Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYÊN NGÀNH VAI TRÒ của NÔNG dân TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG xây DỰNG NÔNG THÔN mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.97 KB, 89 trang )

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lãnh đạo cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn
đánh giá cao vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xác định: “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng
để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước” [17, tr.123]. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05/8/2008 Hội Nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và Bộ Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới ban
hành theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính
phủ, vấn đề xây dựng NTM, đây là lần đầu tiên được đề cập một cách cơ bản,
toàn diện và sâu sắc, đáp ứng mong muốn của nhân dân và yêu cầu chiến lược
xây dựng đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH. Trong xu thế phát triển hiện nay,
không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp, nông thôn còn lạc hậu và
đời sống nông dân còn thấp. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Xây dựng nông thôn mới là quá trình lâu dài, phải giải quyết đồng bộ,
toàn diện nhiều nội dung liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Vấn đề đặt ra phải hình thành và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức cộng động dân cư nông thôn mà cốt lõi là nông dân. Bởi nông dân là lực
lượng nòng cốt, giữ vai trò chủ thể trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ của
quá trình này như Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Xây dựng, phát huy vai
trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông
thôn” [19, tr.241]. Trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, nông
dân giữ vai trò là chủ thể, đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhằm phát



4

huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào
công cuộc xây dựng nông thôn cả về kinh tế, văn hóa và xã hội đồng thời bảo
đảm những quyền lợi chính đáng của họ.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Triển khai chương trình xây dựng nông thôn
mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong
từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông
thôn Việt Nam” [19, tr.197 - 198]. Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông
Nam Bộ, hiện nay diện tích đất nông, lâm, ngư nghiệp hơn 214.547ha, chiếm
79,60% diện tích đất tự nhiên; có 60 xã nông thôn, chiếm 70,05% dân số và 12%
lao động của Tỉnh. Trong những năm qua tỉnh Bình Dương đã có nhiều cố gắng
trong việc phát huy vai trò nông dân cùng các thế mạnh của Tỉnh trong xây dựng
NTM. Tuy nhiên, theo Bộ Tiêu chí Quốc gia và của Tỉnh về xây dựng NTM, cho
đến nay tỉnh Bình Dương chưa có xã nào đạt đầy đủ các tiêu chí NTM, một trong
những nguyên nhân cơ bản của hạn chế đó là do chưa nhận thức đầy đủ và phát
huy tốt vai trò của nông dân. Để xây dựng thành công NTM ở tỉnh Bình Dương,
việc xác định đúng và phát huy tốt vai trò nông dân đang đặt ra những vấn đề thời
sự bức thiết. Trong bước phát triển sắp tới, tỉnh Bình Dương cần tập trung khơi
dậy, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phát huy tốt vai trò nông dân
trong phát triển sản xuất hàng hóa, điều chỉnh các hình thức tổ chức sản xuất có
hiệu quả, tăng thu nhập cho nông dân, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tiếp tục thu hút
đầu tư trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp trên địa bàn nông thôn, đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng NTM.
Từ những lý do trên, tác giả chọn và nghiên cứu đề tài: “Vai trò nông
dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng nông thôn mới hiện nay” là mang tính
cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng NTM ở nước ta đã thu hút nhiều nhà khoa học tham
gia nghiên cứu, cho đến nay có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:



5

Nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
trong thời kỳ mới của Lê Quang Phi [43]; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam. Con đường và bước đi của Nguyễn Kế
Tuấn [62]; Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta của Hoàng Ngọc Hoà [23]. Các tác giả tập
trung luận giải về sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, sự lãnh đạo
của Đảng, những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới cùng những
giải pháp được tác giả đưa ra nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau của
Đặng Kim Sơn [47]; Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân
của Hunggari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận dụng cho Việt Nam do
Lê Du Phong chủ biên [42]. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
trong nước và quốc tế, các tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa nông nghiệp,
nông dân và nông thôn trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Lưu Văn Sùng [52]; Nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới - Quá khứ và hiện tại của
Nguyễn Văn Bính [3]; Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn kinh nghiệm
Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc do tập thể các tác giả Phùng Hữu Phú,
Nguyễn Viết Thông, Bùi Văn Hưng chịu trách nhiệm biên soạn [44]. Những tác
giả này đi sâu nghiên cứu dưới góc độ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; từ
những kinh nghiệm xây dựng “tam nông” của Trung Quốc để tìm ra giải pháp
xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của Võ Thị Cẩm Vân (2008), Sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Bình Dương, dưới góc độ lịch sử tác giả đi sâu
vào nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Bình Dương.


6

Nghiên cứu về nông thôn và nông thôn mới:
Bàn về một số vấn đề ở nông thôn nước ta hiện nay của Hồ Văn Thông
[55]; Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình trì đô thị
hoá của Nguyễn Thị Thơm [56]; Phát triển nông thôn bền vững - Những vấn
đề lý luận và kinh nghiệm thế giới do Trần Ngọc Ngoạn chủ biên [39]; Mấy
vấn đề về xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa của Tăng Nghiệp Tùng
[64]; Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam của Nguyễn Xuân
Thảo [54]; Thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị
Tâm [53]; Con đường phát triển nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở đồng bằng sông Cửu Long nước ta hiện nay của Nguyễn Minh Châu [7];
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng dài lâu của Đảng và nhân
dân ta của Hồ Xuân Hùng [27]. Các tác giả trên đây đề cập và nghiên cứu khá
cơ bản về nông thôn Việt Nam, xây dựng được mô hình NTM, giải quyết các
vấn đề liên quan đến nông thôn như xóa đói, giảm nghèo, phát triển KT-XH
nông thôn, thực hiện dân chủ ở nông thôn hướng tới xây dựng thành công
NTM xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn
ngoại thành Hà Nội - Thực trạng và giải pháp do tập thể tác giả Lê Du
Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoà chủ biên [41]. Công trình này đi
vào nghiên cứu những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, quá trình phát triển
CNH, HĐH đến nông thôn trên một số địa phương cụ thể, đề xuất một số giải
pháp nhằm khắc phục sự ảnh hưởng đó và xây dựng NTM.
Xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương, Luận văn
thạc sĩ khoa học văn hóa của Đỗ Khắc Điệp (1997) tập trung nghiên cứu lĩnh
vực văn hóa nông thôn, nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc

xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương; tác giả Cao Sơn
trên báo Bình Dương (16/08/2009) có bài Nông thôn mới Bình Dương: Xây
dựng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tác giả bước đầu đi vào


7

nghiên cứu và chỉ ra một số thực trạng xây dựng NTM ở tỉnh Bình Dương
theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nghiên cứu về nông dân và vai trò nông dân:
Tác động của tâm lý làng, xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế - xã hội
ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay của Lê Hữu Xanh chủ biên [69].
Đề tài này tập trung luận giải về nông dân, tâm lý, phong tục, tập quán và đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội làng, xã của nông dân ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ
nước ta trong việc xây dựng đời sống KT-XH. Sự chuyển hướng của giai cấp
nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Nguyễn Đức
Hưởng [29]; Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong
giai đoạn hiện nay của Bùi Thị Thanh Hương [28]; Nông dân Tây Bắc trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay của Đỗ Ngọc Sơn [49]. Các đề tài bước
đầu đi nghiên cứu sự phân hóa giào nghèo, đặc điểm của giai cấp nông dân trong
giai đoạn đổi mới đất nước, làm rõ xu hướng biến đổi khách quan của giai cấp
nông dân Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo, trình bày một số phương hướng đưa
giai cấp nông dân Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những
đề tài này tuy bàn đến đối tượng là nông dân nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu
vai trò và phát huy vai trò nông dân trong xây dựng NTM.
Một vài suy nghĩ về vấn đề nông dân trong xây dựng chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
Luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Tuyết Nhung (1995); Vận dụng Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân trong thực hiện chính sách đối với
nông dân ở ngoại thành Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học của Cao

Văn Chính (2007); Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hải Dương, Luận văn
thạc sĩ triết học của Tô Văn Song (2002); Vai trò nông dân Nam Định trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Xuân Đại (2010). Những tác giả trên


8

đây bước đầu đã đi vào nghiên cứu vai trò nông dân, thực hiện dân chủ ở
nông thôn và phát huy vai trò nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn trên một số địa phương cụ thể song lại chưa đi vào nghiên
cứu vai trò nông dân trong xây dựng NTM với tư cách là một đề tài cụ thể.
Như vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học
và các bài báo khoa học nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân và nông thôn
cùng những vấn đề liên quan được công bố. Song chưa có công trình nào nghiên
cứu đề cập đến vấn đề: Vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM
hiện nay. Vì vậy, đề tài là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả, không trùng
với các công trình khoa học, luận án, luận văn đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM; đề xuất
phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nông dân tỉnh
Bình Dương trong xây dựng NTM hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Làm rõ quan niệm về xây dựng NTM, đặc điểm, vai trò nông dân tỉnh
Bình Dương trong xây dựng NTM hiện nay.
Đánh giá thực trạng vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng
NTM ở tỉnh Bình Dương thời gian qua, chỉ rõ những kết quả đã đạt được, hạn
chế, nguyên nhân cơ bản và một số vấn đề cần quan tâm giải quyết.

Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn
nữa vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM ở tỉnh Bình
Dương, các số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2006 đến nay.


9

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về giai cấp nông dân và xây dựng NTM.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn
Thông qua các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan chức
năng, kết quả nghiên cứu thực tế của tác giả về thực trạng vai trò nông dân
tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM và kết quả xây dựng NTM ở Tỉnh từ
năm 2006 đến 2011.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp
lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu
liên quan; các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: điều tra xã hội học,
tổng kết kinh nghiệm, chuyên gia… trong quá trình nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp nguồn tư liệu để
cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức CT-XH ở địa phương tham khảo trong

quá trình lãnh đạo phát huy vai trò nông dân trong xây dựng NTM ở Bình
Dương hiện nay, đồng thời là tài liệu cần thiết cho những địa phương khác
phát huy vai trò nông dân trong xây dựng NTM hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn chủ nghĩa
xã hội khoa học ở trường Chính trị của tỉnh và khu vực.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NÔNG DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

1.1. Quan niệm về nông thôn mới và vai trò nông dân tỉnh Bình
Dương trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
1.1.1. Quan niệm về nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới ở
tỉnh Bình Dương hiện nay
* Quan niệm về nông thôn mới ở nước ta hiện nay
Nông thôn là địa bàn cư trú, sinh hoạt và phát triển của nông dân đồng
nhất với làng, xã; nói cách khác là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội
thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là uỷ
ban nhân dân xã.
Nông thôn đã từng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển đất
nước là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá, nuôi dưỡng nguyên khí của dân tộc
trước các nguy cơ đồng hoá, nô dịch. Những giá trị nói trên của nông thôn
luôn luôn cần thiết cho phát triển đất nước, cần và sẽ được tiếp tục trong mô
hình NTM. Nhưng tính khép kín, tính tự cung, tự cấp của mô hình nông thôn

truyền thống rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước sau
ngày độc lập, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Những ý tưởng về một NTM
đã có từ lâu trong nhân dân ta đó là mơ ước về một nông thôn không có nạn
“cường hào”, giảm sưu thuế, hạn chế các “lệ làng” và không có các “hủ
tục”… Một nông thôn trong đó người nông dân được làm chủ, tự do sản xuất,
sống trong tình làng nghĩa xóm “là lành đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có
nhau”… Xây dựng NTM theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay cần chọn
lọc và khai thác những mặt tích cực của nông thôn truyền thống, đồng thời
khắc phục những hạn chế, tiêu cực của nó.
Sau ngày độc lập, Hồ Chí Minh đã đề xuất phong trào thi đua xây
dựng NTM ở vùng giải phóng, chú trọng xây dựng Đời sống mới, coi đó là


11

biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ tàn dư lạc hậu do chế độ cũ để lại...
Trong xu thế phát triển hiện nay, không thể có một nước công nghiệp nếu
nông nghiệp, nông thôn còn lạc hậu và đời sống nông dân còn thấp. Vì vậy,
xây dựng NTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng quý báu của Hồ Chí Minh về xây
dựng NTM, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X đã xác định: “Xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô
thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân
trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông
thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [17, tr.126]. Quán triệt, triển
khai thực hiện Nghị quyết trên của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ
Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới kèm theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày

16/4/2009 bao gồm 19 tiêu chí với 5 nhóm nội dung [57]; Quyết định số
800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 với các mục tiêu cụ thể đến năm
2015 có 20% số xã và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn
mới (theo Bộ Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới). Theo đó Chính phủ đã triển
khai thực hiện xây dựng 11 xã điểm ở các vùng miền khác nhau, trên cơ sở đó
rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình trong cả nước, đồng thời phát động phong
trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Đến nay, quan niệm về nông thôn mới ở nước ta về cơ bản đã được định
hình và bước đầu được cụ thể hoá bằng các chương trình hành động cụ thể của
Chính phủ. Tuy nhiên, cần thống nhất nông thôn mới trước tiên phải là nông
thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn
truyền thống hiện nay, có thể khái quát gọn theo năm nội dung cơ bản sau:


12

nông thôn là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển
bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống về vật chất và tinh thần của
người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được
giữ gìn và phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
Từ nội dung trên, đặt ra yêu cầu đối với nông thôn mới nước ta hiện nay
Một là, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nền kinh tế nông thôn phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt
và lâu dài. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc thực hiện công bằng xã hội
và an sinh xã hội ở nông thôn.
Hai là, nông thôn được bảo đảm bằng HTCT cơ sở vững mạnh, an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng vững mạnh. Kết cấu

giai cấp - xã hội nông thôn đa dạng, phong phú, các giai cấp, tầng lớp lao
động xã hội đoàn kết, tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng cuộc sống mới.
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí
thức vững mạnh, tạo nền tảng KT-XH và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ba là, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn được nâng
cao, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm
nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân,
tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong
quá trình CNH, HĐH đất nước; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nông thôn,
dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, đồng thời bảo đảm được mức và
cơ cấu đầu tư để xây dựng hạ tầng NTM, nông dân được đào tạo có trình độ
sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính
trị, đóng vai trò làm chủ NTM.


13

Bốn là, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; xã hội nông
thôn được quản lý tốt và dân chủ. Đời sống văn hóa lành mạnh, dân cư nông
thôn được sống trong bầu không khí dân chủ, công bằng cởi mở, đầm đà tình
làng nghĩa xóm, truyền thống tốt đẹp của cộng đồng làng xã được phát huy,
môi trường trong sạch, lành mạnh.
* Nội dung xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bình Dương hiện nay
Ngày 06/11/1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra quyết định tách tỉnh Sông Bé thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước.
Hiện nay, tỉnh Bình Dương có 3 thị xã (Thủ Dầu Một- trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa của Tỉnh và Thuận An, Dĩ An) và 4 huyện (Tân Uyên, Bến
Cát, Phú Giáo, Dầu Tiếng) bao gồm 60 xã và 21 phường, thị trấn.

Về tự nhiên: Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh, cửa
ngõ thông thương giữa trung tâm công nghiệp, đô thị lớn với các tỉnh miền
Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Với diện tích tự nhiên 269.522ha, trong
đó đất sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp 214.547ha, chiếm 79,60%.
Về kinh tế - xã hội: thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng (năm 1986), nhất là từ sau tái thành lập Tỉnh đến nay, kinh
tế tỉnh Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và tương đối
toàn diện, cùng với Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu tạo thành
khu tứ giác kinh tế trọng điểm phía Nam. Bắt đầu vào cuối những năm 90 của
thế kỷ XX, với chính sách trải “thảm đỏ” chào đón các nhà đầu tư, tỉnh Bình
Dương nhanh chóng trở thành địa phương phát triển năng động nhất của cả
nước. Hiện nay, dân số 1.497.117 người, có 15 dân tộc sinh sống, mật độ dân
số 555 người/km2, nhiều làng nghề truyền thống như: điêu khắc gỗ, đồ gốm,
tranh sơn mài… VH-XH có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện; quốc
phòng - an ninh được giữ vững.


14

Mục tiêu chủ yếu phát triển KT-XH 5 năm 2011 - 2015, do Đại hội đại
biểu Đảng bộ Tỉnh khóa IX xác định là: Nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng HTCT vững mạnh gắn với tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện trên
các lĩnh vực, tập trung phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng ưu tiên phát triển
công nghiệp, dịch vụ gắn với quá trình đô thị hóa, đầu tư hợp lý để phát triển
nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng NTM. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, thực hiện tốt cải cách hành

chính, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư. Cải thiện và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đảm bảo an sinh xã
hội và bảo vệ môi trường. Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng KT-XH làm
động lực cho phát triển, sớm đưa Tỉnh thành đô thị văn minh, hiện đại.
Tỉnh Bình Dương là nơi hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi, có thiên thời, địa
lợi, nhân hòa, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển trong giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên cơ sở những nội dung, tiêu chí xây dựng NTM của cả nước, xuất phát
từ đặc thù về điều kiện tự nhiên, KT-XH của Tỉnh, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành
Chương trình hành động số 77-CTHĐ/TU ngày 15/10/2008, nhằm thực hiện Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; căn cứ Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ Tiêu
chí Quốc gia về nông thôn mới, Uỷ ban nhân dân Tỉnh ra các Quyết định về ban
hành Bộ Tiêu chí xây dựng nông thôn mới tỉnh Bình Dương [Phụ lục 2], phê duyệt
29 xã thực hiện thí điểm xây dựng NTM trên địa bàn Tỉnh, thành lập Ban Chỉ đạo
thực hiện Chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 định hướng đến
năm 2030 với những nội dung cụ thể như sau:


15

Thứ nhất, về quy hoạch và thực hiện quy hoạch nông thôn mới
Ủy ban nhân dân Tỉnh đã phê duyệt các quy hoạch đến năm 2020 làm
căn cứ để định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
như: điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, phát triển các khu, cụm công nghiệp,
điện; xây dựng quy hoạch phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp; quy hoạch
phát triển đô thị, dân cư nông thôn, mạng lưới chợ, ngành nghề nông thôn;
quy hoạch giao thông nông thôn và giao thông nội đồng.
Song song với việc triển khai thực hiện, quản lý tốt các quy hoạch đã

được phê duyệt, tập trung tiến hành quy hoạch phát triển nông thôn cấp xã,
từng xã trong quy hoạch sử dụng đất, phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ
tầng, làng nghề, cụm công nghiệp… phải tuân thủ quy hoạch phát triển KTXH toàn vùng đã được phê duyệt, đặc biệt khu dân cư phải được quy hoạch
trước theo vùng để cơ sở hạ tầng phát huy tác dụng, đồng thời đảm bảo được
nét văn hóa truyền thống.
Thứ hai, về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới
Tiếp tục bổ sung các nội dung của đề án phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH
nông thôn giai đoạn 2007 - 2010, để thực hiện giai đoạn 2010 - 1015 và định
hướng đến năm 2030, cho phù hợp với Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng NTM, trong đó tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: đầu tư xây dựng hoàn
chỉnh hệ thống các công trình thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương đảm bảo phục vụ
tưới cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thoát nước công nghiệp, đô thị; đầu tư phát
triển hệ thống đường giao thông nội đồng, tạo thuận lợi trong vận chuyển vật tư
nông nghiệp và lưu thông hàng hóa nông sản, chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
Xây dựng hoàn thiện các thiết chế văn hóa, đẩy mạnh phong trào xây
dựng gia đình văn hóa, khu, ấp văn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động văn
hóa ở các khu dân cư; phổ cập giáo dục trung học; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề) đạt
90% trở lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 40%. Có trên 40% người dân


16

tham gia các hình thức bảo hiểm y tế; y tế xã đạt chuẩn quốc gia. Xã có từ
90% số thôn, ấp trở lên đạt tiêu chuẩn Làng văn hoá theo quy định của Bộ
Văn hoá - Thể thao - Du lịch. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
theo quy chuẩn quốc gia đạt 90%; các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu
chuẩn về môi trường; không có các hoạt động gây suy giảm môi trường và có
các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp; nghĩa trang được xây
dựng theo đúng quy hoạch; chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo

quy định. An ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
Thứ ba, về phát triển sản xuất hàng hóa và các hình thức tổ chức sản
xuất có hiệu quả để tăng thu nhập cho người dân
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn: thông qua chuyển dịch
lao động sang phi nông nghiệp bằng đào tạo nghề và xúc tiến giải quyết việc
làm; phát triển ngành nghề nông thôn; quản lý tốt các loại hình dịch vụ trong
nông thôn; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống nhằm góp phần giải
quyết việc làm cho khu vực nông thôn, trong đó tập trung thực hiện tốt Đề án
Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
Chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao năng
suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
Gắn sản xuất với công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị thu nhập trên 1ha
đất canh tác. Tập trung phát triển, nâng cao tỷ trọng chăn nuôi theo hướng
công nghiệp gắn với vùng an toàn dịch bệnh và xử lý môi trường, để từng
bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong cơ cấu ngành nông
nghiệp của Tỉnh. Ổn định cơ bản quy hoạch vùng chuyên canh và đất sản xuất
nông nghiệp để nông dân an tâm sản xuất.
Khuyến khích, hỗ trợ cho nông dân mở rộng sản xuất, hình thành các trang
trại, doanh nghiệp trong nông nghiệp; tiêu thụ nông sản qua hợp đồng; tạo điều
kiện thuận lợi trong việc giải quyết đầu ra cho nông sản; định hình được vị thế của
các loại nông sản chủ lực trên thị trường trong và ngoài nước, thông qua việc xây


17

dựng thương hiệu và quảng bá cho sản phẩm nông sản chủ lực. Thu nhập bình
quân đầu người/năm gấp 1,5 lần so với mức bình quân chung của tỉnh; tỷ lệ hộ
nghèo dưới 3%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp dưới 20%; tổ chức hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
Thứ tư, về chuyển dịch cơ cấu đầu tư

Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng KT-XH theo phương châm xã hội hóa, tạo
ra bước phát triển đột phá về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng KT-XH theo
hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội toàn diện
trên địa bàn. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp trên
địa bàn nông thôn làm nền tảng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
nhất là những ngành công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp dùng nguyên
liệu tại chỗ. Tăng tỷ trọng đầu tư trong xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH.
Xây dựng mô hình điểm truy cập công nghệ thông tin trên mạng
Internet phục vụ phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương thông qua Hội Nông
dân ở tuyến xã nhằm cung cấp thông tin về thị trường, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật, giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ năm, về cơ chế chính sách khuyến khích để huy động nội lực
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách thu hút đầu tư, xã hội hóa, tín
dụng, thương mại và thuế… để tạo điều kiện hỗ trợ đầu vào cho các thành
phần kinh tế trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển mạng lưới tín
dụng, cải tiến thủ tục cho vay, tăng cường vốn vay trung và dài hạn cho khu
vực nông nghiệp, nông thôn. Các chính sách thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia
cầm để từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong cơ cấu nông
nghiệp, như: hỗ trợ chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt; hỗ trợ phát triển hợp tác xã;
khuyến khích kinh tế trang trại và kinh tế tập thể phát triển; hỗ trợ phát triển
các hình thức liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Thứ sáu, về hệ thống tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh: cán bộ xã
đạt chuẩn; có đủ các tổ chức trong HTCT cơ sở theo quy định; Đảng bộ,


18

chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn thể
chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng

nông thôn mới hiện nay
* Đặc điểm nông dân tỉnh Bình Dương hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nông dân hay những người
“tiểu nông” là những tầng lớp xã hội đông đảo, có điều kiện sinh hoạt giống
nhau, nhưng “Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau
mà lại làm cho họ cô lập với nhau” [34, tr.264]. Theo Lênin, đặc điểm thể hiện
bản chất của giai cấp nông dân: một mặt họ là những người lao động (đây là mặt
cơ bản); mặt khác, họ là những người tư hữu nhỏ [31, tr.175]. Trong lịch sử phát
triển của xã hội, qua các phương thức sản xuất, giai cấp nông dân không có hệ tư
tưởng độc lập, tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tưởng của giai cấp thống trị
đương thời, trong đấu tranh họ không tự đại biểu cho lợi ích của mình với tư
cách là một giai cấp xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhận rõ vai trò to lớn của nông
dân trong sự phát triển của xã hội cũng như trong các cuộc đấu tranh cách
mạng. Giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của khối liên minh công nhân nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân tố cơ
bản bảo đảm thắng lợi của cách mạng XHCN. Tổng kết cuộc đấu tranh giai
cấp ở Pháp (1848 - 1850), C.Mác đã nhận định: “Công nhân Pháp không thể
tiến lên được một bước nào và cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào của
chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, chống sự thống trị của tư bản chưa bị tiến trình của cách mạng
buộc phải đi theo những người vô sản, coi là đội tiên phong của mình” [33,
tr.30]. Phát triển tư tưởng này, V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu không liên minh với
nông dân thì không thể có được chính quyền của giai cấp vô sản, không thể
nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó” [32, tr.57]. Sau nội chiến,


19

V.I.Lênin đã thực hiện chính sách Kinh tế mới, trong đó chọn giải pháp “bắt
đầu từ nông dân”, từ khôi phục nông nghiệp, từ cải thiện đời sống nông dân

để ổn định tình hình đất nước, phát triển KT-XH.
Hồ Chí Minh cho rằng: Nước ta là nước nông nghiệp, đa số là nông dân,
nền kinh tế của nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước
nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần
lớn; giai cấp nông dân là cộng đồng những người lao động, nhân tố chủ yếu của
lực lượng sản xuất, là những người tư hữu nhỏ; nông dân Việt Nam rất yêu
nước, họ là lực lượng đông đảo, hùng hậu trong dân tộc chống đế quốc, chống
phong kiến, là bạn đồng minh chiến lược của giai cấp công nhân trong đấu tranh
cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ: “Nông dân
lao động là lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của
giai cấp công nhân” [36, tr.710]; “Cách mạng muốn thành công thì phải lấy dân
chúng (công nông) làm gốc” [35, tr.280]; “lực lượng của chúng ta là hàng chục
triệu đồng bào nông dân lao động. Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy
sẽ làm xoay trời, chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực
lượng to lớn ấy đánh tan” [37, tr.185]. Trong xây dựng CNXH, nông dân là
người trực tiếp thực hiện và cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng, Nhà
nước, góp phần to lớn xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội mới tốt đẹp.
Cùng với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản và nền đại công
nghiệp, một bộ phận lớn nông dân chuyển thành công nhân nông nghiệp, hay
thoát li nông thôn thành công nhân công nghiệp. Nhờ những bước tiến vượt
bậc của khoa học - kĩ thuật, tính chất và vai trò của giai cấp nông dân đã có
những thay đổi đáng kể.
Việt Nam hiện nay, nông dân vẫn chiếm hơn 70% dân số, 48,2% lao
động cả nước (Tổng Cục thống kê năm 2010), là lực lượng xã hội đông đảo,
trực tiếp thực hiện vai trò quan trọng của nông nghiệp, đồng thời là người
sáng tạo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Vốn xuất thân từ một


20


nước nông nghiệp trồng lúa nước, điều kiện tự nhiên, địa lý, lịch sử và
phương thức cánh tác riêng nên họ có những đặc điểm rất cơ bản, đó là: có
tính cố kết cộng đồng làng, xóm chặt chẽ; kinh nghiệm sản xuất thâm canh
lúa nước kết hợp với công tác thuỷ lợi; đấu tranh chống thiên nhiên khắc
nghiệt; truyền thống đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm… Ngoài ra
người nông dân nước ta có những nét đặc trưng, phản ánh bản sắc văn hoá
dân tộc trong lối sống, cách ứng xử, trong tư duy, tín ngưỡng, nghệ thuật,
trong hoạt động văn hoá vật chất và tinh thần.
Trong công cuộc đổi mới, nông dân nước ta có các loại hình cơ bản:
nông dân sản xuất nông nghiệp thuần tuý, kết hợp nông nghiệp với nghề phụ,
làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất tự
chủ, được pháp luật thừa nhận; bao gồm nhiều tầng lớp: hộ nông dân cá thể,
nông dân trong các tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất, trong các nông trường và
một số trang trại…
Như vậy, giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay là một lực lượng xã hội
đông đảo, gồm những người lao động sản xuất trên lĩnh vực nông nghiệp trong
khu vực kinh tế hợp tác và kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trong mối quan hệ với nông
nghiệp, nông thôn, vai trò nông dân được Đảng ta chỉ rõ: “Trong mối quan hệ
mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của
quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở nông
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn
diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt” [17, tr.124].
Thực tiễn lịch sử cách mạng nước ta qua các giai đoạn dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh vai trò của giai cấp nông dân là
vô cùng quan trọng. Giai cấp nông dân Việt Nam - lực lượng xã hội đông đảo
cùng với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản của cách
mạng. Vai trò đó đã từng được thể hiện trong quá trình cách mạng giải phóng
dân tộc, trong các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì



21

độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đi lên xây dựng
CNXH, giai cấp nông dân Việt Nam là một bộ phận rất quan trọng trong cơ
cấu xã hội, trong khối liên minh giai cấp, dân tộc và xã hội, góp phần to lớn
tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy và thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; là lực lượng
đông đảo và giữ vai trò quan trọng trong nông nghiệp, nguồn nhân lực chủ
yếu quyết định phát triển kinh tế nông thôn, đóng góp quan trọng trong các
hoạt động KT-XH khác của cả nước, nhất là trong việc cung cấp nguồn lao
động cho công nghiệp, đô thị hóa và xây dựng NTM.
Là bộ phận hợp thành của giai cấp nông dân Việt Nam, nông dân tỉnh
Bình Dương có những đặc điểm chung của giai cấp nông dân cả nước; mặt khác
do điều kiện tự nhiên, KT-XH, nên có những đặc điểm riêng nổi bật sau:
Về cơ cấu và xu hướng biến đổi
Ở tỉnh Bình Dương, trước đổi mới nông dân chiếm tuyệt đại đa số, đất
ruộng rất ít, nông dân chủ yếu là thuần nông, “thành phần bần nông và trung
nông nhỏ chiếm đa số” [25, tr.29], tuy nhiên ngành nghề thủ công phát triển
rất mạnh; sau khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị, đất sản xuất
của nông dân bị chiếm đoạt để trồng cau su, theo đó một bộ phận nông dân do
thiếu đất sản xuất phải làm thuê trong các đồn điền cao su và trở thành công
nhân hoặc bán công, bán nông. Sau 25 năm đổi mới, nhất là từ ngày tái lập
Tỉnh đến nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ, đô thị hoá
cũng như quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã làm cho cơ cấu
nông dân tỉnh Bình Dương có sự biến đổi lớn.
Hiện nay, nông dân vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu xã hội - giai
cấp của Tỉnh, với dân số nông thôn là 1.048.772 người, chiếm 70,05% dân số, tuy
nhiên lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm 12% cơ cấu lao động chung của
Tỉnh, giảm 7,17% do với năm 2005 [Phụ lục 5, 6], điều đó cho thấy dân số nông
thôn chiếm tỉ lệ cao nhưng với sự phát triển mạnh về công nghiệp, dịch vụ trên địa



22

bàn Tỉnh đã tác động ảnh hưởng rất lớn đến nông dân, lao động trong nông nghiệp
có xu hướng giảm mạnh, chuyển sang lao động trong các lĩnh vực phi nông
nghiệp, phần lớn trở thành công nhân công nghiệp, tiếp thu nhanh những thành
tựu khoa học - công nghệ, áp dụng vào trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp
nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm trực tiếp cho các khu công nghiệp, vấn đề
việc làm được giải quyết tại địa phương, đời sống được cải thiện, cơ sở hạ tầng
được nâng lên. Tuy nhiên, nông dân tỉnh Bình Dương cũng chịu những tác động
tiêu cực của quá trình đó như đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, môi trường sinh
thái bị ô nhiễm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, tệ nạn xã hội gia tăng, đạo
đức, lối sống, tình làng, nghĩa xóm bị giảm sút, tay nghề hạn chế trong khi phải
cạnh tranh gay gắt với lực lượng lao động nhập cư từ các địa phương khác đến…
Cơ cấu theo ngành ở tỉnh Bình Dương có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong
các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp, dịch vụ và thương nghiệp
rộng khắp trong toàn Tỉnh, tập trung nhất là ở 3 thị xã và huyện Bến Cát; nông
nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế, chiếm tỷ trọng 4,4%
cơ cấu tổng sản phẩm theo nhóm ngành, nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng bình
quân hàng năm là 4,7%. Riêng nông nghiệp, ngành trồng trọt tăng bình quân
3,2%; chăn nuôi tăng 13,7% hàng năm; tỷ trọng trồng trọt - chăn nuôi đến năm
2010 là 70,6% - 29,4%. Cây lâu năm và chăn nuôi tập trung tiếp tục là thế
mạnh về nông nghiệp của Tỉnh [Phụ lục 11, 12].
Cơ cấu theo thành phần kinh tế đa dạng với nhiều hình thức khác nhau
bao gồm: kinh tế hộ cá thể, hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp nhà nước,
nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Giá trị sản
xuất của ngành nông nghiệp phân theo thành phần kinh tế năm 2009, khu vực
kinh tế trong nước đạt 10.887.597 triệu đồng (trong đó nhà nước 2.785.156

triệu, tập thể 130.283 triệu, tư nhân 26.512 triệu, cá thể 7.189.562 triệu, hỗn
hợp 640 triệu đồng), khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 538.537 triệu


23

đồng [Phụ lục 10]. Kinh tế trang trại tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng
trong phát triển KT-XH ở nông thôn; tổng giá trị sản lượng hàng hóa nông
nghiệp tăng gấp 2 lần so với năm 2005; các hợp tác xã nông nghiệp được củng
cố và đổi mới về phương thức hoạt động gắn với lợi ích thiết thực của xã viên.
Sự đa dạng, phong phú về thành phần kinh tế trong nông dân tỉnh Bình Dương
là một xu hướng tích cực, tạo động lực phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng các
loại hình dịch vụ nông nghiệp, phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Về văn hoá, tâm lý, lối sống
Văn hóa truyền thống của người Bình Dương nói chung và nông dân
nói riêng rất phong phú, đa dạng. Ngoài những ngành nghề nổi tiếng, lâu đời
như nghề mộc, điêu khắc, gốm sứ, sơn mài và các nghề khác như đục đẽo đá,
nghề làm guốc, đan lát mây tre, hội họa, kiến trúc… còn có loại hình văn hóa
rất đặc sắc, đó là dân ca với các thể loại như: Hát đưa em, Lý, Hò Huê tình,
Nói thơ, Hô lô tô, Nòi vè, Thơ rơi…
Nông dân tỉnh Bình Dương sớm tiếp thu sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, tin tưởng vào sự lãnh đạo và một lòng đi theo Đảng ngay từ
những ngày đầu thành lập, ủng hộ hết sức mình cho sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp đổi mới đất nước và xây dựng
NTM hiện nay.
Nông dân tỉnh Bình Dương có tính cách phóng khoáng, trọng nghĩa
khinh tài, có lối sống chân thật. Vốn là người từ các nơi đến khai hoang, lập
ấp, thiên nhiên hoang dã, lạ lẫm, đầy thách thức và nguy hiểm; song lại đầy
hứa hẹn, đòi hỏi dũng khí mạo hiểm mang sắc thái ngang tàng, trọng nghĩa
khinh tài của người nông dân Nam Bộ; cần cù trong lao động nhưng xét về

tính cách thì tự do phóng khoáng “kiểu Nam Bộ”, năng động, dám nghĩ, dám
làm, biết tính hiệu quả kinh tế trong làm ăn, xin thì cho, vay thì trả, đã chịu thì
chơi hết mình, chí cốt, chí tình, cương trực, khảng khái, khi quyền lợi và danh
dự bị xâm phạm thì có phản ứng quyết liệt, sẵn sàng đấu tranh vì lẽ phải.


24

Tính đa dạng phong phú về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc.
Trong sự phát triển, nông dân tỉnh Bình Dương được tụ hợp từ nhiều vùng
khác nhau, tạo nên tính đa dạng, phong phú về văn hóa, tín ngướng, tôn giáo.
Nhưng đó là tính đa dạng trọng tích hợp văn hóa, tạo nên sự cân bằng trên
phương diện tâm thức tín ngưỡng xã hội, thống nhất trong đa dạng.
* Biểu hiện của vai trò nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng
nông thôn mới hiên nay
Vai trò của nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng NTM hiện nay
là chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện
quy hoạch xây dựng NTM, chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ
tầng KT-XH ở nông thôn, trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn
giữ đời sống VH-XH, môi trường ở nông thôn, nhân tố góp phần quan trọng
vào xây dựng HTCT vững mạnh, bảo đảm an toàn trật tự xã hội ở cơ sở.
Một là, nông dân là chủ thể tích cực tham gia xây dựng quy hoạch và
thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Sự chủ động sáng tạo của nông dân được định hướng đúng kết hợp với
sự chỉ đạo kịp thời sẽ tạo động lực xây dựng nông thôn giàu mạnh. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong. Do vậy, trong quá trình xây dựng quy hoạch, cần phải lấy ý
kiến góp ý của cộng đồng dân cư nông thôn, mà cốt lõi là nông dân địa
phương từ khâu khảo sát, lập danh mục đầu tư, xác định nguồn vốn đến khâu

hoàn thiện bộ máy quản lý điều hành theo phương châm: dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra và dân là người hưởng lợi.
Hai là, nông dân là chủ thể chủ động, sáng tạo tham gia xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn
Hạ tầng KT-XH nông thôn là hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, trường
học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ, bưu điện và nhà ở dân cư... liên quan mật thiết


25

đến đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân ở nông thôn. Chính vì vậy trong
quá trình xây dựng nhất thiết phải có sự tham gia của nông dân; không có sự tham
gia tích cực của nông dân, chương trình xây dựng NTM khó thành công.
Xuất phát từ quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết về chính nơi họ sinh
sống có thể đóng góp vào quá trình quy hoạch, khảo sát thiết kế các công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH nông thôn. Mặt khác, họ có điều kiện
tham gia hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau của quá trình xây dựng công
trình; nắm được thông tin đầy đủ về công trình mà họ tham gia như: mục đích
xây dựng công trình, quy mô công trình, các yêu cầu đóng góp, trách nhiệm
và quyền lợi của chính họ.
Sự tham gia ý kiến của người dân liên quan đến kế hoạch phát triển sản
xuất, các giải pháp thực hiện, như: bàn luận mở ra một hướng sản xuất mới,
đầu tư xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các giải pháp thiết kế, phương
thức khai thác, tổ chức quản lý, các mức đóng góp, các định mức chi tiêu từ
các nguồn thu… trong nội bộ cộng đồng dân cư hưởng lợi. Việc đóng góp của
nông dân không chỉ dừng lại ở vật chất, tiền bạc, sức lao động mà còn ở cả
nhận thức về quyền sở hữu, tinh thần trách nhiệm và trí tuệ. Sự tham gia lao
động trực tiếp từ người dân vào các hoạt động phát triển nông thôn như: đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động của các nhóm khuyến nông, khuyến
lâm, nhóm tín dụng tiết kiệm và những công việc liên quan đến tổ chức tiếp

nhận, quản lý và sử dụng công trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá
trình cụ thể như hoạt động thi công, quản lý và duy tu bảo dưỡng, từ những
việc tham gia đó tạo cơ hội cho họ có việc làm và tăng thu nhập.
Ba là, nông dân tỉnh Bình Dương là chủ thể trực tiếp trong phát triển
kinh tế và tổ chức sản xuất công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn
Nông dân vẫn chiếm hơn 70% dân số, 12% lực lượng lao động toàn
Tỉnh, họ là chủ thể trực tiếp của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, là thành phần nòng cốt trực tiếp lao động sản xuất trong lĩnh vực nông


26

nghiệp và xây dựng NTM, tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho
xã hội, làm thay đổi diện mạo nông thôn ngày càng văn minh, hiện đại. Người
nông dân với ý chí vươn lên, bản chất cần cù, sáng tạo, hăng say lao động
chính là động lực to lớn khơi dậy mọi tiền năng vốn có, mọi nguồn lực tạo
nên sức mạnh tổng hợp tấn công vào mặt trận sản xuất, phát triển nông nghiệp
toàn diện và xây dựng NTM ngày càng giàu đẹp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là đòi hỏi khách
quan, cơ sở cho nền nông nghiệp hàng hoá, nội dung quan trọng của CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực chất là từng bước thực hiện hợp lý hoá
phân công lao động xã hội, đồng thời đây cũng là biện pháp cơ bản để tạo ra
nhiều việc làm, cải thiện nâng cao đời sống cho nông dân. Để thực hiện được
điều đó, trước hết và quan trọng nhất là phát huy vai trò tích cực, chủ động,
sáng tạo của người nông dân. Trong cơ chế mới, nông dân dần dần xoá bỏ thói
quen, an phận, trông chờ, ỷ lại chuyển sang năng động, nhạy bén tìm hướng đi
cho mình. Bằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề, cân đối lại chăn nuôi,
trồng trọt, theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi nhằm đạt mục tiêu tăng
chất lượng và giá trị sản phẩm thay vì chạy theo số lượng đơn thuần như trước

đây. Sự mở rộng sản xuất phi nông nghiệp, dịch vụ của nông dân, một mặt thúc
đẩy quá trình sản xuất hàng hoá, mặt khác góp phần tích cực vào phân bố cơ
cấu lao động - xã hội theo hướng ngày càng giảm lao động nông nghiệp, bổ
sung nguồn lực lao động cho các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, những
đóng góp của nông dân là vô cùng quan trọng, bên cạnh bảo đảm an ninh lương
thực, tạo ra nguồn của cải to lớn đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững
của đất nước, những sản phẩm của nông dân nước ta đã tạo ra những lợi thế
cạnh tranh và nâng uy tín, vị thế của nước ta trên thị trường quốc tế.
Bốn là, nông dân tỉnh Bình Dương là chủ thể tích cực, sáng tạo trong
xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá - xã hội, môi trường ở nông thôn


27

Việc nông dân xây dựng NTM không nên hiểu đơn thuần là tham gia
góp tiền, công sức, ý kiến vào các hoạt động xây dựng. Nguồn lực của nông
dân phục vụ xây dựng NTM rất phong phú, đa dạng: tự đầu tư, tăng thu nhập
trong các hoạt động kinh tế gia đình; giữ gìn nếp sống văn hóa; từ gọn nhà,
sạch ngõ đến việc đóng góp, tham gia vào các hoạt động chung của thôn, xã,
giữ vững an ninh trật tự… thực chất đó chính là những hoạt động thiết thực
hằng ngày của mỗi người dân.
Nông dân là người hưởng thụ và sáng tạo các giá trị VH-XH, trực tiếp
phản biện các vấn đề liên quan đế đời sống vật chất và tinh thần của của mình
ở nông thôn. Chính nông dân là những người tích cực thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, thực hiện nếp sống
mới có văn hoá trong việc cưới, việc tang, bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, xây
dựng hương ước, quy ước về làng văn hoá để cùng nhau thực hiện.
Năm là, nông dân tỉnh Bình Dương là nhân tố góp phần quan trọng vào xây
dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, củng cố khối liên minh công - nông trí thức, đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội ở nông thôn

Nông dân là nhân tố quan trọng đóng góp, tham gia xây dựng hệ thống
CT-XH ở cơ sở vững mạnh, thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn có hiệu
quả. Để các cấp uỷ Đảng và chính quyền phát huy được vai trò, chức năng,
hiệu lực quản lý xã hội của mình ở nông thôn đòi hỏi phải có sự ủng hộ, đoàn
kết của nhân dân nói chung và nông dân nói riêng.
Nông dân là lực lượng quan trọng trong khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính nông dân đã cung cấp một đội ngũ lao động
trẻ, có trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật và sức khoẻ, kỷ luật gắn bó chặt
chẽ với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức trong liên minh tạo nền tảng
vững chắc cho chế độ xã hội mới.


×