Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn xét xử quân khu 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐỨC ANH

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN QUÂN KHU 4

Chuyên ngành

: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60. 38. 01. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH

7

TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa

7

hình sự sơ thẩm
1.2 Quy định của pháp luật về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên

14

tòa hình sự sơ thẩm
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM

31

SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM Ở QUÂN KHU 4
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Quân khu 4

31


2.2. Những kết quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm

36

sát quân sự Quân khu 4 tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế thiếu sót
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯƠNG

41
49

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN QUÂN KHU 4
3.1 Yêu cầu bảo đảm tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền

49

công tố tại phiên tòa xét xử án hính sự.
3.2 Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên

50

thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử hình sự ở Quân khu 4
KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TA

Tòa án

TAND


Tòa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSQS

Viện kiểm sát quân sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSQK

Viện kiểm sát quân sự quân khu



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:Số liệu các hành vi có dấu hiệu tội phạm liên quan đến Quân đội do
Viện kiểm sát quân sự Quân khu 4 nắm và quản lý. ..................................................... 34
Bảng 2.2 Số lượng vụ án Tòa án quân sự Quân khu 4 đã xét xử và tỷ lệ số vụ
Tòa án chấp thuận quan điểm của VKS (2011-2015). .................................................. 37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một trong những nội dung có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu đảm bảo tính công bằng dân
chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ
án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận 79KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trọng của tranh tụng trong xét
xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp, là
khâu đột phá của cải cách tư pháp.
“Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị
quyết 08– NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “… nâng cao chất
lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật
sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…” và nghị quyết 49–
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 tiếp tục khẳng định “ Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” là những định hướng
và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề tranh tụng trong hoạt
động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố,
mở rộng yếu tố tranh tụng … và vì vậy, tranh tụng được xác định là một trong
những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp.

Qua thực tiễn cho thấy nhiều Kiểm sát viên đã thực hiện rất tốt vai trò trước
và trong khi tham gia phiên tòa, bình tĩnh, tự tin trong đối đáp tranh luận, thể hiện
được bản lĩnh của người thực hành quyền công tố nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh đó
cần phải nhìn nhận rằng Kiểm sát viên của các Viện kiểm sát nói chung và Viện
kiểm sát quân khu 4 nói riêng khi tranh tụng còn có nhiều thiếu sót, chất lượng và

1


hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp. Một số
Kiểm sát viên khi tranh luận với luật sư và bị cáo chưa có sức thuyết phục, còn né
tránh, ngại tranh luận, thậm chí khi “bí” thì chỉ nêu “giữ nguyên quan điểm truy tố”.
Một số Kiểm sát viên khi tranh luận không phản bác được quan điểm phản biện của
luật sư, bị cáo, không có sức thuyết phục Hội đồng xét xử; có Kiểm sát viên còn
lúng túng trong sử dụng từ ngữ và cách lập luận dẫn tới hiệu quả tranh luận không
cao. Phong cách, thái độ của một số Kiểm sát viên khi tranh luận còn tỏ ra thiếu
bình tĩnh, dẫn đến hạn chế khả năng tranh luận, làm giảm hiệu quả công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật tại phiên tòa nhất là ở các phiên tòa.
Từ thực trạng trên đặt ra việc tiếp tục nghiên cứu vần đề này về cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn tranh tụng tại địa bàn Quân khu 4 hiện nay nhằm
đưa ra một số giải pháp nâng cao hiểu quả hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm nói chung và phiên tòa hình sự sơ thẩm của Quân khu 4 nói riêng là
hết sức cần thiết bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật.
Do vậy, tác giả chọn đề tài "Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm từ thực tiễn xét xử Quân khu 4" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tố tụng hình sự, tranh tụng giữa các chủ thể có liên quan trong quá
trình xử lý tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề không phải mới trong khoa
học pháp lý và được ghi nhận thành nguyên tắc của tố tụng hình sự và áp dụng phổ
biến hầu hết các nước trên thế giới. Ở nước ta, tranh tụng chưa được quy định là

một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luận Tố tụng hình sự hiện hành. Quan
điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể chế hóa ở Hiến
pháp 2013. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm”.
Vì vậy, vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo tranh tụng dân chủ
giữa các chủ thể mà trong đó có vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
thể hiện năng lực tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự cũng đang thu hút sự

2


chú ý của các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu. Có những công trình và đề tài khoa
học về lĩnh vực này, trong đó đáng chú ý như:
* Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “ Vấn đề tranh tụng trong tố
tụng hình sự” – năm 1996. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự cần thiết
trong hoạt động tranh tụng, đáp ứng yêu cầu trong quan hệ tố tụng tại phiên tòa xét
xử hình sự.
* Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “ Thực hiện pháp
luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện
nay” – năm 2005. Qua nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các khái niệm tranh
tụng; vai trò, đặc điểm của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự
từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở
nước ta hiện nay.
* Luận văn Thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở
Việt Nam hiện nay” – năm 2007. Nội dung của luận văn đã phân tích và đánh giá
một cách hệ thống cơ sở lý luận năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên; các tiêu chí
đánh giá và thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các
giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay;
* Luận văn Thạc sỹ luật học của Đặng Hoàng Tú "Tranh tụng của kiểm sát
viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai,
Hà Nội" - 2015. Nội dung của luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất,
nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong việc
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Tòa án nhân dân Quận
Hoàng Mai qua đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu qua tranh tụng tại phiên tòa của
Kiểm sát viên.
* Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố

3


ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” – năm 1999, đã tập hợp những nghiên cứu so
sánh những vấn đề lịch sử và thực tiễn của chế định quyền công tố trong tư pháp
hình sự trên thế giới, cũng như việc phân tích khoa học các đặc điểm chủ yếu của
mỗi chức năng của quyền công tố trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra
khái niệm khoa học về quyền công tố nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam.
* Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường đào tạo các chức danh Tư pháp – Bộ
Tư pháp “Tranh tụng tại phiên tòa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn ” – năm
2003. Nội dung của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại
phiên tòa; đánh giá thực trạng thực hiện tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm mở rộng
tranh tụng tại phiên tòa nhằm định hướng cho việc xây dựng và thực hiện các
chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước ta.
* Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa ” – năm 2004. Nội
dung chỉ ra một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương pháp
so sánh với hệ thống tố tụng hình sự thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật Tố

tụng hình sự cần sữa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
* “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu,
Nxb Tư pháp, năm 2007. Đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp
luật, về các trình tự, nội dung liên quan việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và qua
các ví dụ minh họa đã nêu được những tồn tại, thiếu sót của Kiểm sát viên trong
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
* Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Chuyên đề
tranh tụng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên
trong xét xử hinh sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" - năm 2014. Nội dung của
đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa; đánh giá thực
trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa và đề ra giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.

4


Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên nghành về các
vấn đề có liên quan đến tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa…
Qua nghiên cứ các công trình nêu trên thấy rằng từ thực trạng hoạt động
tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự đặt ra việc tiếp tục nghiên cứu có
hệ thống, toàn diện, đầy đủ hơn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, qua đó đề xuât một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tòa hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn
tồn tại trong việc tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của
Tòa án quân sự khu vực 1, Quân khu 4, nguyên nhân của những bất cập và đề xuất

những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của
kiểm sát viên nhằm đảm bảo phiên tòa hình sự thể hiện đầy đủ tính dân chủ, bình
đẳng, khách quan, công khai và qua đó, Hội đồng xét xử ra quyết định, bản án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật; góp phần hoàn thiện các quy định về tranh tụng
của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện cải cách tư pháp, lấy “xét xử là hoạt động
trung tâm” theo tinh thần của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị
(Khóa IX).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm bảo tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và thực tế thực
hiện ở Quân khu 4.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát Quân khu 4, luận
văn nghiên cứu vấn đề về tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại

5


phiên tòa hình sự sơ thẩm ở địa bàn Quân khu 4. Về thời gian nghiên cứu, luận văn
chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề có liên quan đến đề tài trong khoảng thời
gian từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiển,
phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, còn sử dụng
một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp so sánh,
thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ sở
tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí đánh giá
năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử
án hình. Luận văn cũng có thể sử dụng nghiên cứu, tham khảo “đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng ...” theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị
quyết 49 Bộ chính trị (Khóa IX).
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được trình bày thành 3 chương. Gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tranh trụng của KSV tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm
Chương 2: Thực trạng hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm ở Quân khu 4
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát
viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Quân khu 4

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG CỦA
KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm
1.1.1. Khái niêm tranh tụng của Kiểm sát viên
Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội
loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy lạp cổ đại. Ở thời đấy,
nguyên cáo bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước tòa án. Sau đó
nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”.Cùng với thời gian,

tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định và đến
nay nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ
thống luật án lệ.
Cho đến nay, tranh tụng trong TTHS không còn là vấn đề mới, song lại là
vấn đề gây nhiều tranh cãi với nhiều cách hiểu khác nhau. Mặc dù hiểu theo cách
nào hoặc lý giải theo mô hình tranh tụng nào đi nữa thì các nhà nghiên cứu cũng
luôn khẳng định và thừa nhận vấn đề tranh trụng là vấn đề hết sức quan trọng trong
hoạt động tố tụng[35,tr20]. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu
tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh
tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa
ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Trong một số tài liệu, thường người ta
thường đề cập đến hệ thống tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh
tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy
về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong đó tố tụng hình sự (bên
buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là
trung tâm, là chính. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là
tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra trong một
quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh

7


tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội
(công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là
người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp,
lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Và điều
đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo có thể bất
chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một
“chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên
giành được phần thắng.

Có thể hiểu hệ thống tranh tụng là một hệ thống pháp luật tố tụng, trong đó
tòa án không tham gia tích cực vào việc tìm kiếm sự thật của vụ án mà chỉ giữ vai
trò trung gian, trọng tài cho “cuộc đấu” giữa bên buộc tội (Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát) và bên bị buộc tội (Luật sư bào chữa và thân chủ của họ) trên con đường
tìm công lý. Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các bên tham
gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc
thu nhập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản
bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những
hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng,
nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên
kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài.
Tố tụng tranh tụng thường được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia theo truyền
thống án lệ như Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác chịu ảnh hưởng của truyền
thống pháp luật Anh - Mỹ.
Mặc dù được sử dụng ở nhiều quốc gia, nhưng không phải ở quốc gia nào tố
tụng tranh tụng cũng giống nhau. Qua tìm hiểu hệ thống tố tụng hay tranh tụng, có
thể hiểu khái niệm về chế định tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau: “Chế định
tranh tụng trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận các
nguyên tắc tranh tụng, trình tự thủ tục thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, xác định
trách nhiệm của các chủ thể tranh tụng và các chế tài xử lý vi phạm thể hiện bản
chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự, chi phối và định hướng mọi hoạt

8


động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cho quá
trình xét xử công bằng, minh bạch và công khai, quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên được pháp luật công nhận và bảo vệ đồng thời xác định trách nhiệm của các bên
tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá
trình tham gia tố tụng”.

Ở Việt nam, trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh
luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố
tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương
“Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng
dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác....[2]
Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng
tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[3].
Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường
xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực
sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và
các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động
nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Chúng ta có thể nhận xét tranh tụng trên các bình diện dưới đây:
Về mặt lập pháp: khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận hoặc
giải thích trong các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta được ban hành từ năm
1945 đến 2012.
Về mặt ngôn ngữ: theo Đại từ điển tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có
nghĩa là “kiện tụng”; còn theo Hán-Việt tự điển thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ,
cãi nhau để tranh lấy phải”[9]. Trong tiếng Anh, tranh tụng là "Adversarial", có
nghĩa là đối kháng, đương đầu. Tranh tụng diễn ra trong lĩnh vực khác nhau như

9


tranh tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính, kinh doanh
thương mại, lao động...
Theo cách giải thích này, thì tranh tụng chính là quá trình giải quyết vụ kiện

dân sự theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và chứng
minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong phạm vi luận văn này
tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong TTHS.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV
trong xét xử hình sự, các quy định của BLTTHS và quy định của Hiến pháp 2013,
có thể hiểu về tranh tụng của kiểm sát viên như sau:
Tranh tụng của của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự là hoạt động của
Kiểm sát viên dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, lập
luận, tài liệu phản bác chứng cứ, lập luận của đối phương để bảo vệ quan điểm truy
tố, nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm đề xuất của mình, góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu về bản chất, quá trình tranh tụng tại phiên
toà là cuộc điều tra và tranh luận công khai giữa hai bên nhằm xác định sự thật
khách quan làm cơ sở để Toà án ra phán quyết về vụ án cho nên bản chất của tranh
tụng có thể được hiểu như sau:
- Tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa là cơ sở vận hành của Tố tụng
hình sự, tranh tụng là một trong những hoạt động của tố tụng hình sự, cho nên việc
hoạt động tranh tụng phải tuân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là điều tiên
quyết. Chủ thể của tranh tụng bao gồm Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng
khác, có xuất pháp từ những vị trí pháp lý khác nhau nhưng các chủ thể đều bình
đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải
quyết vụ án.
- Trong hoạt động tranh tụng Kiểm sát viên có thể tranh tụng với người bào
chữa, với bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự
thuật khách quan của vụ án.
- Chủ tọa phiên tòa giữ vai trò trọng tài trung lập và có trách nhiệm bảo đảm

10



các điều kiện cần thiết để các bên buộc tội và bào chữa thực hiện chức năng của
mình; là người điều khiển hoạt động tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu
các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm dứt hoạt động tranh tụng, điều chỉnh nội
dung cũng như phương pháp tranh tụng cho phù hợp với quy định của pháp luật và
sự cần thiết làm rõ các vấn đề của vụ án.
- Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm của các bên đưa ra
trong việc giải quyết vụ án và với mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ
sự thật khách quan của vụ án. Sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã
diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý (dưới góc độ
đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và TTHS).
- Các chủ thể tiến hành tranh tụng bằng cách thức là các bên chủ thể tranh
tụng sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới đưa ra đã
được kiểm tra tại phiên tòa dựa trên các quy định định của pháp luật hiện hành để
làm rõ các đối tượng tranh tụng.
Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức; bản chất của tranh
tụng có các nội dung sau:
- Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên tranh
tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định quan điểm của
mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của các bên tranh tụng đối lập.
- Tranh tụng không chỉ là quyền, là trách nhiệm của các bên tham gia tranh
tụng mà còn là một phần sự thật khách quan của vụ án. Nói cách khác, tranh tụng
không chỉ là phương tiện để đạt được sự thật khách quan mà tranh tụng còn là một
phần của sự thật khách quan của vụ án. Chân lý về vụ án phải tìm thấy, có được
thông qua tranh tụng. Tất nhiên, thuộc tình này của tranh tụng là xét về nguyên tắc.
Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ để khẳng định lời nhận tội
của bị cáo là có cơ sở, tại phiên tòa không có những quan điểm xung đột thì không
phát sinh tranh tụng hoặc nếu có chỉ ở mức độ nhất định [36].
- KSV là chủ thể chính của tranh tụng. Tranh tụng vừa là quyền, vừa là trách
nhiệm của KSV. Mục đích của tranh tụng của KSV có mục đích trước mắt và mục


11


đích cuối cùng. KSV tranh tụng trước hết nhằm mục đích bảo vệ tính đúng đắn,
khách quan, tính hợp pháp và có căn cứ của quan điểm truy tố (thể hiện trong bản
cáo trạng). Nói cách khác, xuất phát điểm của tranh tụng của KSV với những người
tham gia tố tụng khác là nhằm bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy
tố. Tranh tụng của KSV suy cho cùng là nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án
(chân lý về vụ án). Khi tranh tụng, KSV xuất phát điểm là nhằm bảo vệ quan điểm truy
tố, do vậy các luận điểm, luận cứ và luận chứng là nhằm thực hiện mục đích này. Tuy
nhiên thông qua tranh tụng, KSV có thể phát hiện ra những nội dung bất hợp lý, thiếu
căn cứ hoặc không phù hợp pháp luật của quan điểm truy tố. Nếu đủ cơ sở, KSV sẽ xử
lý các tình huống phát sinh nói trên theo qui định của pháp luật TTHS; cụ thể như : Có
thể đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung; rút một phần hoặc toàn bộ quyết định
truy tố; chuyển tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi khung khoản truy tố phù hợp với thẩm
quyền xét xử của HĐXX (ở cấp sơ thẩm); hoặc đề nghị huỷ án sơ thẩm để điều tra
hoặc xét xử lại hoặc để đình chỉ tố tụng (ở cấp phúc thẩm).
- Hoạt động tranh tụng của KSV chủ yếu thực hiện tại phiên toà, tập trung ở
giai đoạn tranh luận. Tuy nhiên để tranh tụng tốt thì KSV phải thực hiện đầy đủ và
có chất lượng việc xét hỏi, vì xét hỏi chính là để làm rõ các chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ quan điểm truy tố hoặc bảo vệ tính đúng đắn của bản
án sơ thẩm trước quan điểm kháng cáo (bản án sơ thẩm này phù hợp với quan điểm
truy tố của VKS). Nhìn chung, để đảm bảo tranh tụng có chất lượng tốt thì KSV
phải đáp ứng được các điều kiện bắt buộc để tranh tụng, phải thực hiện tốt nhiều
hoạt động mang tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà, phải có các kỹ
năng nghiệp vụ khi tham gia tranh tụng, có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm và
danh dự nghề nghiệp.
1.1.2 Đặc điểm tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, Đây là cuộc điều tra công khai với sự tham gia đầy đủ của các chủ
thể thuộc bên buộc tội, bên gỡ tội và những nguời tham gia tố tụng khác dưới sự

điều khiển của chủ toạ phiên toà và giám sát của Hội đồng xét xử. Tại đây các
chứng cứ, tài liệu về vụ án được các chủ thể của các bên và Hội đồng xét xử kiểm

12


tra, đánh giá công khai trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Thứ hai, Trong hoạt động tranh tụng luôn có sự bình đẳng của KSV thực
hành quyền công tố với bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Bình
đẳng ở đây là bình đẳng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố
tụng. Sự bình đẳng này không hẳn là sự bình đẳng thực tế về địa vị pháp lý cũng
như không có nghĩa là các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên bào chữa và
bên buộc tội thực hiện các chức năng khác nhau trong TTHS, nhất là tại phiên tòa,
sự bình đẳng này được hiểu là bình đẳng về phương diện tố tụng khi cả hai đều có
tư cách tố tụng là người tham gia phiên tòa, đều được pháp luật quy định có các
quyền ngang nhau để thực hiện hiệu quả các chức năng của mình.
Thứ ba, Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt, phức tạp và bị hạn chế về mặt không gian (chỉ có thể thực hiện tại
phiên toà) và thời gian (trong thời gian diễn ra phiên toà) do pháp luật quy định;
HĐXX phải có phương pháp điều hành hợp lý và tọa điều kiện cho việc tranh luận
đó tại phiên tòa, tranh việc thiên vị đối với bất kỳ bên nào. Cần xác định rằng vấn đề
cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là phải tạo ra cơ chế để các bên Nhà nước và bị
cáo cũng như Luật sư của họ tranh luận, đưa ra các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội. Do
đó, tranh luận tại phiên tòa là phần việc rất quan trọng, người bào chữa, bên bị buộc
tội và bên buộc tội có quyền tranh luận dân chủ, công khai và bình đẳng theo quy
định của Luật TTHS hiện hành. Tranh luận đòi hỏi KSV, Luật sư bào chữa, bị cáo,
bị hại và những người tham gia tố tụng khác phải đối đáp về từng vấn đề vấn đề một
cách rành mạch, rõ ràng, tránh việc tranh luận chung chung, không đi vào trọng tâm
nội dung chủ yếu của vụ án và KSV phải trả lời trực tiếp, không được né tránh nhằm
đảm bảo tính minh bạch trong tranh luận.

Thứ tư, Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, xác minh tại
phiên toà và quan điểm, kết quả tranh tụng về án của các bên về các vấn đề cần giải
quyết trong vụ án, Toà án xác định sự thật khách quan và ra phán quyết về vụ án
(bản án hoặc quyết định) của HĐXX. Phán quyết của Toà án là hình thức pháp lý
ghi nhận kết quả tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa về vụ án.

13


Phán quyết của HĐXX phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa dù
cho kết quả này có thể khác với toàn bộ hoặc một số chi tiết cụ thể trong kết luận
điều tra, trong bản cáo trạng truy tố. Trong quá trình xét xử tại phiên tòa hình sự
được tổ chức và thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phần tranh luận tại
phiên tòa thường thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng và quan tâm nhiều đến
vấn đề các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện pháp luật như thế nào đề
đảm bảo tính công minh của bản án trong quá trình tranh tụng và sẽ bị nghi ngờ, chê
trách nếu bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải, sửa và nhất là
bị hủy quá nhiều. Điều đó cũng chứng tỏ tranh tụng tại phiên tòa của cấp có án bị
hủy là chưa thực hiên tốt. Trên cơ sở tranh tụng, HĐXX xem xét những quan điểm
nào được coi là đúng đắn, hợp lý để ra phán quyết một cách khách quan dù có khác
biệt gì với kết luận điều tra, cáo trạng quy buộc tội trạng của VKS.
1.1.3 Ý nghĩa của tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung có ý nghĩa rất quan trọng
trong hoạt động tố tụng hình sự, là vấn đề có tính thời sự được xã hội quan tâm. Tranh
tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công
bằng giữa những người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, mà kết qủa tranh tụng tại
phiên tòa là căn cứ để Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án.
1.2. Quy định của pháp luật về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm

1.2.1 Quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Nguyên tắc là tư tưởng có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở cho những thiết chế
và hoạt động. Nguyên tắc trong một quan hệ pháp luật tố tụng là những tư tưởng
pháp lý làm nền tảng, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi pháp luật trong lĩnh
vực tố tụng đó.
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm” . Nội hàm của nguyên tắc tranh tụng có các nội dung cơ bản sau:

14


+ Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa KSV với những người
tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử;
+ Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ,
yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng trong đối
đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lần nhau.
+ KSV và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách
nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh thần tôn
trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử.
+Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận chứng của
các bên tranh tụng.
+Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của
pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng.
Tại khoản 5 điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “nguyên tắc tranh tụng trong
xét xét xử được đảm bảo”, đây là lần đầu tiên, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được ghi nhận thành một nguyên tắc trong Hiến pháp, đây là một trong những đổi
mới đang chú ý. Việc hiến định nguyên tắc tranh tụng mang nhiều ý nghĩa, cụ thể:
+ Từ trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được

quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn
đề này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012[4]. Pháp luật TTHS hiện hành cũng có
nhiều quy định chứa đựng nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyên
tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên
tắc xác định sự thật vụ án, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quy định về
quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy
định về tranh luân tại phiên tòa. Đặc biệt, Điều 222 BLTTHS năm 2003 quy định
"Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại

15


phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, bị
cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa"[23,Đ222].
Mặc dù vậy, các quy định trên có thiếu tính cụ thể, nhất là chưa có văn bản
pháp lý nào chính thức ghi nhận nguyên tắc bảo đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng
trên thực tiễn hoạt động chưa phát huy hiệu quả. Do vây, việc Hiến pháp quy định
cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn và
rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Quy định nguyên tắc
tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa được chủ trương của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp.
+ Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng, sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của
công dân trong quá trình thực hiện quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời
tực tiễn xét xử thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được
bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.
Quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Hiến pháp tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn trong công việc xét xử. Những quy định pháp
luật TTHS hiện hành đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả,
việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan,
+ Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy,
khi Hiến pháp quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng thì nhưng quy định trong
bộ luật, luật, các văn bản dưới luật phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống
nhất trong việc vận dụng pháp luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể
về phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Việc quy định nguyên
tắc tranh tụng trong Hiến pháp thật sự là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy
định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.
1.2.2. Những quy định của BLTTHS 2003 về tranh tụng của kiểm sát viên
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Nghiên cứu BLTTHS 2003 cho thấy tuy nguyên tắc tranh tụng chưa được ghi

16


nhận là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam, nhưng tinh thần của nó đã
được thể hiện ở một số điểu của BLTTHS 2003, là cơ sở pháp lý cho hoạt động
tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự.
*Về các nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
Để hoạt động tranh tụng được thực thi trong thực tế theo quy định của pháp
luật, BLTTHS tiếp tục ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam vốn
được xem là những nguyên tắc tiến bộ của mô hình tranh tụng. Đó là:
- Nguyên tắc "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật" [23, Đ9]. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
của người dân, tránh định kiến, suy diễn trong quá trình xác định sự thật khách quan
của vụ án. Nguyên tắc này đòi hỏi và yêu cầu bên buộc tội phải tham gia tranh tụng
nhằm đưa ra những lý lẽ, chứng cứ sự buộc tội của mình là có căn cứ. Nguyên tắc

này cũng xác định vài trò "trọng tài" của Tòa án, khẳng định chỉ có Tòa án mới có
quyền đưa ra phán quyết bằng bản án xác định có tội hay không có tội và áp dụng
hình phạt thích hợp.
- Nguyên tắc "Xét xử công khai" [23, Đ18]: Việc xét xử của Tòa án được tiến
hành công khai chính là một đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được
đảm bảo thực hiện. Giữ vai trò đại diện cho VKS, trước sự chứng kiến của công
chúng, KSV sẽ thực hiện tốt hơn trọng trách của mình trong việc bảo vệc cáo trạng.
Cuộc tranh luận chính thức và công khai cũng là động lực để các chứng năng buộc
tội và gỡ tội được thực hiện một cách tích cực nhất.
- Nguyên tắc "Bảo đảm quyền bào chữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo"
[23, Đ 11]: Thực hiện nguyên tắc này cũng chính là bảo đảm cho việc thực hiện
chức năng bào chữa – đối trọng với chức năng buộc tội trong TTHS. Hai chức năng
này không tồn tại song song mà nó còn đối lập và chế ước nhạu tạo ra một cơ chế
tranh tụng có hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự. Để bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa được thực hiện một cách tối đa,
Tòa án chỉ được xét xử vắng mặt bị cáo trọng một số trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 187 BLTTHS.

17


- Nguyên tắc "Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia“ [23, Đ16]: Sự
độc lập của thẩm phán là điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền được xét xử công bằng
của người dân. Nguyên tắc này là căn cứ để Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện quyền
tự do xét xử theo lương tâm và pháp luật, từ chối mọi sự can thiệp bên ngoài vào
công việc xét xử. Đồng thời, nó cũng thể hiện địa vị pháp lý độc lập của cơ quan tài
phán giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa trong TTHS.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án“ [23, Đ19 ]: Sự thật
của vụ án chỉ có thể được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ khi thẩm phán,
hội thẩm coi trọng mọi loại nguồn chứng cứ, mọi lập luận về các tình tiết của vụ án

cũng như mọi lập về dẫn chiếu quy định của pháp luật. Do đó, nguyên tắc này chính
là cơ sở pháp lý để các bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng bình đẳng, dân chủ tại
phiên tòa. Đồng thời, buộc Tòa án phải tôn trọng, tạo điều kiện để các bên thực hiện
quyền bình đẳng.
* Về các chủ thể thực hiện tranh tụng
Để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên
bào chữa tiếp tục được BLTTHS năm 2003 quy định những quyền và nghĩa vụ pháp
lý nhất định.
Điều 50 BLTTHS quy định bị cáo có quyền: được nhận quyết định đưa vụ án
ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết
định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo
quy định của Bộ luật này; quyền được tham gia phiên tòa; được giải thích về quyền
và nghĩa vụ.
Thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có quyền tham gia tố
tụng ngày từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người theo quy định tại
Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này. Bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận các quyền cơ
bản của người bào chữa, BLTTHS 2003 đã quy định khá nhiều các quyền mới cho
người bào chữa như: có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, xem các biên bản
về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và quyết định tố tụng liên quan đến

18


người mà mình bào chữa; để nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi
cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa; được khiếu nại hành vi tố tụng của người có quyền tiến
hành tố tụng;
Ngoài các quyền trên, BLTTHS 2003 cũng quy định người bào chữa có nghĩa
vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác

định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo; Người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị cáo
mà mình đã cảm nhận, nếu không có lý do chính đáng; không được tiết lộ bí mật mà
mình biết được trong khi làm nhiệm vụ...
Quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ
được quy định tại Điều 53 BLTTHS nhằm bảo đảm cho họ có thể bảo vệ được các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. BLTTHS năm 2003 đã chú trọng tới mở rộng
tranh tụng tại phiên tòa với quy định bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ có quyền “trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ịch
hợp pháp của bị đơn“ tại điểm đ, khoản 2, Điều 53.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thuộc bên bào chữa còn được quy định tại
một số điều luật khác của BLTTHS như: Điều 10, Điều 24, Điều 62, Điều 201, Điều
207, Điều 212, Điều 215, Điều 247...
Đối với các chủ thể của chức năng buộc tội tại phiên tòa như VKS (KSV),
người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, BLTTHS cũng
quy định những quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Theo quy định của BLTTHS thì VKS có các quyền và nghĩa vụ sau: có trách
nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10); áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa (Điều 11); giải thích và bảo đảm cho người tham gia tố tụng
thực hiện các quyền và nghĩa vụ (Điều 62); thu thập, xem xét và đánh giá chứng cứ

19


(các Điều 65 và 66);
Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 đã dành riêng một Điều luật để quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng. Điều 37 của Bộ luật đã quy định cụ
thể về hoạt động của KSV tại phiên tòa “đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên
quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố
tụng tại phiên tòa“. Song hành với quyền công tố, KSV tham gia phiên tòa có quyền
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những
người tham gia tố tụng và kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án”.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự tham gia tố tụng để thực hiện chức năng
buộc tội ở một mức độ nhất định. Để các chủ thể này có thể thực hiện chức năng của
mình trong TTHS, pháp luật giành cho họ những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất
định được quy định tại các Điều: 51, 52 và một số điều khác của BLTTHS. Các điều
luật nhằm nhấn mạnh đến quyền „trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp”, “quyền khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ
quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” của các chủ thể này. Bộ luật cũng quy
định rõ nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án là “trình bày trung thực những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của mình“.
* Về trình tự, thủ tục tranh tụng
Dù còn nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu của hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa nhừng phần lớn các quan điểm đều xác định hoạt động này được
khởi động ngay từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Bởi vì, theo quy định tại Điều 179
BLTTHS thì “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố tụng xem
có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và
tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa
phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người
yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định”.

20



×