình trạng này là sự phân phối bất bình đẳng về thu
nhập và sự chia rẽ sâu sắc các tầng lớp, các tộc người trong xã hội [30, 182].
Như vậy, từ kinh nghiệm của một số nước cho thấy sự kết hợp giữa
đầu tư cho tăng trưởng kinh tế với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội là

25


×