mở đầu
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định Mục tiêu của CNH, HĐH là
xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giầu nớc mạnh xã hội công bằng, văn minh.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là cuộc cách mạng trong tất cả các
khu vực của sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Bởi vậy thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc đặt ra những yêu cầu mới đối với phát triển du lịch Việt
Nam. Do tính đặc thù của ngành du lịch và sự đa dạng của du lịch văn hoá, mỗi
quốc gia, mỗi vùng muốn thu hút khách phải dựa trên lợi thế về tài nguyên du lịch.
Di sản thiên nhiên và các di sản văn hoá.
Sự phát triển của du lịch có 3 khuynh hớng chủ yếu là:
+ Tổ chức du lịch cho khách nghỉ hè: Khuynh hớng này chú trọng tới cảch
quan khu vực nghỉ: nh có bãi biển đẹp, nhiều hoạt động vui chơi giải trí, khách sạn
sang trọng, đủ tiện nghi,...
+ Khuynh hớng tập trung các trò chơi giải trí trong những công viên hoặc
trong một khu vui chơi và khuynh hớng này có tính chất hớng về tơng lai.
+ Khuynh hớng thứ ba là phát triển du lịch văn hoá. Khuynh hớng này là yếu
tố chính của phát triển du lịch, khuynh hớng này nghiên về truyền thống nhằm đạt
hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, giũ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ đợc môi trờng, giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhân
phẩm con ngời Việt Nam và tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới. Hoạt động
du lịch càng hiện đại hoá, càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân
tộc, làm đẹp thêm cảnh quan môi trờng, ngăn chặn không cho các tiêu cực và tệ
nạn xã hội xâm nhập vào các mặt hoạt động. Phát triển du lịch theo định hớng sản
phẩm văn hoá, cảnh quan và môi trờng.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá, bởi vì du lịch văn hoá là một loại hình du
lịch có nhiều u điểm: ít chịu phụ thuộc vào thời tiết, có thể phát triển quanh năm
1
nguồn thu từ du lịch văn hoá là nguồn thu ổn định, với mức tăng trởng ngày càng
lớn, nó giúp con ngời hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh,... Điều đó rất phù
hợp với xu thế của thời đại ngày nay: xã hội phát triển, nhu cầu mở mang sự hiểu
biết của con ngời ngày càng cao, đi lại du lịch trở thành một nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống. Nhng không phải tất cả các quốc gia đều có thể phát triển du lịch
văn hoá, du lịch văn hoá chỉ phát triển ở những nớc có nền văn hiến lâu đời, có
nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh quan làm say đắm lòng ngời. Nếu nh
Ai Cập không có Kim Tự Tháp khổng lồ, Hy Lạp không có những đền đầy nguy
nga tráng lệ thì mỗi năm không thể có hàng chục triệu lợt khách đến du lịch ở nớc
này.
Quan trọng hơn, việc khai thác tiềm năng văn hoá truyền thống trong kinh
doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất đợc tiến hành đồng thời với việc bảo vệ
tôn tạo chúng.
Trong thời kỳ đổi mới, với phơng châm: Việt Nam là bạn với tất cả các n-
ớc. Thực hiện chính sách mở cửa chúng ta đã thu hút đợc nguồn đầu t ngày càng
lớn của nhiều nớc. Mặt khác Việt Nam là nớc có nhiều danh lam thắng cảnh, đặc
biệt có nền văn hoá truyền thống: Hơn 4.000 năm văn hiến, với các công trình
mang tính lịch sử, văn hoá, nghệ thuật với nền văn hoá dân gian đậm đà bản sắc
dân tộc,... Việt Nam trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ riêng đối với
khách du lịch văn hoá mà còn đối với nhiều đối tợng khác.
2
ch ơng I
sự cần thiết để phát triển
du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
I. Vai trò và vị trí của du lịch văn hoá trong sự phát
triển của du lịch.
1. Những nét khái quát về du lịch văn hoá, di sản văn hoá và di tích lịch sử
văn hoá.
a. Du lịch văn hoá:
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân tộc
trên thế giới đợc mở rộng, dẫn tới việc giao lu văn hoá, tìm kiếm những kiến thức
về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một nhu cầu cho
nhiều tầng lớp dân c trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn là nghỉ ngơi giải
trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khoẻ khả năng lao động,...) mà còn là
hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri thức, làm phong phú đời sống
tinh thần của con ngời. Đó chính là nội hàm của khái niệm du lịch văn hoá.
Có thể hiểu du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là nâng
cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết qua các chuyến du lịch đến
những vùng đất mới tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã
hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phơng đất nớc đến du lịch hoặc là
kết hợp những mục đích khác nữa.
Du lịch văn hoá vừa là phơng tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du lịch.
Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất cũng nh
tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phơng thức hấp dẫn vì nó giải
quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du lịch văn hoá thờng
để dành cho du khách có trình độ cao trong xã hội.
3
Du lịch văn hoá đợc xem là tổng thể của du lịch - xem đó là một hiện tợng
văn hoá những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn hoá.
Những động cơ thu hút đến các điểm du lịch là để nghỉ ngơi và giải trí.
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ngời ta có thể phân chia du lịch văn hoá
ra nhiều loại:
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là chủ
yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tợng khách chủ
yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chơng trình du lịch dã
ngoại đến các làng dân tộc ít ngời thuộc các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu,... để
khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá của các dân tộc đó. Khách sẽ
đi bộ khi tham quan các bản làng và thờng nghỉ qua đêm tại các bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất - du
khách thờng kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tim fhiểu văn hoá trong một
chuyến đi. Đối tợng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú, bên cạnh
những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn có những khách
chỉ để chiêm ngỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò hoặc có thể theo trào lu,... Do
vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thờng đi đến nhiều điểm du lịch, trong đó
vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có những điểm du lịch núi, du lịch biển,
du lịch dã ngoại, săn bắn,... Đối tợng khách là những ngời a phiêu lu mạo hiểm,
thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những ngời trẻ tuổi. Ví dụ nh các chơng
trình leo núi (ở nớc ta đã tổ chức cho khách du lịch leo núi Phanxipăng), các ch-
ơng trình du lịch dã ngoại, các chơng trình du lịch săn bắn.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác mục đích
chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề nghiệp nào
đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tợng của loại hình này là những ngời
đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các cuộc triển lãm. Loại
khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong phú, có chất lợng cao, qui trình
phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng thanh toán cao nhng nói chung thời
gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch
này là du lịch công cụ.
Tuy nhiên, sự phân loại du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là tơng
đối. Vì trong một chơng trình du lịch thờng đợc kết hợp nhiều hoạt động khác
nhau nh: Kết hợp đi du lịch dã ngoại với du lịch theo chuyên đề văn hoá, hoặc du
4
lịch săn bắn,... trong một chuyến hành trình nhằm tránh gây cho khách cảm giác
nhàm chán.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng vì nó ít chịu sự chi phối của
yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu), nhng nó phụ thuộc vào đặc điểm nhân
khẩu học nh: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn giáo,... của du
khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: so với các loại hình du lịch khác, du lịch văn hoá
mang tính đại chúng. Tuy có chịu ảnh hởng tính thời vụ nhng không phụ thuộc
hoàn toàn, ít chịu ảnh hởng của yếu tố thời tiết khí hậu. (Những đặc điểm này thể
hiện rất rõ ở loại hình du lịch lễ hội) đồng thời mức độ chênh lệch cung cầu của du
lịch văn hoá thờng không lớn).
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi du lịch
văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì đối với họ ít
chịu sự ràng buộc của gia đình, thờng có trình độ học vấn cao, có địa vị xã hội,...
+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia vào các chuyến du lịch văn hoá chủ yếu vẫn là
những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách cao tuổi họ thờng có
nhiều thời gian rỗi,... thờng có kinh nghiệm trong việc đi du lịch, họ thích tìm hiểu
về âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính dân tộc,... và họ quan
tâm nhiều đến chất lợng phục vụ. Chủ yếu họ mua các chơng trình tham quan du
lịch văn hoá. Ngợc lại, đối với khách du lịch thanh niên đây là nhóm có số lợng
đông đúc với các đặc trng của thanh niên nh: a khám phá, thích tìm tòi, muốn thử
sức mình, thích đi xa, thích sự tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thờng đi thành
nhóm lẻ,... do đó họ có xu hớng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du
lịch, họ có khả năng thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm trong đi du lịch, họ thờng
quan tâm đến giá cả nhng ít quan tâm đến yêu cầu về chất lợng dịch vụ. Khách du
lịch thanh nhiên thờng tham gia vào các chuyến du lịch dã ngoại, săn bắn mạo
hiểm, tham quan văn hoá,... Đối với những khách trung niên thờng là những ngời
có địa vị xã hội có khả năng thanh toán cao, có sự tự chủ lớn trong khi đi du lịch.
Họ quan tâm nhiều đến chất lợng phục vụ,... họ thờng kết hợp giữa đi công tác với
đi du lịch.
+ Yếu tố trình độ học vấn: Những ngời có trình độ học vấn cao là loại khách
đợc các nhà kinh doanh du lịch quan tâm nhiều vì những nhà học vấn cao thờng
thờng là những ngời có địa vị xã hội cao, thu nhập cao, trình độ văn hoá cao nên
5
có nhu cầu mở rộng sự hiểu biết tìm hiểu thế giới xung quanh cao hay có thể nói
họ có động cơ văn hoá cao trong nhu cầu đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể đợc coi là khách du lịch thuần tuý vì khách có
thể chỉ đi vì động cơ văn hoá. Tuy nhiên số lợng khách du lịch văn hoá thuần tuý
trong thực tế thờng rất ít mà khách du lịch thờng kết hợp giữa loại hình du lịch văn
hoá với loại hình du lịch khác trong một chuyến hành trình.
b. Định nghĩa di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá đợc coi là một trong những
nguồn tài nguyên du lịch quan trọng. Đây là nguồn lực để phát triển và mở rộng
hoạt động du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử, văn hoá gắn liền với môi trờng xung
quanh,... bảo đảm sự sinh động của quá khứ đã nhào nặn nên chúng và bảo đảm
cho khung cảnh cuộc sống, sự đa dạng của xã hội. Mặt khác nó đã chứng minh
cho những sáng tạo to lớn về văn hoá, tôn giáo và xã hội loài ngời. Việc bảo vệ,
khôi phục và tôn tạo những vết tích hoạt động của loài ngời trong các thời kỳ lịch
sử, những thành tựu văn hoá, nghệ thuật,... không chỉ là nhiệm vụ lớn của nhân
loại trong thời kỳ hiện đại, mà còn giá trị rất lớn với mục đích du lịch.
* Di sản văn hoá bao gồm những công trình từ những nền văn hoá trớc đây
(các biệt thự, lâu đài, bảo tàng, lăng mộ,..) và nghệ thuật (tranh hoạ, âm nhạc, điêu
khắc) và những di sản khác (vũ khí, quần áo, trang phục, đồ dùng) cũng nh những
địa danh nổi tiếng trong lịch sử nh di tích các trận đánh, những cung điện.
Trong thế giới cổ xa có 7 kỳ quan vĩ đại do bàn tay con ngời tạo ra nằm tập
trung những nôi của nền văn minh nhân loại. Đây là 7 kỳ quan kỳ diệu đợc khắc
mốc ghi tên vào thế kỷ VI sau công nguyên, nh những chứng tích kinh điển. Cụ
thể là:
1. Kim Tự Tháp Ai Cập
2. Vờn treo Babilon
3. Tợng khổng lồ Hêliôtx trên đảo Roi
4. Lăng mộ vua Môđôn ở Halicacnasơ
5. Đền thờ nữ thần Actêmis ở Êphedơ
6. Tợng thần Dớt ở Olempia
6
7. Ngọn Hải đăng cao nhất thế giới và th viện đầu tiên của loài ngời ở
Alêc - xandria.
Trong số 7 kỳ quan trên, chỉ có những ngọn tháp khổng lồ ở Ai Cập vẫn giữ
nắng gió sa mạc và là kỳ quan cổ đại duy nhất còn sót lại.
Ngày nay Liên Hiệp quốc đã đa ra công ớc quốc tế về bảo tồn di sản văn hoá
và thiên nhiên. Trên 100 nớc, trong đó vó Việt Nam đã tham gia ký công ớc này,
và trên cơ sở đó thành lập Hội đồng di sản thế giới (WHO). Các di sản của nhân
loại ở các nớc muốn đợc xếp hạng là di sản thế giới phải đáp ứng những tiêu chuẩn
nhất định do WHO đa ra. Đối với các di sản văn hoá có 6 tiểu chuẩn:
1. Là tác phẩm độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con ngời.
2. Có ảnh hởng quan trọng đến sự tập hợp của nghệ thuật kiến trúc, nghệ
thuật sáng tạo không gian trong một thời kỳ nhất định, trong một khung cảnh văn
hoá nhất định.
3. Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã biến mất.
4. Cung cấp một ví dụ hùng hồn cho một thể loại xây dựng hoặc kiến trúc
phản ánh một giai đoạn lịch sử.
5. Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một dạng nhà ở truyền thống nói lên đợc
một nền văn hoá đang có nguy cơ bị huỷ hoại trớc những biến động không cỡng
lại đợc.
6. Có mối quan hệ trực tiếp với những sự kiện, tới ngỡng đáp ứng đợc những
tiêu chuẩn xác thực về ý tởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng nh về vị
trí.
Đến năm 1994 danh mục di sản thế giới đã ghi đến số 443 trong đó 93 di sản
thiên nhiên và 334 di sản văn hoá. Di sản đợc đánh số đầu tiên là Viện quốc gia
Nahanni của Canada con số cuối cùng 443 là di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long.
Việt Nam có 2 di sản thế giới đó là di sản văn hoá của Huế và di sản thiên
nhiên Vịnh Hạ Long.
Việc một di sản quốc gia đợc công nhận, tôn vinh, là di sản thế giới mang lại
nhiều ý nghĩa. Tầm vóc giá trị của di sản đợc nâng cao, đặt nó trong mối quan hệ
có tính toàn cầu. Các giá trị văn hoá, thẩm mỹ cũng nh các ý nghĩa kinh tế, chính
7
trị, vợt khỏi phạm vi một nớc. Khả năng thu hút khách du lịch và phát triển du lịch
sẽ to lớn hơn nhiều.
* Di tích lịch sử văn hoá là tài sản văn hoá quý giá của mỗi địa phơng, mỗi
dân tộc, mỗi đất nớc và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực,
cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi nớc. ở đó chứa đựng tất cả những gì
thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng của con ngời, góp
phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt
quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi đất nớc.
Trên thế giới: những Kim Tự Tháp ở Ai Cập, đến đài Páctênông ở Hy Lạp,
Chùa Tháp dát vàng, dát bạc ở ấn Độ, Mianma, Campuchia (ĂngcoVát) và trong
nớc nh thành Cổ Loa, đền Hùng, cung điện, Lăng Tẩm ở Cố đô Huế,... mãi mãi là
những biểu tợng chói ngời trong kho tàng văn hoá dân tộc và nhân loại. Đợc gọi
chung là Di tích lịch sử - văn hoá vì chúng đợc tạo ra bởi con ngời trong quá trình
lao động sáng tạo lịch sử, hoạt động văn hoá. Văn hoá ở đây bao gồm cả văn hoá
vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.
Di tích lịch sử - văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan,
trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử do tập thể hoặc cá nhân con ngời
hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại (Định nghĩa).
Di tích lịch sử - văn hoá, đợc phân chia thành:
+ Di tích văn hoá khảo cổ: là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn
hoá, thuộc về thời kỳ lịch sử xã hội loài ngời cha có văn tự và thời gian nào đó
trong lịch sử cổ đại.
+ Di tích lịch sử: bao gồm di tích ghi dấu về dân tộc học (sự ăn ở sinh hoạt
của các tộc ngời); di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu, có ý nghĩa
quyết định chiều hớng phát triển của đất nớc, của địa phơng; di tích ghi dấu chiến
công chống xâm lợc (Điện Biên Phủ, Đống Đa); di tích ghi dấu những kỷ niệm; di
tích ghi dấu sự vinh quang trong lao động; di tích ghi dấu tội ác của đế quốc và
phong kiến.
+ Di tích văn hoá nghệ thuật: là các di tích gắn với các công trình kiến trúc
có giá trị nên còn gọi là kiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa
đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hoá xã hội,
8
văn hoá tinh thần (Tháp Epphen, Khải Hoàn Môn ở Pháp, các ngôi đình làng, văn
miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm, toà thánh Tây Ninh,...).
Di sản văn hoá - Di tích lịch sử văn hoá là điều kiện cần thiết cho sự phát
triển loại hình du lịch văn hoá ở bất kỳ quốc gia nào, muốn phát triển du lịch.
2. Mối quan hệ giữa du lịch và di sản văn hoá.
Du lịch và di sản đợc xem là hình thức du lịch phát triển nhanh nhất trong
lịch sử văn hoá. Khái niệm di sản nêu rõ du lịch là dựa vào quá khứ, một điểm du
lịch có lịch sử riêng, những cuộc viếng thăm sẽ đợc đặt tên là du lịch và di sản.
Trong du lịch di sản còn bao gồm các tài sản đơng đại cũng rất quan trọng:
lối sống của một cộng đồng đợc thừa kế qua di sản vì vậy khách du lịch tới vùng
cực bắc của Canada có nguyện vọng tới thăm nơi c trú của ngời innete (Eskimo) vì
một phần đó là tợng trng của lối sống xa kia, mặt khác đó là di sản văn hoá của
Canada. Thực tế những hoạt động mang tính truyền thống nh săn bắn ngày nay
không còn đợc diễn ra nh cũ nên làm cho nhiều du khách thất vọng; chính vì vậy
từ chỗ họ cảm tình với ngời Innite, thành ra ác cảm đối với quá khứ.
Hoạt động du lịch và di sản có phạm vi rộng lớn hơn so với thực tế trớc đây,
có nhiều trờng hợp có thể gọi là du lịch văn hoá, đó là loại hình du lịch dựa trên
con ngời và phong cách sống của một xã hội.
Cũng cần lu ý thêm rằng, về khía cạnh văn hoá của di sản, còn một yếu tố
khác, đó là: Môi trờng thiên nhiên là khái niệm sử dụng trong du lịch và là trung
tâm điểm của du lịch sinh thái, các loại hình khác của du lịch dựa vào tự nhiên.
Trong phạm vi bài viết này, di sản chỉ đề cập đến yếu tố lịch sử, những gì liên
quan tới phạm vi di sản văn hoá.
3. Vị trí vai trò của du lịch văn hoá đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc.
a. Vị trí của du lịch văn hoá.
Theo thời gian lịch sử thời cổ đại và cận đại phơng Đông là nơi hấp dẫn
khách du lịch vì ở nơi đó có những thâm niên đến đắc cảnh sắc tự nhiên, các món
ăn phơng Đông rất hấp dẫn. Từ thập kỷ 70 trở lại đây, phơng Tây rất hấp dẫn đến
với khách du lịch vì nơi đây có nhiều di tích lịch sử và kỳ quan thế giới nh Cột
Đồng (ấn Độ), vờn treo Babilon,...
9
Trong giai đoạn hiện nay con ngời có xu hớng xa lánh nhịp sống ồn ào ở các
đô thị, sự ô nhiễm môi trờng, sự huỷ diệt của vùng do hậu quả chiến tranh và do
nạn phá rừng, việc chặt chẽ trong việc đầu t xây dựng tôn tạo các đô thị cổ, các di
tích lịch sử,... chính là một trở ngại đối với vấn đề bảo vệ môi trờng sinh thái nói
chung, ngành du lịch nói riêng. Vì vậy mà con ngời tìm đến du lịch văn hoá trở
về với quá khứ của mình.
Thu nhập từ nguồn du lịch văn hoá là khá ổn định và ngày càng cao vì hiện
nay dòng khách du lịch văn hoá trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
ngày càng tăng.
Trong giai đoạn hiện nay mỗi nớc đến tạo thế mạnh cho du lịch, tài nguyên
thiên nhiên, công trình văn hoá, di tích lịch sử tạo nên sản phẩm du lịch độc đáo.
Bởi vì, tác dụng của nó là nguồn khách của các công ty lữ hành, làm dịch vụ bổ
sung để kéo dài thời gian lu lại của khách trong các khách sạn. Vì thế trong quản
lý không thể không coi trọng du lịch văn hoá.
Khi chúng ta nghiên cứu du lịch văn hoá chính là bàn tới bài toán kinh tế:
gây dựng và phát triển văn hoá bằng những thu thập từ du lịch mà thu nhập từ
nguồn du lịch văn hoá là khá ổn định và ngày càng cao. Muốn đầu t cho du lịch
phải đàu t cho văn hoá, bởi vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện
tầm cao và chiều sâu trình độ phát triển của một dân tộc, là khát vọng muôn đời
của nhân loại hớng tới cái chân, thiện mỹ. Văn hoá không nằm ngoài lệ sự phát
triển mà chính là nỗ lực bên trong của sự phát triển, cho nên sự phát triển xã hội
nói chung và sự phát triển du lịch, du lịch văn hoá nói riêng không tách rời khỏi
văn hoá.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ VII BCH TW Đảng khoá VII ngày
25/7/1994 Tổng bí th Đỗ Mời đã nói Ngày nay văn hoá đợc coi là một yếu tố nội
sinh, không phải chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của sự phát triển. Phát triển
kinh tế xã hội phải đặt trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH hiện nay, vấn
đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đờng lối văn hoá của Đảng
ta. Bởi vì nói đến văn hoá là nói đến dân tộc. Nớc Việt Nam ta đã trải qua hàng
ngàn năm sinh tử trong gian truân, vất vả, nhân dân các dân tộc đã sáng tạo, nâng
cao, bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc, đền, chùa, miếu mạo của
các thiên tài kỳ vĩ nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng, Nguyên Gia
10
Thiều, Đoàn Thị Điểm,... làm nên diện mạo nền văn hoá, nền văn hoá Việt Nam.
Từ mái nhà rồng đến chiếc khèn HMông hay điệu múa Cà Tu núi rừng,... đều là
di sản văn hoá dân tộc, đó là những tài sản quốc gia, cũng là một trong những tiềm
năng của du lịch ngày nay. Do vậy mà chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hoá dân tộc đúng nh trong diễn văn khai mạc Thập kỷ Quốc tế phát
triển văn hoá 1900-2000, ông Federigo Mayor, Tổng th ký UNESCO đã nói: Cần
phải giữ gìn cho đợc mọi giá trị văn hoá dân tộc, một cộng đồng ngời, thậm chí
của một cá thể là những điều không thể thay đợc.
Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch nh du lịch hoài
cổ, du lịch tìm cái mới, du lịch tìm hiểu phong tục nhng du lịch kiểu nào, ở đâu,
đến nớc nghèo hay nớc công nghiệp phát triển, du lịch bao giờ cũng gắn liền với
văn hoá, với bản sắc của mỗi quốc gia luôn đầy ắp giá trị. Vì văn hoá là yếu tố
tiềm ẩn hoá thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trớc hết là hoạt động
nhằm đi tìm cái giá trị văn hoá dân tộc văn hoá nhân loại để thởng thức, khám phá,
hởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch không thể tự mình phát
triển đợc nếu không dựa trên một nền tảng văn hoá và ngợc lại, nhờ có du lịch mà
các dân tộc hiểu biết đợc những thành tựu rực rỡ của nền văn hoá nhân loại, tạo ra
những điều kiện cần thiết cho sự xích lại gần nhau giữa các nền văn hoá làm cho
các dân tộc ngày càng hiểu biết nhau hơn, nhng du lịch không chỉ dừng lại ở sự th-
ởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên, ngắm nhìn các công trình văn hoá, tìm heieủ các
di tích lịch sử để cảm thụ mà du lịch còn là một hoạt động khám phá sáng tạo
them qui luật của cái đẹp.
Du lịch văn hoá là hai khái niệm khác nhau nhng lại đồng nhất trong mỗi
khát vọng của mỗi con ngời. Lịch sử phát triển du lịch từ xa đến nay đã cho thấy,
nhờ du lịch mà con ngời đã khám phá ra nhiều điều mới mẻ và đã chuyển hoá khá
nhiều giá trị văn hoá thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Nh vậy, du lịch là một nhu
cầu không thể thiếu đợc cùng con ngời trong quá trình hiểu biết để hởng thụ và
sáng tạo. Sự đóng góp cho quá trình tăng trởng kinh tế cho sự phát triển nguồn thu
từ du lịch có nguyên nhân từ nhu cầu này - du lịch phát triển không tách rời nhu
cầu hiểu biết, khám phá, sáng tạo. Theo đặc trng của văn hoá trên cơ sở biết đánh
thức các giá trị văn hoá của dân tộc, biết xem các di sản văn hoá, di tích lịch sử,...
Cái thiên nhiên thứ hai đã đợc nhân hoá qua lao động sáng tạo của con ngời, là
cái vốn quý nhất, là tiềm năng vô giá của du lịch. Sự phát triển du lịch ở Hà Nội,
11
cũng nh Huế, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng,... là nhờ vào tiềm năng vô giá
đó.
Du lịch rất cần đến văn hoá và văn hoá không thể tách rời khỏi du lịch. Dựa
vào du lịch để giới thiệu về đất nớc, văn hoá, con ngời Việt Nam, hoạt động du
lịch là nơi góp phần nâng cao, đổi mới, mở rộng giao lu văn hoá. Vốn đầu t cho
văn hoá chính là đầu t vào du lịch, đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng, khách sạn,
dịch vụ giải trí. Cơ sở hạ tầng đó đảm bảo các đặc tính môi trờng sinh thái. Các
điểm du lịch có tầm nhìn chung của khu vực đông dân c và có những ấn tợng đặc
biệt, các sắc thái văn hoá thể hiện qua kiến trúc, rồi đến các sắc thái văn hoá thể
hiện qua vui chơi, giải trí, âm nhạc, múa, ăn uống phù hợp với bản sắc từng khu
vực.
b. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá.
Khi nói đến văn hoá du lịch không có nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa duy nhất
của sự phát triển văn hoá. Không nhận thức rõ điều này, thì vô tình sự phát triển
chỉ có thể thành công xét về góc độ kinh tế, còn sẽ thất bại về việc giữ gìn bản sắc
dân tộc, do sự tiếp xúc với du khách từ khắp năm châu đến Việt Nam.
Phát triển du lịch văn hoá là một định hớng đúng trong quá trình CNH, HĐ
đất nớc. Văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch và
du lịch văn hoá. Kinh nghiệm trên thế giới và nớc ta cho thấy cần phải thực hiện
đồng thời và đồng bộ nh: phải tạo ra môi trờng văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà
bản sắc dân tộc, làm sống lại các giá trị văn hoá truyền thống, giữ vững sự ổn định
chính trị và an ninh xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên làm đối tợng tốt,
nhằm tạo ra sức hấp dẫn khách thập phơng.
Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và
truyền thống dân tộc. Nhng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản, là những giá
trị hữu hình và vô hình. Cái gọi là tài sản vô hình đó chính là sự chuyển hoá các
năng lực tinh thần của con ngời vào hoạt động kinh doanh, đó chính là văn hoá.
Tài sản vô hình trong du lịch bao gồm các yếu tố chính nh: thông tin và khoa học -
kỹ thuật trong du lịch, tổ chức bộ máy và nghệ thuật quản lý du lịch, sự tín nhiệm
của khách hàng đối với công ty và sản phẩm và những đặc sản của mỗi vùng, mỗi
miền. Văn hoá du lịch bền bỉ tích góp, thu nhập, gạn lọc muôn vàn tinh hoa từ
muôn nẻo không ngừng chuyển tải, giao lu, biến đổi và nâng cao để góp phần vào
sự giàu có và cờng thịnh về nền văn hoá, kinh tế - xã hội của dân tộc - của đất nớc.
12
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết sức
quan trọng, nó góp phần thúc đẩy cho du lịch vơn lên tạo đà cho du lịch ngày một
phát triển, đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nó có hiệu quả là
càng tăng giá trị văn hoá - văn minh, bản sắc dân tộc thì hiệu quả kinh doanh du
lịch càng cao. Nhận biết đợc vấn đề đó các nhà kinh doanh du lịch, các nhà quản
lý kinh tế phải không ngừng những kiểm tra, ngăn chặn những mặt phi văn hoá
bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là xây dựng, tạo ra
để hấp dẫn từ bản sắc, thuần - phong - mỹ - tục dân tộc, bảo tồn, nâng cấp các di
tích lịch sử văn hoá, kiến trúc.
II. Mối quan hệ giữa du lịch văn hoá trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1. Điều kiện để phát triển du lịch văn hoá.
Sự phát triển du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung đòi hỏi phải có
những điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan cần thiết nhất định.
13