Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT HUY NGUỒN lực THANH NIÊN TỈNH bắc NINH TRONG THỜI kỳ đẩy MẠNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.27 KB, 89 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Giáo dục - đào tạo

GD - ĐT

Hệ thống chính trị

HTCT

Nguồn lực con người

NLCN

Nguồn lực thanh niên


NLTN

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT

3

HUY NGUỒN LỰC THANH NIÊN TỈNH BẮC NINH
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
1.1

ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh và phát huy nguồn lực

11

thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
1.2

hiện đại hóa đất nước
Thùc tr¹ng nguồn lực và phát huy nguồn lực thanh niên


11

tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Chương 2 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY

33

NGUỒN LỰC THANH NIÊN TỈNH BẮC NINH
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
50

2.1

HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Yêu cầu phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh

50

2.2

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Giải pháp cơ bản phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


55
82
84
87


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, rường cột của nước nhà, chủ
nhân tương lai của đất nước; lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một trong những nhân tố quyết định
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Chăm lo, phát triển thanh niên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
nước ta hiện nay.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định:
nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển bền vững của xã hội. Đây là "nguồn lực của mọi nguồn lực", là "tài
nguyên của mọi tài nguyên", là nhân tố quan trọng hàng đầu để đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững" [8, tr.85] để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và thực hiện được mục tiêu
phát triển con người mà Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011 đề ra:
Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Thế hệ thanh niên Việt Nam hiện nay là những người được sinh ra
trong thời bình và được hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới đất

nước, có điều kiện thuận lợi để học tập, rèn luyện phấn đấu vươn lên; có
nhiều sự lựa chọn trong nghề nghiệp, việc làm, vui chơi, giải trí; họ còn
được đào tạo một cách cơ bản và khá toàn diện. Do đó, nguồn lực thanh
niên giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới có
thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng


4

trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước
theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực
lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên, công
tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng" [6, tr.23].
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng; nằm trong tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và là cửa ngõ
phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội; có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vào loại nhanh nhất miền Bắc hiện nay. Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đặt ra
trong những năm tới là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa
Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015” [1, tr. 24] . Để
hiện thực hóa được mục tiêu đó, một trong những vấn đề hết sức quan
trọng là cần khơi dậy và phát huy tốt các nguồn lực, trong đó việc phát huy
nguồn lực thanh niên có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Trong những năm qua, nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh đã được
khơi dậy và phát huy khá tốt, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của Tỉnh. Tuy nhiên, một số tổ chức, lực lượng còn chưa nhận thức
đầy đủ về vị trí, vai trò của nguồn lực thanh niên đối với phát triển kinh tế xã hội; một bộ phận thanh niên còn chưa tỏ rõ ý chí, nghị lực phấn đấu
vươn lên, không chịu trau dồi về học vấn, văn hóa, khoa học kỹ thuật...
Một bộ phận khác, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự biến động

phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội thế giới và trong nước nên có biểu
hiện của lối sống thực dụng; chủ nghĩa cá nhân và các tệ nạn xã hội chi
phối dẫn tới không ít thanh niên vi phạm pháp luật, trở thành tội phạm. Mặt
khác, trong những điều kiện cụ thể chưa có cơ chế, chính sách thích hợp và
một hệ giải pháp đồng bộ, thống nhất nhằm khai thác, phát huy tiềm năng
về mọi mặt của thanh niên. Hơn lúc nào hết, việc phát huy nguồn lực thanh


5

niên tỉnh Bắc Ninh đã, đang và sẽ là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần
được quan tâm nghiên cứu.
Vì vậy, đề tài: "Phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con
người là vấn đề được đề cập nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau; việc triển khai
nghiên cứu sâu rộng, có hệ thống vấn đề nguồn lực con người và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực này đã thu được những kết quả nhất định. Hiện nay, có rất nhiều nhà
khoa học với nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết đề cập về vấn đề này tương
đối toàn diện. Tiêu biểu có các bài viết, công trình khoa học sau:
* Các sách tham khảo, chuyên khảo
“Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta” của PGS. Trần Văn Tùng và tác giả Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của
nguồn nhân lực ở một số nước trên thế giới dưới tác động của giáo dục đào tạo, đồng thời nêu bật vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc phát
triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, do PTS. Mai Quốc Chánh làm chủ biên, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn
nhân lực và việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH” của
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.


6

“Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam” do TS. Đỗ
Minh Cương - PGS.TS Nguyễn Thị Loan chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách làm rõ quan điểm, định hướng chiến lược
và giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo dục bậc cao ở
nước ta trong thời kỳ mới.
“Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” của TS.
Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách tập
trung làm rõ trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, vai trò, đặc điểm, thực trạng phát
huy và xu hướng phát triển của nguồn lực trí tuệ Việt Nam - bộ phận tinh
hoa trong nguồn nhân lực Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn
lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo
định hướng XHCN.
"Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài " của Nghiêm Đình Vỳ,
Nguyễn Đắc Hưng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn
sách này đã tập trung giới thiệu khái quát về lịch sử giáo dục Việt Nam;
Những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ đặt ra đối với giáo dục Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI. Từ đó, các tác giả đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng và nguồn nhân
lực cho đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH.

“Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS
Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình
bày có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển,
phân bố, sử dụng nguồn lực con người trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm
phát triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.


7

* Các luận văn, luận án liên quan đến vấn đề nguồn lực con người,
nguồn lực thanh niên
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” - Luận án tiến sĩ triết học của Đoàn Văn Khái, Hà Nội,
2000; “Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi
mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc)” - Luận án tiến sĩ triết học
của Trịnh Quang Cảnh, Hà Nội, 2001; “Phát huy vai trò nguồn lực trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” - Luận
án tiến sĩ triết học của Nguyễn Đình Minh, Hà Nội, 2003; “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Quảng Ninh” - Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Thị Phương
Mai, Hà Nội, 2004; “Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” - Luận văn thạc sĩ triết học của
Lê Thị Mai, Hà Nội, 2005; “Phát huy nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật
quân sự trẻ trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” - Luận án
tiến sĩ triết học của Nguyễn Minh Thắng, Hà Nội, 2006; “Phát triển nguồn
nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Kom Tum” - Luận văn thạc sĩ triết học của Trịnh Ngọc Dương,
Hà Nội, 2006; “Nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ trong xây dựng

quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” - Luận án tiến sĩ triết học của Hoàng
Đình Tỉnh, Hà Nội, 2009; “Phát huy vai trò nguôn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” - Luận
văn thạc sĩ triết học của Đinh Xuân Thủy, Hà Nội, 2009... Các đề tài trên
đã tập trung nghiên cứu đi sâu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề
phát huy nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và sự nghiệp xây
dựng quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng; phân tích và đánh giá sâu sắc
thực trạng, từ đó đề xuất những giải pháp phát huy nguồn lực đó trong tình


8

hình hiện nay.
* Các bài viết, bài báo khoa học có liên quan đến vấn đề nguồn lực
con người, phát huy nguồn lực thanh niên đã được đăng tải như:
“Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” - Đỗ Mười - Tạp chí Thông tin lý luận
số 3, 1993; “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” Nguyễn Trọng Chuẩn. Tạp chí Triết học - số 3/1994; “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” - Phạm Minh
Hạc - Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7-1996; “Phát huy và phát triển nguồn nhân lực
trẻ của đất nước phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH” - Trần Thị Tâm Đan - Tạp chí
Cộng sản, số 21-1996; “Góp phần tạo nguồn lực trẻ có chất lượng cao” Vũ Trọng
Kim - Tạp chí Khoa học chính trị, số 2-1996; “Phát triển tài năng trẻ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” - Nguyễn Văn Thanh - Tạp chí
Cộng sản 8/2008; “Thanh niên là nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận
mệnh dân tộc” - Minh Nhật - Tạp chí Cộng sản 2/2011; “ Kinh tế tri thức và sự
phát triển nguồn lực thanh niên” - Đặng Cảnh Khanh - Tạp chí Cộng sản 3/2011;
“Phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” - PGS, TS Nguyễn Đắc Vinh - Tạp chí Thanh niên

tháng 6 - 2012;...Các bài viết này bước đầu đề cập đến các vấn đề cấp bách hiện
nay như vị trí, vai trò, chính sách, giáo dục - đào tạo, việc làm nhằm phát huy nguồn
lực con người, nguồn lực thanh niên. Nội dung các bài báo đã cung cấp những cơ
sở khoa học và lượng kiến thức quan trọng để tác giả tham khảo
Cuộc Điều tra quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần
thứ 2 (SAVY 2) được Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa Gia đình thực hiện
với hơn 10.000 mẫu khảo sát ở 63 tỉnh thành, tiến hành từ năm 2008, và
công bố vào tháng 6/2010, đã cung cấp những số liệu về gia đình, điều kiện
sống, giáo dục, việc làm, sức khỏe, giải trí, thói quen, hành vi, hoài bão…
của vị thành niên và thanh niên Việt Nam ngày nay. Theo đó, vị thành niên


9

và thanh niên Việt Nam hiện nay có mối gắn kết chặt chẽ với gia đình, sống
trong gia đình có mức sống cao hơn; gắn kết với nhà trường tốt hơn, đề cao
việc học tập; lạc quan về cuộc sống trong tương lai…
Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu, lý giải vấn
đề ở các góc độ khác nhau về bản chất, các nhân tố tác động, vai trò, phát
huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào đề cập một cách toàn
diện và mang tính hệ thống về vấn đề: “Phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vì
vậy, đề tài luận văn mà tác giả lựa chọn nghiên cứu không trùng lặp với các
công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất giải
pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

* Nhiệm vụ:
Làm rõ quan niệm về nguồn lực thanh niên và phát huy nguồn
lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Đánh giá thực trạng nguồn lực và phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh
Bắc Ninh hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy tốt hơn
nữa nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh


10

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu
Nguồn lực và phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thời gian khảo sát từ
năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
thanh niên, phát huy nguồn lực thanh niên; bám sát thực tiễn phát huy
nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh, các báo cáo tổng kết của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Ninh và khảo sát
thực tế của tác giả về các vấn đề liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:
lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp chuyên gia, nghiên cứu tư
liệu, thu thập thông tin, điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ vai trò nguồn lực thanh niên và phát huy
nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Luận văn góp thêm cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc hoạch định chủ
trương, chính sách của các cấp uỷ đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng
tỉnh Bắc Ninh trong phát huy nguồn lực thanh niên; đồng thời luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu về nguồn lực thanh
niên, phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham


11

khảo và phụ lục kèm theo
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT HUY
NGUỒN LỰC THANH NIÊN TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1. Nguồn lực thanh niên và phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh
* Nguồn lực con người
Nguồn lực là hệ thống các yếu tố cả vật chất và tinh thần đã, đang và
sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần thúc đẩy quá trình cải

biến tự nhiên và xã hội của một quốc gia, dân tộc.
Khái niệm nguồn lực có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ
các yếu tố vật chất, tinh thần đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế mà cả
những yếu tố mới ở dạng tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ
ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hay nơi có thể cung cấp sức mạnh; phản ánh
không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng các yếu tố và sự biến đổi không
ngừng của các yếu tố đó.
Tùy theo từng điều kiện cụ thể và góc độ nghiên cứu trong các mối
quan hệ xác định mà nguồn lực được tính đến như thế nào, mở rộng hay thu
hẹp. Có thể nêu ra một số loại nguồn lực sau: nguồn lực vật chất và nguồn lực
tinh thần; nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài; nguồn lực chủ quan và
nguồn lực khách quan... Có những yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại trở
thành những nguồn lực của chính nguồn lực đó, như trí tuệ cũng được coi là
một nguồn lực trong nguồn lực con người.
Hiện nay, các nguồn lực quan trọng nhất thúc đẩy quá trình CNH, HĐH
đất nước có thể được qui về 5 loại sau: nguồn lực con người Việt Nam; nguồn
tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực do vị trí địa lý thuận lợi; nguồn lực bắt


12

nguồn từ cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật; các nguồn lực nước
ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tác động vào
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong đó, nguồn lực
con người Việt Nam là quí nhất, quyết định nhất.
Khái niệm “nguồn lực con người” mới được dùng từ những năm 60 của
thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á, hiện nay, nó
được sử dụng khá phổ biến trên thế giới [17, tr. 32].
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát

triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết
định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.
Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn –
(vốn người) một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và kinh
doanh. Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn lực con
người được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp)
mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh
doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây, nguồn lực con người được coi như
một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, tài nguyên thiên
nhiên… Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và
được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Dựa trên cách tiếp cận này, Liên hợp quốc cho rằng NLCN là tất cả
những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát
triển của đất nước. Nguồn lực con người ở đây được xem xét chủ yếu ở chất
lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta khái niệm NLCN được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam
cũng như các Từ điển Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con
người”. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm


13

khác nhau khi bàn về NLCN, về nguồn nhân lực.
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người là
số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe
và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [16, tr.328]. Giáo sư, TS. Hoàng Chí
Bảo cũng cho rằng: “Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực,
cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng
mới phát triển của con người” [2, tr.14]. Ngoài thể lực và trí lực, theo tác

giả "cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói
quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng
vào việc tìm tòi, sáng tạo” [2, tr.15].
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
Nguồn lực con người là quý báu nhất... Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa
học công nghệ hiện đại [9, tr.9].
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu:
Nguồn lực con người - một dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là tổng
hoà các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội, là số
dân, cơ cấu số dân và chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức
mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Đây là một khái niệm rộng mà nội
dung của nó được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là người lao động,
là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến NLCN
còn nói đến quy mô dân số và tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định


14

của một quốc gia, một địa phương.
Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu
lao động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…
Thứ ba, “nguồn lực con người” chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc biệt
là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn

nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa
NLCN với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Đồng thời, còn
nói lên sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.
Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem
xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội. Nguồn lực con người thể hiện ở cả trong
phẩm chất và năng lực toàn diện… ở sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố vật
chất và yếu tố tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng, không chỉ có
trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng.
Như vậy, nói đến NLCN và vai trò của nó phải xem xét con người với
tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển KT - XH. Là
chủ thể bởi con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa còn tạo
ra nguồn lực mới cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người
trở thành đối tượng được khai thác, cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu phát
triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát triển KT - XH.
* Nguồn lực thanh niên
Thanh niên và đặc điểm chung của thanh niên
Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, luôn mang trong
mình tính đa dạng của thế hệ đang lớn lên. Vì thế, trong suốt tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên đã được tất cả các quốc gia,


15

các thời đại coi trọng đặc biệt. Trong kho tàng tri thức của loài người đã lưu
giữ lại những tư tưởng, quan điểm, các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học, các danh nhân văn hóa, các bộ môn khoa học nghiên cứu về thanh
niên. Khái niệm thanh niên có sự biến đổi trong quá trình phát triển xã hội lịch sử. Xã hội loài người càng phát triển thì khái niệm thanh niên càng
phong phú và hoàn thiện.

Trước hết, cần phải nhấn mạnh rằng, trong qui luật sinh tồn của con
người, việc trải qua các lứa tuổi là một tất yếu. Ở mỗi lứa tuổi, sự phát triển
về thể chất, tâm lý và nhân cách của con người lại có những qui luật riêng.
Thanh niên là thời kỳ kế tiếp của lứa tuổi thiếu niên và là một giai đoạn phát
triển điển hình về thể chất và tâm lý của con người. Thanh niên là một thành
phần đặc biệt của cơ cấu xã hội. Muốn tìm hiểu và xác định phạm trù này cần
phải có sự thống nhất về khoảng tuổi, đặc điểm chung, riêng của họ, về tính
chất xã hội, các quan hệ cơ bản giữa họ với cộng đồng; phải tính đến những
qui luật bên trong của sự phát triển về thể chất và tinh thần của họ.
Ở nước ta Luật Thanh niên có hiệu lực 01/7/2006 quy định Thanh niên
là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. Như vậy, thanh niên chỉ phân
biệt một cách tương đối với các bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân tộc
trên một tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi. Tuy nhiên, có thể rút cái chung,
cái thống nhất căn bản nhất của thanh niên chính là ở tuổi trẻ của tất cả các
thành viên. Trong cuộc đời của mỗi con người thì tuổi thanh niên có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Thể hiện trên một số đặc điểm chung như sau:
Thanh niên với tư cách là một con người cá thể từ 16 đến 30 tuổi, xét từ
góc độ tâm - sinh lý thì đây là giai đoạn con người chuyển biến từ một đứa trẻ
thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện cơ thể về mặt sinh học và
những chuyển biến về tâm - sinh lý, tình cảm rất điển hình của tuổi dậy thì.
Thanh niên là thời kỳ đầu của người lớn, những năm tháng sung sức, đẹp đẽ


16

nhất của đời người, có thể phân biệt rõ rệt nhất với thiếu niên, nhi đồng ở lứa
tuổi ấu thơ, với những người đứng tuổi (trung niên) và những người đã bước
vào tuổi già. Đứng ở góc độ sinh học, lứa tuổi thanh niên được coi là một cấp
độ phát triển hoàn thiện về mặt thể chất. Trong những giai đoạn của một đời
người, tuổi thanh niên là biểu tượng về sự trẻ trung, mạnh mẽ, hoạt động, hy

vọng và ước mơ. Tuy vậy, thanh niên còn có những hạn chế nhất định: tính
bồng bột, thiếu kinh nghiệm, thậm chí cả sự liều lĩnh...
Xét từ góc độ con người - xã hội thì tuổi thanh niên chính là giai đoạn
họ chuẩn bị hành trang cho toàn bộ cuộc đời mình như: học vấn, nghề
nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh nghiệm, lối sống trên cở sở
định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành công dân thực thụ với đầy
đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định, lựa chọn bạn đời và lập gia đình
(hay không lập gia đình)...
Thanh niên mang những đặc trưng riêng: khao khát lý tưởng và hành
động thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị xã hội, nhưng lại thiếu sự từng trải
để có cách suy xét, đánh giá các giá trị, lựa chọn giá trị theo tinh thần duy lý.
Thanh niên với tư cách là một nhóm xã hội - nhân khẩu đặc thù, một
tầng lớp xã hội đặc thù có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của
mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Hồ Chí Minh đã dạy: “Một năm bắt
đầu bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân
của dân tộc.”[23, tr.156] Thanh niên là nhóm xã hội - dân cư có sứ mệnh
đón nhận sự trao truyền giá trị, bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi
gắm niềm tin của thế hệ đi trước (thế hệ già đã và đang giữ vai trò lãnh đạo
gia đình - cộng đồng - quốc gia dân tộc). Vì vậy, có thể nói thanh niên
chính là tương lai của toàn cộng đồng, dân tộc. Nếu thế hệ thanh niên
không được chuẩn bị chu đáo để tiếp nhận sự bàn giao sứ mệnh, kế tục các
thế hệ đi trước thì tương lai của toàn bộ cộng đồng quốc gia - dân tộc sẽ bị


17

đe dọa nghiêm trọng.
Nguồn lực thanh niên
Từ khái niệm chung về nguồn lực con người và đặc điểm thanh niên
có thể hiểu: Nguồn lực thanh niên là tổng hòa các yếu tố số lượng, chất

lượng và cơ cấu thanh niên được huy động vào hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội góp phần quan trọng vào việc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nói đến nguồn lực thanh niên không chỉ nhìn nhận nó trên cơ sở số
lượng thanh niên chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu dân cư và lực lượng chủ yếu
trên các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, mà nguồn lực thanh niên
thể hiện rõ nét ở chất lượng của nguồn lực thanh niên có thể hiểu một cách
khái quát là xây dựng một lớp thanh niên mới vừa hồng vừa chuyên, bao
hàm cả trình độ học vấn rộng, có kiến thức chuyên môn cao, tay nghề vững
vàng, có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, có thể lực tốt và lối sống lành mạnh ,
một lực lượng xã hội giàu tiềm năng phát triển. C. Mác đã từng khẳng định
rằng: “Tương lai của giai cấp họ, và do đó, của cả loài người, hoàn toàn tùy
thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [20, tr.262]. Đó là
nguồn tài sản vô giá của đất nước hôm nay và mai sau. Sinh lực của một
dân tộc, một quốc gia thể hiện ở thanh niên, lực lượng có khả năng làm
những việc "dời non lấp biển", là "rường cột của nước nhà", là "mùa xuân
của nhân loại".
Thanh niên với ưu thế về sức khỏe (thể lực), phẩm chất tâm lý (tư
duy, trí nhớ, khí chất...) và trình độ chuyên môn kỹ thuật - văn hóa ,
v.v... sẽ là nguồn lực tốt nhất có thể đáp ứng được sự biến đổi của nội
dung lao động dưới tác động của các tiến bộ khoa học - công nghệ (thay
đổi nghề, hoặc tiếp cận với công nghệ mới, kỹ thuật cao). Những lớp
thanh niên hôm nay sẽ là nguồn nhân lực hết sức quan trọng cho ngày mai


18

của đất nước.
* Nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa

Khái quát về tỉnh Bắc Ninh và đặc điểm thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Bắc Ninh
Về tự nhiên, Bắc Ninh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm gọn trong vùng
châu thổ sông Hồng, thuộc tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía
Đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây giáp thủ đô Hà Nội. Với vị trí thuận lợi
được coi như ngã ba trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và Đông Bắc với Hà
Nội đã tạo điều kiện cho việc giao lưu, hợp tác kinh tế, mở rộng thị trường để
phát triển KT - XH của tỉnh. Với tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là
807,6km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 64,7%, đất lâm nghiệp chiếm 0,7%,
đất chuyên dùng và đất ở chiếm 23,5% là điều kiện thuận lợi để thanh niên phát
triển sản xuất, lưu thông hàng hóa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Về kinh tế - sản xuất, cùng với sự phát triển của cả nước, trong những
năm qua, kinh tế Bắc Ninh có những bước phát triển đáng kể. Năm 2012,
tổng sản phẩm GDP trong tỉnh đạt 72.676 tỷ đồng tăng 13,35% so với năm
2011, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Bắc Ninh hiện có hệ
thống giao thông thuận tiện gồm 4 tuyến quốc lộ (1A, 1B, 18, 38) với tổng
chiều dài 135 km; đường tỉnh lộ gồm 12 tuyến, chiều dài 255 km; đường
huyện và đường đô thị dài 295 km; đường, xã và đường thôn dài 3.147 km.
Hệ thống điện lưới và bưu chính viễn thông tương đối hoàn chỉnh, đó là điều
kiện thuận lợi góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH.
Về văn hóa, Bắc Ninh là tỉnh có nền văn hóa lâu đời. Mật độ phân bố các di
tích lịch sử, văn hóa dày đặc, chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội. Đến nay có tới 427 di


19

tích lịch sử văn hóa được cấp bằng công nhận di tích quốc gia và cấp địa phương.
Trong đó có những di tích mang những giá trị lịch sử văn hóa có ý nghĩa quốc gia
và quốc tế như các di tích đền Đô, chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích, đền thờ Kinh

Dương Vương…Bắc Ninh cũng là tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống có những nét
văn hóa đặc sắc. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có khoảng 41 lễ hội lớn diễn ra trong
năm, trong đó có những lễ hội có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, tâm linh và có tầm vóc
ảnh hưởng lớn như Hội Lim, hội chùa Dâu, hội đền Đô, hội đền Bà Chúa Kho…
Về xã hội, tính đến năm 2012 trên địa bàn có 2 trường đại học, 5 trường
cao đẳng và 4 trường trung học chuyên nghiệp và 46 cơ sở dạy nghề. Ngoài ra
trên địa bàn huyện, thành phố thuộc tỉnh đều có trung tâm dạy nghề thuộc Sở
Lao động thương binh và xã hội. Các lĩnh vực GD - ĐT, y tế, văn hóa, thông
tin, thể dục thể thao đều khá phát triển, các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển mạnh, tạo điều kiện để thanh
niên trong tỉnh học tập nâng cao trình độ dân trí, tay nghề, nâng cao chất lượng
cuộc sống. Theo số liệu điều tra đến năm 2012 “Toàn tỉnh có 1.079.906 người,
trong đó dân số thành thị tại các thành thị là 282.958 người chiếm 26,20%,
nông thôn là 796.948 người chiếm 73,80%. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh
hiện nay là 1.257 người/km2. Số người trong độ tuổi lao động là 610.996
người, chiếm 56,58% tổng dân số của toàn tỉnh” [4, tr.3]. Môi trường chính trị
xã hội Bắc Ninh ổn định, Đảng bộ và chính quyền địa phương luôn vững
mạnh, luôn quan tâm đến phát triển KT - XH.
Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, sản xuất, văn hóa và xã hội mang lại
nhiều lợi thế cho đẩy mạnh CNH, HĐH tỉnh và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho thanh niên. Hiện nay tỉnh đã thu hút hàng trăm dự án với số vốn
đầu tư lên đến hàng trăm triệu USD. Đặc biệt, đã thu hút được các dự án đầu
tư hạ tầng của các tập đoàn lớn như VSIP Bắc Ninh (Singgapore), ORIX &
CANON (Nhật Bản), SAMSUNG & IGS (Hàn Quốc), Poxconn (Đài Loan)…


20

Đến nay, Bắc Ninh đã trở thành một trong những tỉnh có tốc độ phát triển
CNH, HĐH nhanh nhất miền Bắc, cả về tốc độ, phạm vi và thể hiện rõ tính

vượt trước, đi tắt đón đầu, mở ra triển vọng lớn cho sự phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh. Bên cạnh đó, Bắc Ninh phải đối mặt với một số khó khăn nảy
sinh trong quá trình CNH, HĐH như: cơ cấu kinh tế không đồng đều giữa
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; đời sống của nhân dân tỉnh nói chung
và thanh niên vẫn còn gặp khó khăn.
Đặc điểm thanh niên tỉnh Bắc Ninh.
Thanh niên tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của thanh niên Việt Nam. Do
đó, mang đầy đủ những đặc điểm của thanh niên, nhưng có những nét đặc
trưng riêng, thể hiện:
Một là, thanh niên Bắc Ninh, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất vốn
giàu truyền thống cách mạng, họ luôn yêu hoà bình, ghét chiến tranh, thích
công bằng, ưa dân chủ, chuộng cái mới.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, thanh niên tiếp nối
truyền thống của quê hương, đem tài năng và sức trẻ viết tiếp trang sử hào
hùng mà thế hệ cha anh họ đã và đang làm, ra sức xây dựng quê hương giàu
đẹp. Bắt nhịp với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, thanh niên Bắc Ninh là
những hạt nhân tích cực, luôn đi đầu trong việc tiếp thu cái mới, ứng dụng
khoa học kỹ thuật - công nghệ mới vào hoạt động lao động sản xuất và phát
triển kinh tế - xã hội, ngày càng khẳng định là lực lượng xung kích trong đẩy
mạnh CNH, HĐH quê hương. Từ hai phong trào lớn “ 5 xung kích phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “ 4 Đồng hành với thanh niên lập thân,
lập nghiệp” tuổi trẻ Bắc Ninh đã hoàn thành và đạt được những thành tích cao,
biểu hiện tinh thần, đạo đức, ý chí và nghị lực của sức trẻ.
Hai là, thanh niên tỉnh Bắc Ninh nhìn chung có trình độ học vấn khá
cao và đồng đều. Họ luôn khiêm tốn, ham hiểu biết, chịu khó học hỏi và có ý
thức giúp nhau tiến bộ; có tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ,


21


tương trợ lẫn nhau, sống có nghĩa có tình và luôn vượt khó khăn vươn lên.
Đây một đặc điểm quan trọng của thanh niên tỉnh Bắc Ninh. Đồng
thời, CNH, HĐH cũng đặt ra cho thanh niên phải biết vươn lên làm chủ khoa
học - công nghệ, kỹ thuật hiện đại, làm chủ thị trường…với những yêu cầu
đó không còn con đường nào khác thanh niên tỉnh Bắc Ninh phải tích cực
học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ cho mình.
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, Bắc Ninh đã tạo điều kiện để
thanh niên nâng cao trình độ học vấn, trình độ tay nghề của mình, với hệ
thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh về hệ thống trường lớp, giáo viên, về cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học và truyền thống của vùng quê hiếu học. Đối với
thanh niên, họ có nhu cầu học tập nâng cao trình độ về mọi mặt để phát triển
sản xuất, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm và có thu nhập cao. Mặt khác,
hệ thống trường học, kết cấu hạ tầng được nâng cấp tạo điều kiện để các lớp
thanh niên Bắc Ninh được hưởng lợi do chính CNH, HĐH tỉnh mang lại mà
những thời kỳ trước chưa thực hiện được.
Ba là, thanh niên tỉnh Bắc Ninh mang đậm cốt cách văn hoá truyền
thống của vùng Kinh Bắc.
Bắc Ninh nằm trong châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, là một trong những
cái nôi văn hoá không chỉ của đồng bằng Bắc Bộ mà của cả nước; quê
hương của làn điệu dân ca quan họ nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là
di sản văn hoá phi vật thể thế giới. Người Bắc Ninh anh dũng, kiên cường,
nhưng cũng rất cần cù, thông minh, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, độ lượng và
có tinh thần lạc quan, yêu đời, hiếu học, luôn tự hào về truyền thống văn hoá
của mình… Thanh niên, dù sinh ra và trưởng thành từ quê hương Kinh Bắc,
hay được thu hút từ địa phương khác về, đều ít nhiều được thừa hưởng các
giá trị văn hoá truyền thống của vùng Kinh bắc ngàn năm văn hiến và mang
trong mình những nét tâm lý, cốt cách văn hoá của người Kinh Bắc. Chính
đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phát huy tinh thần đoàn



22

kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong công tác và trong cuộc sống.
Đặc biệt, truyền thống hiếu học là điều kiện thuận lợi để khuyến khích, cổ vũ
thanh niên trong học tập, tự học, nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trong bảo
tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, cũng như sáng tạo
các giá trị văn hoá mới.
Bốn là, về thành phần dân tộc và xuất thân của thanh niên tỉnh Bắc
Ninh: Là tỉnh có dân cư thuần nhất, nên khác với nhiều tỉnh khác cùng trong
vùng đồng bằng Bắc Bộ, thanh niên đều là người Kinh, do đó, họ cùng chung
đặc điểm tâm lý, tính cách và trình độ nhận thức tương đối cao, đồng đều. Về
thành phần xuất thân, chủ yếu thanh niên xuất thân từ hầu hết các tầng lớp
dân cư trong xã hội, trong đó chủ yếu là từ gia đình nông dân và công nhân.
Do vậy, hiểu và nắm vững đặc điểm riêng của thanh niên tỉnh Bắc Ninh để
có những biện pháp phát huy tốt và ứng xử một cách phù hợp.
* Quan niệm về nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ nghiên quan niệm về nguồn lực thanh niên và những đặc điểm về
tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh, đặc điểm thanh niên tỉnh Bắc Ninh
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có thể quan niệm:
Nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh là tổng hòa các yếu tố về số lượng, chất
lượng và cơ cấu thanh niên được huy động vào các hoạt động trên các lĩnh
vực đời sống xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quan niệm về nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thể hiện ở:
Số lượng thanh niên đây là yếu tố vật chất nền tảng có vai trò rất quan
trọng tạo thành sức mạnh của NLTN tỉnh. Không có số lượng thích hợp thì không
thể tạo dựng được một lực lượng hùng hậu, càng không thể triển khai các kế
hoạch có hiệu quả. Sức mạnh của nguồn lực này bắt nguồn từ sức mạnh của từng
cá nhân được tổ chức. Nhờ có tổ chức mà sức mạnh của từng thanh niên và của
cả NLTN được nhân lên gấp bội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh



23

CNH, HĐH tỉnh hiện nay.
Số lượng thanh niên phải đảm bảo tính phổ quát về nội dung và các lĩnh
vực hoạt động của họ. Trên cơ sở yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH để
xác định số lượng thanh niên tham gia ở các ngành, các cơ quan một cách hợp
lý, sẽ bảo đảm sức mạnh thực tế cho NLTN tỉnh phát huy tác dụng cả bề rộng
và chiều sâu trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Thực tế năm 2012 Bắc
Ninh có dân số 1.079.906 người trong đó thanh niên hiện có 282.070 người,
chiếm tỉ lệ 26,12% dân số và 46,17% lực lượng lao động của tỉnh, với 140.471
thanh niên được tập hợp trong tổ chức đạt tỷ lệ 49,8%[Phụ lục 1]
Chất lượng thanh niên là sự tổng hoà những phẩm chất và năng lực (đức
và tài) được thể hiện ở kết quả lao động của họ. Đây là yếu tố cơ bản, quan
trọng nhất, giữ vị trí quyết định sức mạnh của NLTN tỉnh. Phẩm chất và năng
lực của thanh niên là hai mặt thống nhất và có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết
chặt chẽ, tác động lẫn nhau, không thể tách rời. Có phẩm chất mà không có
năng lực thì phẩm chất cũng không có tác dụng thiết thực. Có tài, có năng lực
mà không có phẩm chất, đạo đức, tình cảm, lý tưởng, ý chí thì tài năng không
có cơ sở để phát triển đúng hướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có tài
phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức
không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”[25,
tr.184]. Đảng ta đã khẳng định: “Phải coi trọng cả đức và tài” [10, tr.80].
Trong bối cảnh hiện nay, đa số thanh niên có phẩm chất chính trị tốt,
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quan tâm nhiều hơn đến đời sống chính
trị, xã hội, sự phát triển kinh tế của quê hương đất nước. Lòng yêu nước, tự
hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng ngày càng được củng cố.
Tinh thần cảnh giác cách mạng, yêu hoà bình ngày càng thể hiện rõ. Tinh
thần xung phong tình nguyện, tính tích cực chính trị, xã hội của thanh niên

được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Ý thức cộng đồng, lòng nhân ái... Ý
thức tự lực, tự cường không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, chủ động và nỗ lực
vươn lên trong cuộc sống, làm giàu chính đáng là xu hướng ngày càng được


24

khẳng định của thanh niên.
Thực tế những năm vừa qua cho thấy cuộc sống đang thay đổi từng
ngày, nhiều thanh niên tỉnh Bắc Ninh đã nhanh chóng nhập cuộc, tìm thấy
chỗ đứng của mình trong học tập, lao động sáng tạo, phát huy tốt khả năng
và sức lực vì sự phát triển của quê hương, đất nước. Nhiều người đã vượt
qua những khó khăn, thử thách khắc nghiệt của cuộc sống trở thành những
người có học vấn cao, những trí thức trẻ, nhà quản lý đầy tài năng, những
chủ doanh nghiệp lớn làm ăn phát đạt, có uy tín và nhân cách tốt.
Cơ cấu thanh niên tỉnh Bắc Ninh là một yếu tố quan trọng của nguồn
lực này. Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng
chủ thể [34, tr.207], là cách tổ chức, sắp xếp, bố trí các bộ phận trong một
chỉnh thể [35, tr.281]. Từ định nghĩa trên, cơ cấu thanh niên tỉnh Bắc Ninh
có thể được hiểu là: các thành phần, mối liên hệ, cách tổ chức, bố trí, sắp
xếp vị trí các bộ phận trong toàn bộ NLTN tỉnh theo những tiêu chí nhất
định và phù hợp với yêu cầu khách quan. Tính hợp lý của cả hệ thống cơ cấu
và của từng dạng cơ cấu sẽ đảm bảo cho sự bổ sung, kế thừa và phát triển
động bộ, vững chắc của NLTN tỉnh.
Cơ cấu thanh niên không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan mà
còn chịu sự chi phối của yếu tố chủ quan. Thực tế cho thấy, có thể tạo ra được
một cơ cấu hợp lý, cũng có thể tạo ra một cơ cấu bất hợp lý toàn bộ hay từng
bộ phận. Cơ cấu thanh niên tỉnh Bắc Ninh gồm: Thanh niên nông thôn Bắc
Ninh chiếm 42% tổng số thanh niên toàn tỉnh. Phần lớn họ là những người lao
động chuyên cần, chịu khó, có tinh thần học hỏi, dám nghĩ, dám làm, có ý chí

vươn lên lập thân, lập nghiệp. Nhiều thanh niên đã tìm ra con đường xoá đói,
giảm nghèo ngay tại quê hương và trở thành các mô hình kinh tế tiêu biểu là
tấm gương cho thanh niên tỉnh noi theo, học tập; Thanh niên sinh viên, học
sinh chiếm 21,9% thanh niên trong độ tuổi, nhận thức được những đòi hỏi khắt
khe của người trí thức hiện đại nên họ đã chủ động học tập, nghiên cứu và phát
triển tài năng, tự giác rèn đức, luyện tài; Thanh niên công nhân, đô thị và đội


25

ngũ công chức trẻ chiếm 32,7% thanh niên trong độ tuổi, có điều kiện thuận lợi
về mọi mặt, kinh tế, văn hoá, học tập và rèn luyện, được tiếp thu kịp thời những
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; Thanh niên các lực lượng vũ
trang chiếm 1,5% thanh niên trong độ tuổi, họ luôn giữ vững và phát huy bản
chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của các thế hệ đi trước, đảm bảo an ninh
chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Các yếu tố số lượng, chất lượng, cơ cấu có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tạo nên sức mạnh NLTN tỉnh. Có số lượng mà không có chất lượng
hoặc chất lượng thấp, cơ cấu bất hợp lý thì số lượng nhiều cũng không mạnh.
Có chất lượng tốt mà thiếu về số lượng, bất hợp lý về cơ cấu thì chất lượng
cũng không được phát huy đầy đủ. Số lượng thanh niên là yếu tố phản ánh lực
lượng vật chất của NLTN tỉnh, là cơ sở, tiền đề cho nguồn lực này tồn tại,
phát triển, để các yếu tố khác thể hiện vai trò của mình. Cơ cấu thanh niên
tỉnh Bắc Ninh là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của NLTN. Nó phản ảnh
cách thức sắp xếp lực lượng một cách hợp lý để có thể phát huy có hiệu quả
nguồn lực này. Chất lượng thanh niên tỉnh Bắc Ninh là yếu tố quan trọng nhất
của nguồn lực và còn là sự phản ánh sự kết hợp của hai yếu tố kia.
Như vậy, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, thanh niên đã nỗ
lực phấn đấu, sáng tạo, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, phát huy tinh thần
"đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên", xứng đáng là lực lượng

xung kích trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế, thể hiện cao độ tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và niềm tự hào dân tộc.
1.1.2. Phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
* Quan niệm về phát huy nguồn lực thanh niên tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Theo quan niệm chung, phát huy là làm cho cái hay, cái tốt, cái đúng
toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm [36, tr.742]. Đó là việc khơi dậy, sử


×