Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bài tập lớn: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.33 KB, 16 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Bài Tập Lớn
Chủ đề: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “ Nước
độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ
ý nghĩa của luận điểm đối với thời kì đổi mới của
nước ta hiện nay.

Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên hướng dẫn:

Năm học 2016-2017


A. Lời Nói Đầu
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Cả cuộc đời Người
đã hi sinh vì nước vì dân, với hoài bão, lý tưởng lớn lao là độc lập cho dân
tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là
một lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân văn hóa thế giới và một nhà lý
luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ di sản về tư
tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trọng tâm và
được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt trong quá trình hoạt động thực tiễn của
cách mạng trong nước và trên thế giới.
Đã hơn bảy mươi năm kể từ ngày Bác đọc bản tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiền thân của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Giá trị của độc lập là vô cùng cao quý và không
có gì có thể so sánh được. Nhưng thành quả đích thực của điều vô giá đó


đem lại cho người dân là gì? Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “ Thư gửi Uỷ ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, trong thư
Người có nói: “ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Bác thật là sáng suốt khi đã xác định rõ con đường phát triển của dân tộc ta
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và để có thể tiến lên chủ
nghĩa xã hội, một yêu cầu được đặt ra là “độc lập dân tộc” phải đi đôi với “
tự do, hạnh phúc của nhân dân”. Luôn đi kèm với quốc hiệu Việt Nam kể
từ năm 1945 là dòng chữ “ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Sáu chữ đó luôn
là mong muốn tột bậc của Hồ Chủ Tịch, là mục tiêu cả cuộc đời của Người
và cũng là mục tiêu mà toàn dân tộc Việt Nam hướng đến.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung
cốt lõi nhất trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là tư tưởng chính trị đặc
sắc, xuyên suốt và bao trùm trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không
chỉ là vấn đề của quá khứ mà còn đóng vai trò như kim chỉ nam trong giai
đoạn hiện nay và tương lai.

2


B. Phân tích luận điểm
1. Một vài quan điểm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa
Mác-Lênin
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu
nước Việt Nam đương thời. Do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng,
bất cập trước lịch sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ
tư sản nên không tránh khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp
các phong trào yêu nước của nhân dân ta.

Từ đó, Hồ Chí Minh đã bắt đầu con đường đi tìm đường cứu nước. Trong
quá trình bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải
phóng dân tộc. Sự kiện đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác
ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng
sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự tiếp thu từ những học thuyết của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Sau nhiều năm bôn ba xa quê hương tìm đường cứu nước,
Nguời đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đến với tư tưởng Cách Mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại. Dưới đây là khái quát về quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Mác- Ăngghen đã nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc, quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, thái độ của
giai cấp công nhân và Đảng cộng sản đối với vấn đề dân tộc. Hai ông đã
chứng minh sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một
xã hội mới không còn chế độ người bóc lột người, đó là chủ nghĩa xã hội.
- Lý luận về cách mạng không ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc
đến tư tưởng của Hồ Chí Minh, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc
cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định của thành quả
cách mạng của giải phóng dân tộc.
- Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, đánh đổ giai cấp tư sản và
địa chủ phong kiến giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô Viết, là nhà
nước của người lao động; đã mở ra một con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội mới.
2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:

2.1, Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đây là tư tưởng chủ đạo chi phối đến sự nghiệp cách
mạng của Người. Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề đấu tranh giải
3


phóng các dân tộc thuộc địa, nhằm xóa bỏ sự thống trị của các nước khác,
giành độc lập cho dân tộc, nhằm thoát khỏi ách áp bức bóc lột và thành lập
nhà nước dân tộc độc lập. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của các dân tộc.
Hồ Chủ Tịch là một người hết sức trân trọng quyền con người, Người đã
tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Và từ quyền
con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa, Người đã khẳng định đầy rõng rạc: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể
hiện rõ trong các nội dung sau:
+ Thứ nhất, độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của
các dân tộc. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người
đã gửi bản Yêu sách gồm tám điểm đến Hội nghị VecXay, đòi tự do dân
chủ cho nhân dân An Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã vạch rõ nhiệm vụ đầu tiên của cách
mạng Việt Nam là: “ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn
phong kiến; làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập’’. Người chủ trì
Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) và chỉ rõ: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Trong bài Mười chính sách của
Việt Minh, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định mục tiêu đầu tiên của

cách mạng là: “ Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Đến khi thời cơ khởi
nghĩa đã đến, tháng 8-1945, Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho
độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ: “Dù hy sinh tới đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập”. Ngày 2/9/1945, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” và “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Những tư
tưởng đó đã tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất của thời đại: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do!".
+ Thứ hai, độc lập dân tộc thực sự phải gắn liền với chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, với bình đẳng dân tộc. Ở Việt Nam, độc lập dân tộc gắn
liền với sự toàn vẹn quốc gia, Bắc - Trung - Nam liền một dải, không thể
chia cắt. Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các
nước vào thời gian Cách mạng Tháng Tám. Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên
bố: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người đã trích dẫn lại Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng”,
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
4


quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do ” và Người gọi đó là lẽ phải
không ai chối cãi được.
+ Thứ ba là, độc lập phải đảm bảo cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi
người dân. Hồ Chí Minh đã từng viết: “Chúng ta đấu tranh giành được độc
lập rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự do đó chẳng có ý nghĩa gì,

dân chỉ biết giá trị của độc lập khi được ăn no, mặc ấm” . Vì vậy, đấu tranh
cho dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành là hoài bão, là lý tưởng, là ham muốn
tột bậc của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và thế
giới. Nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc được nâng lên
một trình độ mới, tầm cao mới. Đối với một dân tộc đang phải chịu cảnh
bùn đen nô lệ, người dân mất nước, thứ quý giá nhất là độc lập cho dân tộc,
tự do hạnh phúc cho nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước,
Bác đã lựa chọn độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là
con đường để đi đến “ tự do, hạnh phúc cho nhân dân”.
2.2, Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Hồ Chí Minh đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ yêu cầu thực tiễn của cách
mạng Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi
người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại nền cộng hoà thế giới
chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là
những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu
nhau và yêu thương nhau.”
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có quá trình phát triển lâu
dài, những nội dung cụ thể xác định chủ yếu như sau: Chủ nghĩa xã hội là
một phong trào lịch sử mang tính chính trị - xã hội; chủ nghĩa xã hội như là
một lý tưởng tốt đẹp mà loài người sẽ đạt tới; là hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân; là một chế độ xã hội đối lập hoàn toàn với chế độ tư bản chủ
nghĩa. Hồ Chủ Tịch đã nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động
tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, kinh
tế , chính tri, đạo đức văn hóa. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chủ yếu những
điểm sau khi nói về chủ nghĩa xã hội:

+ Thứ nhất, xem chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh và do nhân
dân làm chủ. Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi người
đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu
là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công-nông-trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội
chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của
toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
5


+ Thứ hai, chủ nghĩa xã hội được xem xét từ một số mặt nào đó như kinh
tế, chính trị, văn hoá... Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất.
Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta. Hồ Chí Minh cho rằng: “ Chủ
nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,vv làm của chung. Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên
trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”. Về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh
nêu chế độ sở hữu công cộng của chủ nghĩa xã hội và phân phối theo
nguyên tắc: làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã hội.
+ Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người, ai
cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công bằng, bình đẳng...
“là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”, “là đoàn kết, vui
khoẻ”. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
+ Thứ tư, xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải gắn với xây dựng nền kinh tế
phát triển cao, phát triển khoa học - kỹ thuật “nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân”, do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Thứ năm, chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo
đức. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng,
bình đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa

lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con
người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội:
- Mục tiêu cơ bản : đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân
dân; là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động. Đây là mục tiêu cao nhất.
- Về động lực của chủ nghĩa xã hội : Phát huy các nguồn lực về vật chất và
tinh thần cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội: vốn, khoa học công nghệ, con
người; trong đó lấy con người làm động lực quan trọng và quyết định. Nòng
cốt là công - nông - tri thức. Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích
của cả nhân dân và từng cá nhân. Người đã nhận thấy con người là động lực
quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, cần phải có sự kết hợp trên cả hai
phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy động lực của cộng đồng là phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết (động lực chủ yếu). Phát huy sức mạnh
của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền với lợi ích vật chất chính
đáng của họ.
Tóm lại, xã hội ngày càng đi lên, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng
tốt, đó là chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc,
ấm no cho nhân dân: “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần
được xoá bỏ; chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”. Hồ Chí
Minh cũng nhận định rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc
chiến đấu khổng lồ chống lại những gì là cũ kĩ, hư hỏng, để tạo ra những cái
mới mẻ, tốt tươi và đó thực sự là một quá trình phấn đấu đầy khó khăn, gian
khổ, lâu dài, dần dần, không thể nôn nóng.
6


2.3, Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:

“Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chủ Tịch được thể hiện ở tư duy sáng tạo của Người đối với
chủ nghĩa Mác- Lênin về tiến trình phát triển của cách mạng vô sản ở Việt
Nam . Đó cũng là nội dung chủ đạo, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Như Bác đã nói : “ Nước độc
lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập phải gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, vậy làm thế nào để dân ta được thực sự hưởng sự tự do, hạnh phúc đó?
Đó chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến
phương Bắc và gần một trăm năm nô dịch của chủ nghĩa thực dân thì khát
vọng cao nhất và cháy bỏng nhất đó chính là giành được độc lập dân tộc,
giải phóng dân tộc mình. Mong muốn dành được độc lập là mong muốn
cho dân ta khoát khỏi kiếp bùn đen nô lệ, biết bao xương máu đã đổ xuống
để dành được về hai chữ “độc lập” cho Tổ quốc. Người ở lại phải biết giữ
vững nền độc lập ấy và xây dựng, phát triển đất nước ngày càng vững
mạnh, thịnh vượng. Dân có ấm no hạnh phúc thì nước mới vững mạnh.
Con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, đó là sự lựa chọn vô cùng đúng đắn của Hồ Chí Minh, là
điều tất yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp
với xu thế của thời đại. Ta đi sâu vào phân tích mối quan hệ mật thiết đó:
+ Đầu tiên, độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề, là điều
kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai
giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống
thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt
lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải

phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và
Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám
(khóa I) 5-1941. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền
đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho
việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải
được thực hiện một cách triệt để. Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Để
tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, một đòi hỏi quan trọng có
ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng
bào 54 dân tộc đều là con dân của nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là
7


quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì
và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng
không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để tiến
lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc
của nhân dân.
+ Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là cơ sở để bảo vệ và phát huy những thành quả
đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thành quả của độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng, thống nhất mục tiêu trước mắt
cũng như lâu dài. Mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, hai mục tiêu ấy
quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không
thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng
mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì
vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội thì

chính chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển
thành quả của độc lập dân tộc. Theo Hồ Chủ Tịch, sau khi giành được độc
lập, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai
cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân
tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản
phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già,
đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc
nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và
kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày
một nâng cao. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ
những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế
chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các
dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài.
Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng “ bần
cùng lạc hậu” khó khăn hơn, " đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó
khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người
dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

C, Liên hệ thực tiễn trong thời kì đổi mới của nước ta hiện
nay.
Đã 71 năm kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, 41 năm dân tộc ta giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn toàn giành được độc lập. Việt

8


Nam đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng của Hồ
Chí Minh vẫn luôn là kim chỉ nam cho chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta.
Khi liên hệ câu nói của Bác thời đó: “ Nước độc lập mà người dân không
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” vào
tình hình hiện tại của nước ta hiện nay thì có thể thấy là nền độc lập dân tộc
nước ta đã giành được, Việt Nam là một nước hoàn toàn độc lập và có chủ
quyền riêng. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có nêu rõ: “ Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
Một nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuy trên bản đồ thế giới
không to lớn, đồ sộ nhưng đó cũng là bao nỗ lực, công sức của ông cha ta,
của những thế hệ đi trước dày công gây dựng, trải qua biết bao năm tháng
gian khổ, biết bao thế hệ người dân Việt Nam đã sẵn sàng hi sinh cả tính
mạng để đổi lấy, máu xương đã đổ xuống, mất mát đau thương là vô kể.
Nhưng sự hi sinh đó không phải là vô nghĩa bởi Việt Nam ta giờ đây đã là
một đất nước hoàn toàn độc lập, đang trên đà phát triển để sánh vai với các
cường quốc năm châu.
Các thế hệ đi sau, đặc biệt là thế hệ lớp trẻ hiện nay, chúng ta cần phải nỗ
lực học tập, trau dồi bản thân để cùng nhau chung tay bảo vệ giữ gìn và
phát huy nền độc lập của nước nhà. Thực tế qua biết bao nhiêu năm cho
thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không
giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, bóc lột của dân tộc
này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc, bình
đẳng công bằng của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã

hội xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng đó luôn được Đảng ta coi là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt và dựa
vào đó, Đảng đã lãnh đạo dân tộc ta giành được biết bao thắng lợi vẻ vang
trước quân địch toàn là các đế quốc thực dân lớn mạnh. Những chiến thắng
oanh liệt đã viết nên những trang sử hào hùng về một dân tộc Việt Nam anh
hùng. Trong sự nghiệp xây dựng nhà nước chủ nghĩa xã hội, đất nước ta
đón nhận những thời cơ, cơ hội mới đồng thời cũng phải đương đầu với
những thách thức mà thời đại đặt ra, buộc Đảng ta phải trưởng thành hơn
mỗi ngày để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo và bản thân mỗi người dân Việt
Nam chúng ta phải ra sức rèn luyện bản thân để cùng nhau xây dựng và
phát triển đất nước. Thế hệ trẻ hiện nay, những người nối dõi thế hệ đi
trước trong công cuộc Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đầu tiên phải một lòng
trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng, kiên định lập trường cách
mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
hoàn thành nhiệm vụ: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
9


Độc lập dân tộc chúng ta đã có, vậy dân ta đã được hưởng tự do, hạnh phúc
chưa? Với dân số năm 2016 đã hơn 93 triệu người cùng với quan điểm về
sự tự do, hạnh phúc của mỗi người là khác nhau nên khó có thể khẳng định
chắc nịch một câu rằng dân ta đã thực sự tự do, hạnh phúc hay là chưa.
Nhưng ta có thể khẳng định rằng đời sống của nhân dân ta đã có những
chuyển biến rõ rệt theo chiều hướng tích cực kể từ khi giành được độc lập,
nhà nước ta đã cố gắng làm mọi điều để nhân dân được hưởng tự do, ấm no
hạnh phúc. Vấn đề tự do, hạnh phúc ngày càng được quan tâm đến hơn
trong thời kì hiện nay khi mà đời sống người dân ngày càng được nâng cao.
Hạnh phúc là gì? Quan điểm về hạnh phúc của mỗi người là khác nhau,
trong mỗi giai đoạn, thời gian là khác nhau. Nói khái quát, hạnh phúc là

một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn nhu cầu nào đó
mang tính trừu tượng. Trong hoàn cảnh khó khăn nghèo đói, người dân
cảm thấy hạnh phúc đơn giản là được ăn no, mặc ấm, được thoả mãn những
nhu cầu đơn giản nhất của con người. Nhưng khi những nhu cầu cơ bản đó
đã đạt được, hạnh phúc lại có một yêu cầu cao hơn như được sống trong
một xã hội lành mạnh, được học hỏi tri thức, được chữa khỏi bệnh tật, có
một gia đình ấm êm hay cao hơn nữa là được ăn ngon, mặc đẹp. Tuy nhiên,
điều kiện cơ bản để nhân dân cảm thấy hạnh phúc trước tiên vẫn phải là họ
thoả mãn những nhu cầu sinh lý cơ bản nhất để tồn tại (ăn, ngủ, mặc). Còn
tự do là gì? Tự do hiểu đơn giản là không bị ép buộc, tự do là có quyền tự ý
quyết định những vấn đề liên quan đến chính bản thân mình. Một người có
tự do hoàn toàn, nghĩa là họ không bị hạn chế trong tư tưởng, ngôn ngữ và
hành động. Họ cũng phải có phương tiện và cơ hội để nghĩ, nói và làm mà
không bị kiểm soát vô lí, bất công. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ
Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh
thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Nếu chỉ có tăng trưởng kinh tế, có thu
nhập cao hay được ăn sung mặc sướng thì chưa thể gọi là chủ nghĩa xã hội
mà chủ nghĩa xã hội phải là không ngừng nâng cao đời sống vật chất đồng
thời nâng cao đời sống tinh thần.
Vậy quan điểm “ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” trong thời
kì hiện nay có phù hợp với nước ta không? Thực tế đã chứng minh quan
điểm này vẫn luôn là lựa chọn chính xác của Bác, và luôn là bài học xuyên
suốt từ trước đây và kể cả từ nay về sau. Luôn kiên định và làm theo quan
điểm trên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, đảm
bảo cho nhân dân được tự do, hạnh phúc.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đang trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo sự khái quát
của Đảng, thời kì quá độ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới. Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất

nước, cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trường. Ba mươi năm đổi mới là một chặng đường lịch sử quan trọng
trong sự nghiệp phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Đổi mới
mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
10


diện, là sự nghiệp cách mạng to lớn của nhân dân Việt Nam vì “một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Đã trải
qua hai mươi lăm năm đất nước thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Vệt Nam đã gặt hái được những
thành tựu to lớn hết sức quan trọng trên các mặt của đời sống, kinh tế, xã
hội. Thực hiện đường lối đổi mới với mô hình kinh tế là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế, tạo được các tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.
- Về kinh tế :
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt
tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi
mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt
4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất
ấn tượng. Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so
với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, dù cùng chịu tác
động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn bình quân
tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn
2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân 6,32%/năm. Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc
độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại
nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Đồng thời, quy
mô của nền kinh tế cũng tăng nhanh. Năm 2003, GDP bình quân đầu người ở

Việt Nam mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, GDP bình quân đầu
người năm 2015 ước tính đạt 2109 USD, tương đương 45,7 triệu đồng; quy
mô nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 4192,9 nghìn tỷ đồng.
( Số liệu trên được trích từ bài viết của Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Giáo
sư-tiến sỹ Vương Đình Huệ về“Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh
tế của Việt Nam qua 30 năm đổi mới”)
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng
tăng trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được
nâng lên. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát cũng được kiểm soát. Đặc
biệt phải nói đến, Việt Nam đã làm nên cuộc cách mạng thần kỳ, đưa một
nước từ chỗ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới.
Bên cạnh sự phát triển kinh tế đó, các quyền tự do trong kinh tế cũng được
nhà nước hết sức chú trọng như quyền tự do của người sản xuất trong kinh
doanh, quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng, tự do lựa chọn công việc
của người lao động và người thuê cũng có quyền tuyển dụng những người
lao động phù hợp. Một nền kinh tế thị trường đầy đủ đòi hỏi phải có một hệ
thống pháp lý và cơ quan thực thi hiệu quả các quyền về sở hữu và tạo
hành lang pháp lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiến pháp của
nước ta đã được sửa đổi, bổ sung thể hiện rõ sự tồn tại và phát triển của nền
11


kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Sự thể
chế hoá các chủ trương trên bằng việc ra đời nhiều bộ luật quan trọng như:
Luật Thuế; Luật Phá sản; Luật Đất Đai; Luật Lao Động cùng với các nghị
định khác của Chính phủ giúp cho việc hướng dẫn thực thi pháp luật.
- Về chính trị :
Các quyền tự do cơ bản của người dân được quy định cụ thể trong Hiến
pháp 2013 và các văn bản pháp luật : các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; “mọi người có quyền sống,

tính mạng con người được pháp luật bảo hộ”, “mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,…”. Trong thời kì
đổi mới, nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong việc đảm bảo
quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Người dân Việt Nam được tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bên
cạnh đó, quyền làm chủ cũng được khẳng định rõ, Hiến pháp 2013 nêu rõ:
“ Nhà nước CHXNCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, “ Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân,…thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
- Về các lĩnh vực đời sống xã hội
+ Lao động và việc làm:
Trong quá trình đổi mới, vấn đề việc làm ở nước ta đã từng bước được giải
quyết. Trong 5 năm (2006 - 2010), Việt Nam đã giải quyết việc làm cho
trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, hộ
nghèo giảm còn 9,5%. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra mục
tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình
quân 2%/năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%... Phát triển đa dạng các
ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận lợi
để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời
có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”. Yêu cầu bảo đảm đối
xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện
đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động,... Người
lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao
động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi
trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp. Nhà nước cùng các
doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao, trình độ lành
nghề, trình độ văn hoá đối với lao động trẻ, khoẻ, nhất là ở khu vực nông
thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đi đôi với tăng

trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và tiến bộ
xã hội trong quá trình phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước, hạn
chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Thực hiện chủ trương đó,
trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Số liệu điều tra hộ gia đình năm 2010
với tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 9,5% so với 30% năm 1992. Ước tính, trong gần
hai thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm nghèo cho hơn 20,5% dân số.
12


+ Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ:
Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia đưa ra kết quả khảo sát về tình trạng dinh
dưỡng của trẻ em Việt Nam trong 8 năm qua (từ 2007 đến năm 2014): tỉ lệ
bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 21,2%
xuống còn 14,5%. Tỉ lệ thấp còi cũng giảm từ 33,9% xuống còn 24,9%.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, tuổi thọ của người Việt Nam
trong những thập kỷ qua liên tục tăng, nếu năm 1960 tuổi đời của người
Việt trung bình chỉ đạt 40 năm (thế giới là 48 năm) thì đến nay tuổi thọ của
người Việt đã tăng lên 73,2 vượt tuổi thọ trung bình của thế giới (trung
bình thế giới là 69 tuổi). Tính đến nay có xấp xỉ 71% người dân Việt Nam
có thẻ BHYT. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng khác cũng được nâng lên.
Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế có xu hướng phục vụ sự phát triển
của con người.
+ Về công tác giáo dục: Giáo dục ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh.
Để đất nước phát triển vững mạnh đòi hỏi một nền giáo dục tốt. Năm 2000,
cả nước đã đạt chuẩn quốc gia xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học. ). Sơ kết 3 năm (2013-2015) thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập :
tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi 15-50 toàn quốc là 97,3%, trong độ tuổi 15-35
là 98,5% , kết quả học tập nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cũng đạt
được những thành tích đáng kể. Trong số những người đang theo học ở các

trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người đang theo học trình độ
sơ cấp là 1,7%, trung cấp 20,5%, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là
53,3%. Nhiều học sinh, sinh viên Việt Nam đã giành được thành tích cao
trong các cuộc thi mang tầm cỡ thế giới.
+ Vấn đề bình đẳng giới cũng đã được cải thiện đáng kể, sự phân biệt trai,
gái dần được xoá mờ. Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định: “ Công dân nam,
nữ bình đẳng về mọi mặt,…nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Hiện
nay, phụ nữ cũng đã đảm nhận nhiều vai trò quan trọng trong xã hội, đặc
biệt phải nói đến Chủ tịch Quốc hội nước ta hiện nay là bà Nguyễn Thị
Kim Ngân.
Bên cạnh những điểm tốt đẹp, thành tựu Việt Nam đã đạt được trên con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu hạnh phúc tự do cho nhân
dân, nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập trong công tác lãnh đạo,
quản lý Nhà nước, trong đời sống xã hội, đó là những thách thức không thể
tránh được, đòi hỏi nước ta phải có đường lối chính sách đúng đắn, tiếp tục
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, có những biện pháp kịp
thời và hiệu quả.
Trong thời kì hiện nay, tuy nước ta đã giành được độc lập dân tộc nhưng
trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ta vẫn không được lơi là công
tác bảo vệ nền độc lập dân tộc, giành sự quan tâm đặc biệt cho quốc phòng,
an ninh, “ công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng
nền quốc phòng toàn dân”. Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ vẫn luôn là
điều kiện quan trọng nếu muốn dân ta được hưởng tự do, hạnh phúc.
13


Lời kết
Đã 47 năm kể từ ngày Bác mất, Bác ra đi trong lòng vẫn canh cánh nỗi lo
khi đất nước vẫn chưa được thống nhất, khi bọn đế quốc vẫn đang hoành
hành trên đất nước ta; nhưng những gì Bác đã cống hiến và để lại cho dân

tộc ta đã là quá lớn lao và vĩ đại. Người xứng đáng với tên gọi: “ Anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới”. Con dân Việt Nam muôn
đời ghi nhớ công ơn Bác Hồ. Đặc biệt, những tư tưởng Hồ Chí Minh để lại
cho nhân loại là những tài sản vô cùng quý giá, tư tưởng của Người như
ngọn đèn soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực
hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đất nước Việt Nam hiện nay đang trên đà phát triển vững mạnh, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao. Bài học đầu tiên sau 30 năm đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định là: “Nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau”. “ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh
phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, câu nói vừa thể hiện sâu
sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh, vừa thể hiện tâm tư tình cảm sâu đậm của
Người dành cho đất nước Việt Nam, cho người dân Việt Nam. Thế hệ
người Việt Nam ngày nay và mai sau cần phải học tập và làm theo tấm
gương Hồ Chí Minh, nỗ lực rèn luyện để xây dựng đất nước chủ nghĩa xã
hội vững mạnh và phát triển.

14


Tài liệu tham khảo
1, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh ( nxb Chính trị quốc gia)
2, Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.1
3, Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.3
4, Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.10

5, Bài viết “Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế của Việt Nam
qua 30 năm đổi mới” của Giáo sư-Tiến sỹ Vương Đình Huệ (Trưởng ban
Kinh tế Trung ương)

15


Mục lục
Nội dung

Trang
1

A.Lời nói đầu
B. Phân tích luận điểm
1. Một vài quan điểm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
của chủ nghĩa Mác-Lênin
2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội

2

C. Lời kết

13

Tài liệu tham khảo

14


16



×