Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HÌNH THÀNH kỹ NĂNG SỐNG CHO học VIÊN học VIỆN kỹ THUẬT QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.89 KB, 107 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN
KIM CHO
THOAHỌC VIÊN
HÌNH THÀNH KĨ
NĂNGTHỊ
SỐNG
HỌC VIỆN KĨ THUẬT QUÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

HÌNH THÀNH KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN
HỌC VIỆN KĨ THUẬT QUÂN SỰ

HÀ NỘI - 2015
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
MÃ SỐ

: 60 31 04 01


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


HÌNH THÀNH KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN
HỌC VIỆN KĨ THUẬT QUÂN SỰ


CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
MÃ SỐ

: 60 31 04 01

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG SỐNG CỦA
HỌC VIÊN HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

13

1.1.

Các khái niệm cơ bản

13

1.2.

Những kỹ năng sống cần hình thành cho học viên và

các tiêu chí đánh giá kỹ năng sống của học viên Học
viện Kỹ thuật Quân sự

29

1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hình thành kỹ năng sống của
học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự

37

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP TÂM LÝ XÃ HỘI
HÌNH THÀNH KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

46

2.1.

Thực trạng kỹ năng sống của học viên Học viện
Kỹ thuật Quân sự

46

2.2.

Biện pháp tâm lý xã hội hình thành kỹ năng sống cho

học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự

61

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

PHỤ LỤC

92


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

Cán bộ, Giáo viên

CB-GV

Giáo dục - Bồi dưỡng

GD-BD


Học viên
Học viện Kỹ thuật Quân sự
Kỹ năng sống

HV
HVKTQS
KNS

Kết quả học tập

KQHT

Kỹ sư quân sự

KSQS

Số lượng

SL


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới, phát triển của đất nước ta đã làm cho xã hội thay đổi
toàn diện trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội và lối sống. Xã hội phát
triển một mặt đem đến cho con người những thuận lợi và cơ hội để phát huy
tiềm năng của bản thân. Mặt khác, mang lại cho con người những khó khăn,
thách thức đòi hỏi con người phải trang bị cho mình cả kiến thức và những kỹ
năng hành động cần thiết để giải quyết và nỗ lực vượt qua. Trong những kỹ

năng hành động đó, KNS có vai trò rất quan trọng, nó góp phần bảo đảm thành
công cho mọi hoạt động mà con người tham gia vào đó. Khả năng càng cao, cơ
hội thành công của con người - chủ thể xã hội càng lớn, sự nghiệp xây dựng và
bảo về Tổ quốc càng phát triển. Đảng ta khẳng định: “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp” [22, tr.130-131].
Trong quá trình học tập và rèn luyện, học viên phải tiếp xúc, xử lí rất
nhiều tình huống, giải quyết nhiều mối quan hệ đa dạng phong phú, tinh tế, nhạy
cảm của con người trong một môi trường nghiêm ngặt về điều lệnh và kỷ luật.
Vì thế có KNS tốt, giao tiếp, ứng xử đúng chuẩn mực, có văn hóa là nhân tố hết
sức quan trọng để học viên hình thành hoàn thiện các phẩm chất nhân cách,
hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện xứng đáng là người sỹ quan mẫu mực
trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ cũng như trong lối sống ở đơn vị cơ sở.
Sự hình thành KNS của người học viên sĩ quan là quá trình phức tạp lâu
dài, thông qua hoạt động bồi dưỡng, giáo dục và tự bồi dưỡng, giáo dục, rèn
luyện ở mỗi người. Tuy nhiên, nếu sớm được quan tâm, nhận thức và có các giải
pháp hữu hiệu để hình thành KNS ngay trong quá trình đào tạo, người học sẽ có
nền tảng vững chắc về phương thức sống, cách ứng xử, xử sự đúng, và hiệu quả
trong các mối quan hệ để khi ra trường họ có đủ khả năng đáp ứng ngay cho
hoạt động nghề nghiệp quân sự, một hoạt động đòi hỏi rất cao về KNS.

3


Hiện nay, cùng với quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
đào tạo, HVKTQS đã quan tâm, chú ý đến việc hình thành, bồi dưỡng KNS cho

học viên. Các KNS cơ bản được gắn kết với các cuộc vận động: “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục”, “Dạy thực chất, học thực chất, chính qui, mẫu
mực”, “Phát huy truyền thống cống hiến tài năng”, “Thanh niên với văn hóa và
kỷ luật của quân đội”...Từ đó, đã phát huy được tính tích cực, năng động, sáng
tạo của học viên, kết quả học tập, rèn luyện không ngừng được nâng cao, tinh
thần, trách nhiệm, ý chí quyết tâm, cách xử sự các mối quan hệ có nhiều chuyển
biến tích cực. KNS của học viên từ sự nhận thức và chuyển hoá hệ thống kiến
thức thành các hành vi cụ thể trong giải quyết các mối quan hệ trên thực tế đã
hiệu quả hơn, đã xuất hiện nhiều nhân tố mới phù hợp với những biến đổi của môi
trường sống hiện nay.
Trong những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy HVKTQS đã thường xuyên quan
tâm, chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng, phát triển phẩm chất, năng lực, KNS cho
học viên. Học viên tốt nghiệp ra trường công tác tại các đơn vị đã biết vận dụng
những tri thức, kinh nghiệm, kỹ xảo vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra. Tuy nhiên, trong thực tế KNS của học viên vẫn còn nhiều hạn chế bất cập.
Khả năng ứng xử, giao tiếp, giải quyết các mối quan hệ chưa thực sự linh hoạt,
dập khuôn, máy móc. Trước những tác động tiêu cực và sự suy thoái về đạo đức
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, học viên chưa được
chuẩn bị chu đáo, toàn diện các KNS cơ bản. Trên các bình diện của cuộc sống
họ còn biểu hiện lúng túng, hời hợt về nội dung, cứng nhắc về phương pháp.
Nghiên cứu KNS là một vấn đề phức tạp, cho đến nay còn nhiều quan điểm
khác nhau KNS, các hướng khai thác nó trong thực tiễn và cuộc sống. KNS chủ
yếu được nghiên cứu ở góc độ giáo dục, quản lý giáo dục, còn ở góc độ tâm lý
học, KNS ít được quan tâm, nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian qua và hiện nay
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống vấn đề KNS
của học viên ở HVKTQS. Xuất phát từ những lí do nêu trên, tác giả lựa chọn đề
tài: “Hình thành kỹ năng sống cho học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.


4


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề kỹ năng, kỹ năng sống đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước tập
trung nghiên cứu.
* Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Có thể nhận định rằng trong những thập kỷ qua, vấn đề kỹ năng sống đã
được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Kỹ năng sống bắt đầu xuất hiện trong
một số chương trình giáo dục của UNICEF. Trước tiên là chương trình “giáo
dục những giá trị sống” (Living values). Chương trình này được UNESCO, Ủy
ban UNICEF của Tây Ban Nha và Hiệp hội hành tinh, tổ chức Brahma và các
chuyên gia giáo dục UNICEF (New York) tham gia. Tập hợp các tài liệu, chúng
tôi nhận thấy các kỹ năng sống được quan tâm trong lao động, công việc, trong
hành nghề. Theo hướng này có thể kể đến các công trình nghiên cứu về kỹ năng
sống được đặc biệt chú ý. Cụ thể là:
Năm 1989, Bộ lao động Mỹ thành lập một Ủy ban thư ký về rèn luyện các
kỹ năng cần thiết. Thành viên của Ủy ban đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như:
giáo dục, kinh doanh, người lao động... nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế
bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công việc thu nhập cao [58, tr.1].
Nghiên cứu của Bộ phát triển Nguồn Nhân lực và Kỹ năng Canada
(Human Resources and Skills Development Canada - HRSDC) với nhiệm vụ
xây dựng nguồn nhân lực mạnh và có năng lực cạnh tranh, giúp người Canada
nâng cao năng lực ra quyết định và năng suất làm việc để nâng cao chất lượng cuộc
sống. Bộ này cũng có những nghiên cứu để đưa ra danh sách các kỹ năng cần thiết
đối với người lao động. Conference Board of Canada là một tổ chức phi lợi nhuận
của Canada dành riêng cho nghiên cứu và phân tích các xu hướng kinh tế cũng như
năng lực hoạt động các tổ chức và các vấn đề chính sách.
Tổ chức này đã nghiên cứu và đưa ra danh sách các kỹ năng hành nghề
cho thế kỉ 21 (employability skills 2000) bao gồm các kỹ năng như: Kỹ năng

giao tiếp; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng tư duy và hành vi tích cực; kỹ
năng thích ứng; kỹ năng làm việc với con người; kỹ năng nghiên cứu khoa học,
công nghệ và toán [58, tr.3].

5


Tác giả Stephen R.Covey đã viết cuốn “7 habits of Highly Effective
People” (7 thói quen của người thành đạt). Đây là một cuốn sách đã nổi tiếng từ
hàng chục năm nay trên khắp thế giới. Tác giả muốn giới thiệu một phương
pháp kết hợp toàn diện và thực tiễn để giải quyết các vấn đề về tính cách con
người và sự nghiệp. Tác giả cho thấy từng bước của con đường phải đi để sống
một cuộc đời trung thực, nhất quán, lương thiện và xứng với nhân phẩm. Gồm 7
thói quen: 1- Luôn chủ động; 2- Bắt đầu bằng định hướng tương lai; 3- Việc
quan trọng làm trước; 4- Lợi người - lợi ta; 5- Hiểu rồi được hiểu; 6- Cùng hiệp
đồng; 7- Sự tương hỗ lẫn nhau. Như vậy, nội dung cuốn sách cho người đọc thấy
được những giá trị sống cơ bản để sống thành công.
Năm 2002, Hội đồng Kinh doanh Úc (The Business Council of Australia BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (The Australian Chamber of
Commerce and Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và
Khoa học (the Department of Education, Science and Training - DEST) và Hội đồng
giáo dục quốc gia Úc (the Australian National Training Authority - ANTA) đã xuất
bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai”. Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và
kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề
(employability skills) là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn
để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào
định hướng chiến lược của tổ chức.
Các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng như sau: kỹ năng giao tiếp;
kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng sáng tạo và mạo
hiểm; kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc; kỹ năng quản lý bản thân; kỹ
năng học tập; kỹ năng công nghệ [58, tr.2].

Một nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of Labor)
cùng Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and
Development) đã nghiên cứu về các kỹ năng cơ bản trong công việc. Kết luận được
đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc:
1. Kỹ năng học và tự học (learning to learn)
2. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)

6


3. Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills)
4. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
5. Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills)
6. Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn (Self esteem)
7. Kỹ năng đặt mục tiêu hoặc tạo động lực làm việc (Goal setting/motivation skills)
8. Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal and career
development skills)
9. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ (Interpersonal skills)
10. Kỹ năng làm việc nhóm (Teamwork)
11. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)
12. Kỹ năng tổ chức công việc (Organizational effectiveness)
13. Kỹ năng lãnh đạo bản thân (Leadership skills) [57, tr.15].
Như vậy, những nghiên cứu trên chú trọng đến việc hình thành và phát
triển những kỹ năng sống cơ bản trong công việc, trong lao động để có thể đem
lại hiệu quả cao, còn các lĩnh vực khác như trong giáo dục, sức khỏe... ít được
quan tâm và nghiên cứu.
Chính phủ Anh có cơ quan chuyên trách về phát triển kỹ năng cho người
lao động. Cơ quan chứng nhận chương trình và tiêu chuẩn (Qualification and
Curriculum Authority) cũng đưa ra danh sách các kỹ năng quan trọng bao gồm:
kỹ năng tính toán; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tự học và nâng cao năng lực cá

nhân; kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; kỹ năng giải quyết
vấn đề; kỹ năng làm việc với con người [58, tr.3].
Cục phát triển lao động WDA (Workforce Development Agency) của
Singgapore đã nghiên cứu và thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề ESS
(Singgapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng: kỹ năng công sở và
tính toán; kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; kỹ năng giải
quyết vấn đề và ra quyết định; kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm; kỹ năng giao tiếp
và quản lý quan hệ; kỹ năng học tập suốt đời; kỹ năng tư duy mở toàn cầu; kỹ

7


năng tự quản lý bản thân; kỹ năng tổ chức công việc; kỹ năng an toàn lao động
và vệ sinh sức khỏe [58, tr.4].
Nhìn chung, các nước trên đã quan tâm đến việc hình thành các kỹ năng
cần thiết cho người lao động, giúp họ có khả năng làm việc tốt và nâng cao chất
lượng cuộc sống. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc phát triển kỹ năng sống
cơ bản cho người lao động thì chưa đủ mà cần quan tâm đến việc phát triển KNS
cho các lứa tuổi khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
* Các công trình nghiên cứu trong nước về kĩ năng sống
Thuật ngữ kỹ năng sống được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương
trình của UNICEF năm 1996 “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và
phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Quan
niệm về kỹ năng sống được giới thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm
những kỹ năng cốt lõi như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác
định giá trị, kỹ năng ra quyết định... nhằm vào những chủ đề giáo dục sức khỏe
do các chuyên gia Úc tập huấn. Tham gia chương trình này đầu tiên có ngành
Giáo dục và Hội Chữ thập đỏ. Tập hợp các tài liệu, chúng tôi nhận thấy kỹ năng
sống được thể hiện ở một số điểm nổi bật sau:
Dự án VIE 01/009: “Nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi cho thanh

niên Việt Nam trong phòng chống HIV/ AIDS dựa trên cơ sở cộng đồng” triển
khai từ tháng 8/2001 tại 8 xã, phường, 4 huyện, thị của tỉnh Cần Thơ và Hà Tĩnh
với mục tiêu nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho cán bộ Đoàn Thanh
niên các cấp trong việc xây dựng các hoạt động phòng tránh AIDS dựa trên cơ
sở cộng đồng, thực hiện các hoạt động giáo dục phòng chống AIDS và kỹ năng
sống dựa vào cộng đồng để nâng cao nhận thức và khuyến khích thay đổi hành
vi cho nhóm có nguy cơ cao [8, tr.86].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã xuất bản cuốn: “Bạn trẻ và kỹ năng sống”
(2009). Nội dung cuốn sách bàn đến vấn đề hành trang cần có của thanh niên
hiện đại đó là kỹ năng sống. Tác giả đưa ra những kỹ năng sống cần thiết cho
thanh niên là: Tự đánh giá mình, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tác động đến
tâm lý của người khác, kỹ năng hợp tác, lắng nghe, kỹ năng biết chấp nhận
người khác... [42].
8


Tác giả Nguyễn Thị Oanh đã xuất bản cuốn “Kỹ năng sống cho tuổi vị
thành niên” (2005). Cuốn sách đề cập đến những kỹ năng tâm lí xã hội cơ bản
và tuổi vị thành niên (sống có mục đích, các mối quan hệ và giao tiếp, làm chủ
cảm xúc và quản lý stress...) [38].
Bài viết của tác giả Nguyễn Quang Uẩn bàn về: “Khái niệm kỹ năng sống
xét dưới góc độ tâm lý học” (2008). Tác giả đã đưa ra khái niệm “Kỹ năng sống
là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của
con người, giúp con người thực hiện công việc và quan hệ với bản thân, với xã
hội có kết quả trong những điều kiện xác định của cuộc sống” và cách phân loại
kỹ năng sống gồm: nhóm kỹ năng sống hướng vào bản thân, nhóm kỹ năng sống
hướng vào các quan hệ, nhóm kỹ năng sống hướng vào công việc [55].
Tác giả Nguyễn Thị Oanh đã xuất bản cuốn: “10 cách thức rèn kỹ năng sống
cho tuổi vị thành niên” (2008). Cuốn sách đã nêu lên một số vấn đề chung về kỹ
năng sống và 10 cách thức rèn kỹ năng sống cho lứa tuổi vị thành niên [39].

Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã viết cuốn “Nhập môn kỹ năng sống” (2009). Tác
giả đã chỉ ra khái niệm kỹ năng sống, những kỹ năng sống cơ bản gồm 24 kỹ năng:
kỹ năng tự đánh giá; kỹ năng xác lập mục đích cuộc sống; kỹ năng phán đoán cảm
xúc của người khác; kỹ năng kiềm chế cảm xúc... [44].
Luận án tiến sĩ Tâm lý học của Nguyễn Thị Huệ: “Kỹ năng sống của học
sinh trung học cơ sở”, (2012). Tác giả đề cập đến hệ thống cơ sở lý luận kỹ
năng sống của học sinh trung học cở sở; phân loại kỹ năng sống thành 3 nhóm:
nhóm kỹ năng sống hướng vào bản thân, nhóm kỹ năng sống hướng vào các
quan hệ, nhóm kỹ năng hướng vào công việc; biểu hiện kỹ năng sống cơ bản của
học sinh trung học cơ sở; xác định các tiêu chí đánh giá kỹ năng sống. Trên cớ
sở đó, đề xuất biện pháp tâm lý sư phạm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trung học cơ sở [29].
Đề tài khoa học: “Thực trạng biểu hiện của một số xúc cảm và kỹ năng
đương đầu với cảm xúc tiêu cực ở thiếu niên” do trường Đại học Sư phạm Hà
Nội thực hiện năm 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện tượng bạo lực học
đường, hành vi xâm kích, gây rối trật tự xã hội của thanh thiếu niên gia tăng do

9


nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do trẻ thiếu khả năng chế ngự các cảm xúc
của bản thân.
Một nghiên cứu đáng chú ý là Luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Lò Vũ
Điệp: “Kỹ năng sống của học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Mai
Sơn” (2010). Tác giả tập trung nghiên cứu kỹ năng sống, biểu hiện một số kỹ
năng sống cơ bản: Kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
ứng phó với căng thẳng và vai trò của kỹ năng sống đối với sự hình thành, phát
triển nhan cách của học sinh trung học cơ sở dân tộc ít người.
Luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Nguyễn Thị Thanh Nhàn: “Kỹ năng
sống của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội”, (2010). Tác giả tập trung nghiên

cứu kỹ năng sống, phân loại kỹ năng sống và biểu hiện cụ thể của một số kỹ
năng sống cơ bản như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kỹ
năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng thiết lập mục tiêu,…
Luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Nguyễn Hữu Long: “Kỹ năng sống của học
sinh trung học cơ sở thành phố Hồ Chí Minh” (2011). Tác giả tập trung nghiên cứu
4 nhóm kỹ năng: Nhóm kỹ năng tự nhận thức bản thân; Nhóm kỹ năng giao tiếp
ứng xử; kỹ năng hợp tác và chia sẻ; Nhóm kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và
chưa hợp lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy các em bước đầu hình thành những quan
niệm cơ bản về kỹ năng sống, đồng thời nhận thức được kỹ năng sống là hành vi
con người thể hiện khi ứng phó với những tình huống diễn ra trong cuộc sống, dựa
trên những phẩm chất tâm lý và kinh nghiệm cá nhân. Bên cạnh đó, các em nhận
định được những nguyên nhân chính dẫn đến việc thiếu kỹ năng sống là do chưa có
sự hòa hợp trong giao tiếp giữa các em với cha mẹ, thầy cô. Đồng thời, cũng bị ảnh
hưởng bởi lối sống, quan niệm sống từ bạn bè cùng lớp, từ phương tiện thông tin
đại chúng.
Luận văn thạc sĩ Tâm lý học của Nguyễn Kim Anh: “Kỹ năng sống của
học sinh tiểu học ở Hà Nội, 2012. Tác giả tập trung nghiên cứu 6 kỹ năng sống
cơ bản của học sinh tiểu học như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức bản
thân, kỹ năng hợp tác, kỹ năng kiềm chế cảm xúc, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng
quản lý thời gian. Đồng thời, tác giả phân chia mức độ kỹ năng sống, đưa ra một
số tác động tâm lý nhằm hình thành KNS cho học sinh tiểu học ở Hà Nội.

10


Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về KNS trên thế giới và ở Việt
Nam. Trên thực tế những nghiên cứu về KNS ở Việt Nam mới chỉ được nghiên
cứu, tìm hiểu trong thời gian gần đây với số lượng còn hạn chế. Những nghiên
cứu tập trung chủ yếu vào mặt giáo dục KNS cho học sinh, sinh viên, còn việc
tìm hiểu KNS dưới góc độ tâm lý học lại rất ít nghiên cứu. Như vậy, ở góc độ

tâm lý học, KNS vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ . Vì vậy, theo chúng tôi
nghiên cứu KNS dưới góc độ tâm lý học trong môi trường hoạt động quân sự nói
chung, ở HVKTQS nói riêng vẫn là một lĩnh vực đầy tiềm năng cần khai phá và
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn về KNS của học viên
ở HVKTQS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hình thành KNS cho học viên ở
HVKTQS hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lí luận về KNS của học viên ở HVKTQS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng KNS và hình thành KNS của học viên ở
HVKTQS hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp hình thành KNS cho học viên ở HVKTQS.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng sống của học viên HVKTQS.
* Khách thể nghiên cứu: Giảng viên, cán bộ quản lý, học viên quân sự ở
HVKTQS.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biểu hiện KNS
và các yếu tố ảnh hưởng đến KNS của học viên đào tạo kĩ sư quân sự ở
HVKTQS.
Thời gian nghiên cứu và các số liệu điều tra, khảo sát được tính trong 5
năm (từ 2011-2015).

11


5. Giả thuyết khoa học
KNS của học viên quân sự ở HVKTQS là một phẩm chất tâm lý đặc biệt
quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của

học viên. Nếu làm rõ được những vấn đề lí luận về KNS của học viên, phân tích,
đánh giá được thực trạng KNS của học viên ở HVKTQS, đồng thời tiến hành
đồng bộ các biện pháp tâm lí - xã hội thì sẽ hình thành được các KNS cần thiết cho
học viên góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, rèn luyện của học viên
ở HVKTQS.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết của Quân ủy Trung
ương; các Chỉ thị hướng dẫn của Cục nhà trường về công tác giáo dục và đào tạo;
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Kỹ thuật quân sự lần thứ 8 (2010 2015); các nguyên tắc phương pháp luận của Tâm lý học Mác-xít như: nguyên tắc
quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý, nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý
- ý thức và hoạt động, nguyên tắc phát triển tâm lí, nguyên tắc tiếp cận nhân cách.
Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp
của tâm lý học Mác-xít, bao gồm: Phương pháp điều tra; phương pháp trắc
nghiệm; phương pháp quan sát; phương pháp tọa đàm, phỏng vấn; phương pháp
phân tích kết quả hoạt động; phương pháp chuyên gia và phương pháp xử lý số
liệu bằng thống kê toán học.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần luận giải một cách hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về KNS của học viên quân sự ở HVKTQS.
Đề xuất được các biện pháp nhằm hình thành KNS cho học viên ở
HVKTQS hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ giảng
viên và những người lãnh đạo, quản lý trong các nhà trường quân đội.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
12



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG SỐNG
CỦA HỌC VIÊN HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Kỹ năng sống
* Kỹ năng
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học trong và
ngoài nước quan tâm. Ở các góc độ khác nhau, các tác giả có các quan niệm khác
nhau về kỹ năng: kỹ năng được xem là mặt kỹ thuật của hành động; là khả năng
của cá nhân; ở một bình diện khác, kỹ năng là hành vi ứng xử.
Quan niệm thứ nhất: coi kỹ năng là mặt kỹ thuật thao tác hành động hay
hoạt động. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả như: Ph.N.Gônôbôlin,
V.A.Cruchetxki, V.X.Cudin, A.G.Côvaliôv... Các tác giả này cho rằng, muốn
thực hiện được một hành động cá nhân phải có tri thức về hành động đó, tức là
phải hiểu được mục đích, phương thức và các điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy,
nếu ta nắm được các tri thức về hành động, thực hiện được nó trong thực tiễn là
ta đã có kỹ năng hành động.
Ph.N.Gônôbôlin (1973) cho rằng: Kỹ năng là những phương thức tương
đối hoàn chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kì nào đó. Các hành
động này được hình thành trên cơ sở các tri thức và kỹ xảo-những cái được con
người lĩnh hội trong quá trình hoạt động [Dẫn theo 29].
V.A.Cruchetxki (1980) cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện
hoạt động- cái mà con người lĩnh hội được” [Dẫn theo 29].
A.G Covaliov quan niệm: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động
phù hợp với mục đích và điều kiện hành động” [15].
Như vậy, các quan niệm nói trên nhấn mạnh mặt kỹ thuật của kỹ năng, coi
kỹ năng như là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều
kiện hành động, họ chưa nói tới kết quả hành động.

13



Quan niệm thứ hai: coi kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành
động mà nó còn là khả năng của cá nhân trong hoạt động. Kỹ năng theo quan
niệm này vừa có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính
mục đích. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả: N.D.Lêvitôv,
V.V.Bôgôvlovxki, X.I.Kixegof, K.K.Platônôv, A.V.Barabasicoov...
A.V.Barabasicov cho rằng: Kỹ năng là khả năng sử dụng tri thức và các
kỹ xảo của mình một cách có mục đích và sáng tạo trong quá trình của hoạt
động thực tiễn. Khả năng này là khả năng tự tạo của con người. Vì vậy, kỹ năng
chỉ có ở con người (con vật hoàn toàn không có kỹ năng mà chỉ có kỹ xảo).
Theo K.K.Platônôv thì người có kỹ năng không chỉ hành động có kết quả
trong một hoàn cảnh cụ thể mà còn phải đạt được kết quả tương tự trong những
điều kiện khác nhau. Do vậy, theo ông “Kỹ năng là khả năng của con người
thực hiện một hành động bất kì nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh
nghiệm- những cái đã được lĩnh hội từ trước. Hay nói cách khác kỹ năng được
hình thành trên cơ sở của tri thức và kỹ xảo” [Dẫn theo 29, tr.20].
A.V.Pêtrôvski quan niệm: “Năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri thức
hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính
bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lí luận hay
thực hành xác định, được gọi là các kỹ năng” [Dẫn theo 29, tr.20].
Quan niệm của các nhà giáo dục Việt Nam như: Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô
Công Hoàn, Lê Văn Hồng, Nguyễn Quang Uẩn cũng tương tự như quan niệm
của các tác giả nói trên.
Tác giả Lê Văn Hồng có viết: Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái
niệm, cách thức, phương pháp) để giải quyết một nhiệm vụ mới [28, tr.68].
Trong Từ điển tiếng Việt, kỹ năng được định nghĩa theo quan điểm thứ
hai như sau: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [Dẫn theo 29].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có

kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm
đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ

14


đơn thuần về mặt kỹ thuật mà còn là biểu hiện năng lực của con người” [44,
tr.7].
Trong Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên đã định nghĩa, kỹ năng
là năng lực vận dụng vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành
động đã đực chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng [18,
tr.131].
Giáo trình Tâm lý học quân sự (1998) xác định kỹ năng là trình độ vận
dụng đúng đắn các kiến thức và kỹ xảo đã có một cách sáng tạo để giải quyết
nhiệm vụ trong mọi tình huống [53, tr.454].
Trong Từ điển Tâm lý học quân sự (2006) đã định nghĩa kỹ năng là năng
lực vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ
thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng [60, tr.166]. Đồng thời còn
phân chia kỹ năng thành hai cấp độ là kỹ năng bậc thấp và kỹ năng bậc cao, mà
sự khác biệt giữa chúng là mức độ vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong những
hoàn cảnh, điều kiện biến đổi phức tạp.
Như vậy theo khuynh hướng này, kỹ năng không chỉ được hiểu là kỹ thuật
mà còn đem lại kết quả cho hoạt động. Đây là quan niệm tương đối toàn diện và
khái quát về kỹ năng.
Quan niệm thứ ba: coi kỹ năng là hành vi ứng xử.
Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận khá mới mẻ về kỹ năng được
nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Kỹ năng được coi là hành vi ứng xử của cá nhân.
Chẳng hạn, S.A.Morales & W.Sheator (1987) đã nhấn mạnh ảnh hưởng của thái
độ, niềm tin của cá nhân trong kỹ năng [Dẫn theo 29]. Còn J.N.Richard (2003)
coi kỹ năng là hành vi thể hiện ra hành động bên ngoài và chịu sự chi phối của

cách cảm nhận và suy nghĩ của cá nhân [Dẫn theo 29]. Kỹ năng không chỉ là kỹ
thuật hành động, là kết quả của hành động mà còn là thái độ, giá trị của cá nhân
đối với hoạt động. Cách tiếp cận này tương đối toàn diện, xem xét kỹ năng trong
sự liên kết giữa tri thức, kinh nghiệm, phương thức hành động với các giá trị thái
độ, chuẩn mực, động cơ hành động của cá nhân. Đây là một quan niệm đáng
quan tâm và phù hợp với kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, coi kỹ năng là hành

15


vi, các tác giả chưa quan tâm nhiều đến mặt kỹ thuật của nó. Hiểu kỹ năng theo
cách này có thể sẽ gặp khó khăn trong việc đào tạo kỹ năng và thiết kế các công
cụ đo lường đánh giá chúng.
Bất kỳ kỹ năng về một hoạt động nào cũng phải dựa trên cơ sở lý thuyết.
Cơ sở lý thuyết đó là kiến thức. Sở dĩ như vậy là vì xuất phát từ cấu trúc của kỹ
năng (phải hiểu mục đích, biết cách thức đi đến kết quả và hiểu những điều kiện
cần thiết để triển khai các cách thức đó). Nói cách khác có kỹ năng con người
mới sử dụng được tri thức một cách tự giác và có chủ định, mới biết lựa chọn
các biện pháp cần thiết, phù hợp với từng hoàn cảnh và vận dụng các biện đó
vào hoạt động để đạt mục đích.
Như vậy, có thể rút ra nhận xét chung về kỹ năng như sau: Kỹ năng là
khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có vào việc thực hiện có hiệu
quả những hành động, hoạt động khác tương tự.
Xem xét kỹ năng không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật hành động mà còn
là khả năng của chủ thể hành động. Như vậy, người có kỹ năng hành động trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó được biểu hiện ở những dấu hiệu sau:
- Kỹ năng được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân.
- Kỹ năng là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm và các giá trị phù
hợp với điều kiện hoạt động.
- Sự vận dụng kỹ năng phải đem lại kết quả cho hoạt động.

- Có thể thực hiện hành động, hoạt động có kết quả trong những điều kiện
đã thay đổi. Nghĩa là, kỹ năng đòi hỏi con người phải có tri thức, kinh nghiệm
cần thiết về hành động. Kỹ năng chỉ có được khi con người vận dụng những tri
thức kinh nghiệm đó vào hoạt động thực tiễn một cách có kết quả.
* Kỹ năng sống
Khi quan niệm về KNS có rất nhiều quan niệm khác nhau, một số tổ chức
quốc tế đã định nghĩa khái niệm KNS như sau:
UNESCO cho rằng: KNS là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy
đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.

16


Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) coi kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý
xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày
để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những
vấn đề, những tình huống trong cuộc sống hàng ngày.
Một số nhà nghiên cứu có quan điểm gần tương đồng với quan niệm của
WTO cho rằng, KNS là những kỹ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri
thức, những giá trị và thái độ, được thể hiện bằng những hành vi giúp cá nhân
giải quyết có hiệu quả các yêu cầu, các thách thức đặt ra của cuộc sống và thích
nghi với cuộc sống.
Bốn trụ cột trong giáo dục tiếp cận KNS đó chính là sự kết hợp các KN tâm
lý xã hội: học để biết là KN sống liên quan đến tri thức; học để tự khẳng định là
kỹ năng sống liên quan đến giá trị; học để chung sống là kỹ năng liên quan đến
thái độ. KNS, theo đó là những năng lực đáp ứng và những hành vi tích cực giúp
cho cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những vấn đề những tình huống của
cuộc sống. KNS là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp
với cách ứng xử tích cực, giúp cho con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu
quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Quan niệm cho

rằng, KNS là năng lực để thực hiện đầy đủ các chức năng của cuộc sống có nội
hàm rộng hơn, đây là cơ sở để tiếp cận điểm riêng trong phân loại KNS.
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến nhiều từ chương trình của
UNICEF “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho
thanh niên trong và ngoài nhà trường”. Khái niệm KNS được giới thiệu trong
chương trình này bao gồm những KNS cốt lõi như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên
định và kỹ năng đạt mục tiêu. Tham gia chương trình đầu tiên này có ngành
Giáo dục và Hội chữ thập đỏ. Sang giai đoạn 2 chương trình này mang tên:
“Giáo dục sống khoẻ mạnh và KNS”. Ngoài ngành giáo dục còn có Trung ương
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hội
liên hiệp phụ nữ đã định nghĩa như sau: KNS là các kỹ năng thiết thực mà con
người cần đến để có cuộc sống an toàn, khoẻ mạnh và hiệu quả. Theo họ những
kỹ năng cơ bản như: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng từ chối, kỹ năng thương

17


thuyết, đàm phán, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng nhận biết…ở đây kỹ năng giao
tiếp được phân nhỏ để chị em phụ nữ dễ hiểu hơn. Khái niệm KNS được hiểu
với nội hàm đầy đủ và đa dạng hơn sau hội thảo “Chất lượng giáo dục và KNS”
được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Đó là:
Năng lực thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng
ngày
Hành vi làm cho cá nhân thích ứng và giải quyết có hiệu quả các thách
thức của cuộc sống.
Những kỹ năng liên quan đến tri thức, những giá trị.
Năng lực đáp ứng và những hành vi tích cực giúp con người có thể giải
quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Từ những quan niệm trên có thể thấy các quốc gia đều dựa trên quan niệm

về KNS của các tổ chức quốc tế (WHO, UNESCO, UNICEF) nhưng có tính
khác biệt do điều kiện chính trị, kinh tế văn hoá của từng quốc gia. Nội dung
giáo dục KNS vừa đáp ứng những cái chung có tính chất toàn cầu vừa có tính
đặc thù quốc gia. Một số quốc gia coi trọng một số kỹ năng như: kỹ năng tư duy,
kỹ năng thích ứng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác và cạnh tranh, kỹ năng
luân chuyển công việc. Một số nước khác lại chú trọng đến kỹ năng xoá đói
giảm nghèo, kỹ năng phòng chống HIV/AIDS.
KNS từ quan điểm giáo dục là tất cả những kỹ năng cần thiết trực tiếp giúp
cá nhân sống thành công và hiệu quả, trong đó tích hợp những khả năng, phẩm
chất, hành vi tâm lý, xã hội và văn hoá phù hợp và đương đầu được với những
tác động của môi trường. Những KNS cốt lõi cần nhấn mạnh là kỹ năng tư duy,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác và cạnh tranh, kỹ năng
thích ứng cao, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng tự nhận thức …
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm của các tổ chức quốc tế, ở Việt Nam
trong một số tài liệu viết về KNS, một số tác giả quan niệm về KNS như sau:
Tác giả Nguyễn Thanh Bình quan niệm “KNS nhằm giúp chúng ta
chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, các giá trị “cái chúng ta

18


nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành vi thực tế “làm gì và làm cách nào” là
tích cực nhất và mang tính chất xã hội [5, tr.10].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong tài liệu “Nhập môn kỹ năng sống” quan
niệm: Hiểu một cách đơn giản, “KNS chính là những kỹ năng tinh thần hay những
kỹ năng tâm lý, kỹ năng tâm lý-xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng
trong cuộc sống. Những kỹ năng này giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình
cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển. KNS còn được
xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý-xã hội, giúp cho cá nhân
vững vàng trước cuộc sống vốn chứa đựng nhiều thách thức nhưng cũng không

thiếu các cơ hội” [44, tr.8].
Đứng trên phương diện tâm lý học, tác giả Nguyễn Quang Uẩn quan niệm
cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống. Hoạt động sống diễn ra
với sự đan xen của dòng “hoạt động có đối tượng” và mối quan hệ “giao tiếp
ứng xử” giữa con người với con người. Hai mặt, hai phương diện nói trên đan
xen, nương tựa hòa quyện vào nhau, chi phối, tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên
cuộc sống đích thực của mỗi con người trong cộng đồng. Trong hệ thống các kỹ
năng cơ bản có tính tổng hợp và phức tạp của hoạt động sống của con người có
KNS. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “KNS là một tổ hợp phức tạp của
một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người
thực hiện công việc và quan hệ với bản thân, với người khác, với xã hội có kết
quả trong những điều kiện xác định của cuộc sống” [55, tr.3].
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm
“kỹ năng sống”. Vì thế ở mỗi quốc gia, mỗi ngành trong xã hội có thể hiểu khái
niệm “kỹ năng sống” theo nhiều cách khác nhau. Lâu nay người ta bàn đến khái
niệm KNS từ các phương diện y tế, xã hội và giáo dục....Tuy nhiên, ở góc độ
tâm lí học, chúng ta không thể không quan tâm tới khái niệm KNS có tính khoa
học và tính ứng dụng thực tiễn cao.
Cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống. Hoạt động sống
diễn ra với sự đan xen của dòng “hoạt động có đối tượng” và “mối quan hệ giao
tiếp “ứng xử” giữa con người với con người. Hai mặt, hai phương diện nói trên
đan xen vào nhau, nương tựa vào nhau, chi phối, tác động qua lại lẫn nhau, tạo

19


nên cuộc sống đích thực của mỗi con người. Trong hệ thống các kỹ năng cơ bản
có tính tổng hợp và phức tạp của hoạt động sống của con người có các KNS. Từ
đó tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “KNS là một tổ hợp phức tạp của một
hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực

hiện công việc và tham gia vào cuộc sống hàng ngày có kết quả, trong những
điều kiện xác định của cuộc sống ([55]).
KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân
vì đó là năng lực của từng cá nhân; KNS mang tính xã hội vì trong mỗi giai
đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng miền khác nhau đòi hỏi cá nhân
cần xác lập KNS phù hợp. KNS không phải chỉ để giải quyết những vấn đề về tệ
nạn xã hội mà cơ bản giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Tuy cách tiếp cận và diễn đạt về KNS có nhiều quan điểm ý kiến khác
nhau cũng như nội hàm của khái niệm theo nghĩa rộng hẹp khác nhau, nhưng có
thể nhận thấy sự thống nhất hiểu KNS thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kỹ năng
theo nghĩa rộng). Theo đó, KNS là năng lực bao hàm cả tri thức, thái độ và hành
vi, hành động trên lĩnh vực đó. Đó là khả năng áp dụng những hiểu biết và kỹ
năng để thực hiện, giải quyết có hiệu quả các vấn đề, kể cả trong những tình
huống mới của cuộc sống.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về KNS, trong nghiên cứu này chúng
tôi cho rằng: Kỹ năng sống là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ
năng nói lên khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện
công việc và các mối quan hệ xã hội trong những điều kiện xác định của cuộc
sống.
Ở khái niệm này, nội hàm của KNS gồm các nội dung sau:
KNS là một tổ hợp các kỹ năng được hình thành trên cơ sở vận dụng những
hiểu biết, tri thức, kinh nghiệm và các giá trị phù hợp với điều kiện xác định của
cuộc sống. Đó là các hiểu biết về mục đích hành động, nắm được cách thức thực
hiện hành động và các điều kiện thực hiện hành động.

20


KNS được biểu hiện trong hành động và hoạt động sống của cá nhân.
Hoạt động sống có đặc điểm sau: mang tính tâm lý xã hội; tính xã hội, cộng

đồng; tính giao tiếp liên nhân cách; tính nghề nghiệp, chuyên môn.
Kết quả của việc thực hiện KNS là giúp cá nhân có khả năng tự quyết
định và lựa chọn phương thức thực hiện có hiệu quả nhất.
KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tình xã hội. KNS mang tính cá
nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì trong mỗi giai
đoạn phát triển của lich sử xã hội, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có
những KNS thích hợp.
Phân loại kỹ năng sống
Có nhiều quan niệm khác nhau về cách phân loại KNS:
- Cách phân loại theo Tổ chức Y tế thế giới WHO: phân thành 3 nhóm
KNS: Nhóm kỹ năng nhận thức; Nhóm kỹ năng cảm xúc; Nhóm kỹ năng xã hội.
- Cách phân loại của Tổ chức Quĩ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF):
Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình.
Nhóm kỹ năng nhận thức và sống với người khác.
Các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả.
- Cách phân loại của UNESCO: Chia KNS thành 2 nhóm kỹ năng lớn:
Nhóm 1: Bao gồm các kỹ năng chung: Kỹ năng nhận thức, kỹ năng cảm
xúc, kỹ năng xã hội.
Nhóm 2: Gồm các kỹ năng sống được thể hiện trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, như: Các vấn đề về sức khỏe và dinh dưỡng; Các vấn
đề về giới, giới tính; Các vấn đề về phòng chống HIV/AIDS, chống ma túy,
rượu, thuốc lá; Các vấn đề về thiên nhiên, môi trường, rủi ro, bạo lực; Các vấn
đề về gia đình, cộng đồng …
- Dựa theo khái niệm KNS ở góc độ Tâm lí học, tác giả Nguyễn Quang
Uẩn cho rằng, có thể nêu lên 3 nhóm KNS cơ bản sau đây:

21


Nhóm kỹ năng về cuộc sống cá nhân, gồm các kỹ năng: Kỹ năng thực hiện

các chức năng cơ bản của đời sống hàng ngày của cá nhân như: Sinh hoạt cá
nhân, rèn luyện giữ gìn sức khỏe thể chất và tinh thần của cá nhân; Kỹ năng tự
nhận thức về bản thân; Kỹ năng tự ý thức và có trách nhiệm với bản thân; Kỹ
năng tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự đánh giá hành vi bản thân; Kỹ năng tự rút
kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của bản thân; Kỹ năng tự xác định mục
đích, kế hoạch phấn đấu về đường đời bản thân mình…
Nhóm kỹ năng quan hệ với người khác, với cộng đồng và với xã hội, có
thể là: Kỹ năng giao tiếp, ứng xử; Kỹ năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ
liên nhân cách, các mối quan hệ tương tác trong cộng đồng và trong xã hội; Kỹ
năng thực hiện các hành vi văn hóa xã hội, hành vi theo chuẩn mực xã hội; Kỹ
năng thích ứng xã hội.
Nhóm kỹ năng công việc, có thể là: Kỹ năng xác định mục tiêu công việc;
Kỹ năng lựa chọn và xác định các giá trị; Kỹ năng hoạch định công việc (Đề ra
quyết định và quyết định); Kỹ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công
việc; Kỹ năng tổ chức thực hiện công việc có hiệu quả; Kỹ năng đánh giá công
việc, rút kinh nghiệm về công việc; Kỹ năng chuẩn bị cho công việc tiếp theo.
Như vậy, có nhiều cách phân loại khác nhau về KNS. Điều đó càng nói lên
tính đa dạng, phức tạp, phong phú về các biểu hiện cụ thể của các KNS ở con
người. Việc phân loại các KNS chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc vào khía
cạnh xem xét, nghiên cứu, hoặc góc độ nhìn nhận mà một KNS có thể xếp vào
các nhóm KNS mang các tên gọi khác nhau.
1.1.2. Kĩ năng sống của học viên ở Học viện Kĩ thuật Quân sự
* Đặc điểm của học viên ở HVKTQS
Học viên HVKTQS có một số đặc điểm nổi bật có liên quan đến tổ chức
hoạt động của đơn vị quân đội và nhà trường quân đội.
Học viên tại HVKTQS được tuyển chọn chặt chẽ, có chất lượng cao và
được quản lý, giáo dục, học tập, rèn luyện trong môi trường sư phạm quân sự.
Họ là những người tuổi đời còn trẻ, năng động, sáng tạo, nhạy cảm với cái mới,
bản lĩnh, nhân cách đang được hình thành và phát triển.


22


Là những thanh niên và quân nhân xuất thân đa phần từ nông thôn, thành
phần gia đình chủ yếu là nông dân và công nhân. Bản thân đã sớm chịu đựng
những khó khăn nhọc nhằn của người làm nông nghiệp.
Có kiến thức nền khá vững chắc, tốt nghiệp loại khá ở phổ thông trung học,
có nguyện vọng phục vụ quân đội lâu dài. Có đủ các tiêu chí về lý lịch bản thân
rõ ràng, phẩm chất chính trị tốt, đạo đức trong sáng, có sức khỏe tốt và trong đọ
tuổi quy định của Bộ Quốc phòng. Đây chính là nét đặc thù khác biệt về tuyển
chọn so với sinh viên trường ngoài quân đội. Các thí sinh phải trải qua các kỳ thi
tuyển sinh quân sự nghiêm túc, chặt chẽ, công khai, bình đẳng, theo đúng quy
chế của Bộ Quốc phòng, Bộ giáo dục.
Trong quá trình học tập và rèn luyện tại các nhà trường Quân đội, ngoài tư
cách và quyền lợi của công dân, họ còn có tư cách quyền lợi và nghĩa vụ của
một quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Được hưởng các chế độ
chính sách theo quy định chung của Nhà nước và quân đội, chịu sự quản lý và
giáo dục chặt chẽ, nghiêm túc theo đúng điều lệnh, điều lệ của Quân đội.
Ở các nhà trường ngoài quân đội, sinh viên được quản lý theo phương thức
tự quản là chính, sau khi hết giờ lên giảng đường về sống ở gia đình, nhà trọ
hoặc kí túc xá. Trong khi học viên sĩ quan được quản lý theo hệ thống chặt chẽ,
khoa học theo đơn vị quản lý học viên từ cấp tiểu đội, trung đội, đại đội đến cấp
tiểu đoàn; việc ăn ở, học tập, sinh hoạt theo chế độ tập trung, thống nhất và được
quản lý 24/24 giờ tại đơn vị; được duy trì theo 11 chế độ trong ngày, 3 chế độ
trong tuần. Họ có nhiệm vụ chấp hành kế hoạch học tập, rèn luyện theo mục tiêu
yêu cầu đào tạo; thực hiện chức trách quân nhân, nội quy và quy chế học tập,
đạo đức, tác phong quân nhân; tác phong chỉ huy, tham gia mọi hoạt động của
đơn vị quản lý học viên. Học viên được nghỉ hè và các ngày Lễ, Tết theo đúng
chế độ chung của Nhà nước và Quân đội. Việc xác định rõ nhiệm vụ quyền lợi
và các chế độ đối với học viên là cần thiết cho việc giáo dục động cơ, xu hướng

nghề nghiệp Quân sự.
Học viên HVKTQS ở độ tuổi từ 18-25. Thuộc lớp người trẻ, đang ở độ tuổi
phát triển về thể lực, trưởng thành về nhân cách, học viên trong các trường đào
tạo sĩ quan trong quân đội có đặc điểm chung. Đó là lớp người có nhiều hoài bão

23


×