Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam có đoạn viết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.44 KB, 33 trang )

T ừ để
i n bách khoa toàn th ư Vi ệt Nam có đo ạn vi ết:
"Th ạch Lam là m ột cây bút thiên v ề tình c ảm, hay ghi l ại c ảm xúc c ủa mình tr ư
ớc s ố ph ận
h ẩm hiu c ủa nh ữ
ng ng ư
ời nghèo, nh ất là nh ữ
ng ng ư
ời ph ụ n ữ trong xã h ội c ũ, s ống v ất v ả,
th ầm l ặng, chu
ị đ
ựn g , giàu lịng hi sinh ("Cơ hàng xén"). Có truy ện miêu t ả v ớ
i lịng c ảm thơng
sâu s ắc m ột gia đình đô ng con, s ống c ơ c ự
c trong xóm ch ợ ("Nhà m ẹ Lê"). Có truy ện phân
tích t ỉ m ỉ tâm lí ph ứ
c t ạp c ủa con ng ư
ời ("S ợ
i tóc"). "Ngày m ớ
i" đi sâu vào n ội tâm c ủa m ột
c ặp v ợ ch ồng trí th ứ
c nghèo. Ch ư
a có truy ện nào có ý ngh ĩa xã h ội rõ nét nh ư các tác ph ẩm
c ủa các nhà v ăn hi ện th ự
c phê phán. "Theo giòng" là m ột thiên ti ểu lu ận vi ết ki ểu tu ỳ bút, ghi
l ại suy ngh ĩ c ủa ông v ề ngh ệ thu ật ti ểu thuy ết, có nh ữ
ng ý ki ến hay, nh ư
ng ch ư
a đi sâu vào
khía c ạnh nào. Cu ốn "Hà N ội ba sáu ph ố ph ư
ờn g " có phong v ị đ


ậm đà c ủa quê h ư
ơn g x ứ s ở
,
l ại r ất g ợ
i c ảm. V ăn Th ạch Lam nh ẹ nhàng, giàu ch ất th ơ
, sâu s ắc, thâm tr ầm, th ư
ờn g đ
ể l ại
m ột ấn t ư
ợn g ng ậm ngùi, th ư
ơn g xót."

Trong "L ờ
i nhà xu ất b ản V ăn h ọc" (khi in l ại tác ph ẩm "Gió đ
ầu mùa" n ăm 1982) c ũng có đo ạn
vi ết nh ư sau:
"Gi ớ
i thi ệu t ập truy ện ng ắn "Gió đ
ầu mùa" xu ất b ản tr ư
ớc Cách m ạng tháng Tám, Th ạch Lam
vi ết: " Đ
ối v ớ
i tôi v ăn ch ư
ơn g không ph ải là m ột cách đe m đ
ến cho ng ư
ời đ
ọc s ự thoát ly hay
s ự quên, trái l ại v ăn ch ư
ơn g là m ột th ứ khí gi ớ
i thanh cao và đ

ắc l ự
c mà chúng ta có, đ
ể vừ
a
t ố cáo và thay đ
ổi m ột cái th ế gi ớ
i gi ả d ối và tàn ác, làm cho lòng ng ư
ời đ
ư
ợc

thêm trong s ạch

và phong phú h ơ
n".Có th ể coi đo ạn v ăn ng ắn nói trên nh ư là "Tuyên ngôn v ăn h ọc" c ủa
Th ạch Lam. Và qu ả th ật, trong toàn b ộ gia tài sáng t ạo c ủa Th ạch Lam, h ầu nh ư không m ột
trang vi ết nào l ại không th ắm đ
ư
ợm

tinh th ần đó . Là thành viên c ủa nhóm T ự L ự
c v ăn đo àn,

song tr ư
ớc sau v ăn phong Th ạch Lam v ẫn ch ẩy riêng bi ệt m ột giòng. Đ
ề tài quen thu ộc c ủa
nhóm T ự L ự
c v ăn đo àn là nh ữ
ng c ảnh s ống đ
ư

ợc

thi v ị hóa, nh ữ
ng m ơ ư
ớc

thốt ly mang

m ầu s ắc c ải l ư
ơn g , là nh ữ
ng ph ản kháng y ếu ớt tr ư
ớc s ự trói bu ộc c ủa đ
ạo đ
ức phong ki ến
di ễn ra trong các gia đình quy ền quý. Th ạch Lam, trái l ại, đã h ư
ớn g ngòi bút v ề phía l ớ
p
ng ư
ời lao đ
ộn g b ần cùng trong xã h ội đ
ư
ơ n g th ờ
i. Khung c ảnh th ư
ờn g th ấy trong truy ện ng ắn
Th ạch Lam là nh ữ
ng làng quê bùn l ầy n ư
ớc đ
ọn g , nh ữ
ng ph ố ch ợ t ồi tàn v ớ
i m ột b ầu tr ờ

i ảm
đạm c ủa ti ết đơ ng m ư
a phùn gió b ấc, nh ữ
ng khu ph ố ngo ại ô nghèo kh ổ, bu ồn, v ắng... Trong
khung c ảnh ấy, các nhân v ật c ũng hi ện lên v ớ
i cái v ẻ heo hút, th ảm đ
ạm c ủa s ố ki ếp l ầm than

ó là m ẹ Lê, ng ư
ời đà n bà nghèo kh ổ, đô ng con, góa b ụa ở ph ố ch ợ Đ
o à n Thôn, là bác D ư
phu xe ở ph ố Hàng B ột, là Thanh, Nga v ớ
i bà n ội và cây hoàng lan trong m ột làng quê vùng
ngo ại ô, là cô Tâm hàng xén v ớ
i l ối đ
ư
ờ n g quê quen thu ộc trong bu ổi hồng hơn...T ất c ả
nh ữ
ng c ảnh, nh ữ
ng ng ư
ời ấy đ
ều đ
ư
ợc

mô t ả b ằng m ột s ố đ
ư
ờ n g nét đ
ơn s ơ
, th ư

a thoáng

nh ư
ng v ẫn h ết s ứ
c chân th ự
c...
Tác ph ẩm c ủa Th ạch Lam vì th ế có nhi ều y ếu t ố hi ện th ự
c tuy nhân v ật khơng d ữ d ội nh ư Chí
Phèo, lão H ạc c ủa Nam Cao, hay b ị đà y đ
ọa nh ư ch ị D ậu c ủa Ngô T ất T ố...Cái riêng, cái đ
ộc
đáo, cái m ạnh c ủa Th ạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và v ẻ đẹp tâm h ồn quán xuy ến trong
m ọi tác ph ẩm c ủa ông. Nhân v ật Th ạch Lam, b ất lu ận ở hoàn c ảnh nào, v ẫn ánh lên trong
tâm h ồn cái ch ất nhân ái Vi ệt Nam... Đ
ọc truy ện ng ắn Th ạch Lam rõ ràng ta th ấy yêu con


ng ườ
i , quý tr ọng con ng ườ
i hơ
n. Và c ũng t ừ đó ta th ươ
n g c ảm, nâng niu, ch ắt g ạn t ừ
ng chút
t ốt đẹ
p trong m ỗi m ột con ng ườ
i ."

• Nhà v ăn Nguy ễn Tuân:
"L ờ
i v ăn Th ạch Lam nhi ều hình ản h, nhi ều tìm tịi, có m ột cách đệ

i u thanh th ản, bình d ị và sâu
s ắc…V ăn Th ạch Lam đọ
n g nhi ều suy nghi ệm, nó là cái k ết tinh c ủa m ột tâm h ồn nh ạy c ảm và
t ầng tr ải v ề s ự đờ
i . Th ạch Lam có nh ữ
ng nh ận xét tinh t ế v ề cu ộc s ống hàng ngày. Xúc c ảm
c ủa Th ạch lam th ườ
n g b ắt ngu ồn và n ảy n ở lên t ừ nh ữ
ng chân c ảm đố
i vớ
i t ầng l ớ
p dân
nghèo thành th ị và thôn quê. Th ạch Lam là nhà v ăn quý m ến cu ộc s ống, trang tr ọng tr ướ
c
cu ộc s ống c ủa m ọi ng ườ
i chung quanh. Ngày nay đọ
c l ại Th ạch lam, v ẫn th ấy đầ
y đủ cáo d ư
v ị và cái nhã thú c ủa nh ữ
ng tác ph ẩm có c ốt cách và ph ẩm ch ất v ăn h ọc."

Nhà v ăn V ũ Ng ọc Phan:
"Ngay trong tác ph ẩm đầ
u tay (Gió đầ
u mùa), ng ườ
i ta đã th ấy Th ạch Lam đứ
n g vào m ột phái
riêng...Ơng có m ột ngòi bút l ặng l ẽ, đề
i m t ĩnh vơ cùng, ngịi bút chun t ả t ỷ m ỷ nh ữ
ng cái r ất

nh ỏ và r ất đẹ
p . .. Ph ải là ng ườ
i giàu tình c ảm l ắm m ớ
i vi ết đượ
c nh ư v ậy...''

GS. Ph ạm Th ế Ng ũ:
"Th ạch Lam là m ột nhà v ăn có khuynh h ướ
n g xã h ội... Đố
i vớ
i ông, nhân v ật th ườ
n g là nh ữ
ng
ng ườ
i t ầm th ườ
n g trong xã h ội: m ẹ Lê trong xóm nghèo, cơ hàng xén ở ph ố huy ện, c ậu h ọc
trò đi ở tr ọ, hai cô gái giang h ồ tr ơ tr ọi…Và ông th ườ
n g để ý v ạch v ẽ cu ộc đờ
i , tình c ảm cùng
ý ngh ĩ c ủa h ọ, ch ớ không b ận tâm l ắm đế
n vi ệc tuyên truy ền t ư t ưở
n g cách m ạng xã h ội nh ư
trong các tác ph ẩm c ủa Nh ất Linh hay Hoàng Đạ
o … T a th ấy Th ạch Lam, ln hịa đồ
n g trong
cái xã h ội nh ỏ bé mà ơng th ươ
n g xót v ớ
i t ất c ả tâm h ồn đa c ảm c ủa ơng... "

• GS. Phong Lê:

"Th ạch Lam có quan ni ệm d ứ
t khốt v ề thiên ch ứ
c c ủa v ăn ch ươ
n g : " Đố
i vớ
i tôi, v ăn ch ươ
ng
không ph ải m ột cách đe m đế
n cho ng ườ
i đọ
c s ự thoát ly hay s ự quên, trái l ại, v ăn ch ươ
n g là
m ột th ứ khí gi ớ
i thanh cao và đắ
c lự
c mà chúng ta có, để v ừ
a t ố cáo và thay đổ
i m ột cái th ế
gi ớ
i gi ả d ối và tàn ác, v ừ
a làm cho lòng ng ườ
i đọ
c thêm trong s ạch và phong phú h ơ
n".
Có l ẽ c ả hai ph ươ
n g di ện, v ừ
a t ố cáo, v ừ
a xây d ự
ng, đề
u đượ

c Th ạch Lam chú ý; và trong
ph ần thành cơng c ủa nó, các d ấu ấn hi ện th ự
c và lãng m ạn trong v ăn Th ạch Lam đề
u tìm
được

s ự g ắn n ối ở chính quan ni ệm này.

Ở t ư cách nhà v ăn, Th ạch Lam đò i h ỏi r ất cao ph ẩm ch ất trung th ự
c c ủa ng ười ngh ệ s ĩ. Ông
vi ết: "S ự thành th ự
c ch ư
a đủ cho ngh ệ thu ật. Có th ể, nh ư
ng m ột nhà v ăn không thành th ự
c
không bao gi ờ tr ở nên m ột nhà v ăn giá tr.ị Không ph ải c ứ thành th ự
c là tr ở nên m ột ngh ệ s ĩ.
Nh ư
ng m ột ngh ệ s ĩ không thành th ự
c ch ỉ là m ột ng ườ
i th ợ khéo tay thôi"


• PGS. Nguyễn Hồnh Khung:
...Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương cảm đối
với số phận người nghèo qua những câu chuyện mang một dư vị ng ậm ngùi, t ội nghiệp.
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình
hướng nội trong truyện ngắn. Ngịi bút của ơng thường khơi sâu vào thế gi ới bên trong của
cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế.
Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ơng, đời sống bên trong có phong phú hơn, tế

nhị hơn; chúng “đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu” (Nguy ễn
Tn).
Ơng là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông d ường nh ư khơng có cốt
truyện, song vẫn có sức lơi cuốn riêng. Truyện dài "Ngày mới" của ơng khơng có gì đặc sắc
về tư tưởng và nghệ thuật."

• Khúc Hà Linh (Hiệu trưởng Trường Văn hóa nghệ thuật Hải Dương):
"Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thơn dã, nên trong tác phẩm ơng chất chứa nhiều
hình bóng con người và đời sống làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần nh ị, tinh
tế. Văn ơng hài hịa giữa lãng mạn và chân thực, mà vẫn nồng nàn tình q, nặng lịng v ới
dân tộc.
Thạch Lam khơng chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ơng cịn thành cơng trong thể loại bút ký. "Hà
Nội băm mươi sáu phố phường" gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, thể hi ện vốn s ống
phong phú và tài hoa của ông..."

Đọc đoạn văn sau đây của Thạch Lam để thấy rằng ông vừa là một nhà văn hiện thực vừa là
một nhà văn lãng mạn:
"Chung quanh chàng yên lặng: Mặt trăng đã lên quá đỉnh đầu, sáng loáng trên bầu trời trong
vắt. Sương xuống đã thấm vào người. Trường thong thả trở về buồng. Đến dưới giàn hoa,
chàng quay lại nhìn cánh vườn, và qua dãy tre thưa lá, quãng rộng mà dịng sơng đưa lên
tiếng róc rách của nước chảy. Đột nhiên chàng giật mình. Trong bóng tối của giàn hoa, chàng
thống thấy một bóng người đứng nép vào khóm cây. Chàng bước lại gần, một tiếng nói quen
thuộc khi gọi tên chàng, giọng dịu dàng và cảm động… Đêm đã khuya: tiếng nước róc rách
ngồi sơng. Tiên khẽ đi, sương mù đã phủ xuống đầy vườn, trắng xóa như một đám mây, chỉ
còn chùm lá dày của cây lựu lấp lánh sáng. Hai người lắng nghe cái yên lặng của ban
đêm…".
Sự khác nhau về giọng văn giữa đoạn trên và những đoạn trong Nhà mẹ Lê đã cho ta thấy
được một điều: chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực, cả hai đều cần cho cuộc sống.
Nếu như chủ nghĩa hiện thực cho ta thấy rõ được những nét xấu xa đen tối trong bản chất
cuộc đời, thì văn chương lãng mạn như dòng nước mát xoa dịu những nỗi đau thương ấy,

mở ra cho con người, phải trở thành "một thứ vũ khí đắc lực của con người ". Hơn hẳn những
nhà văn khác, Thạch Lam đã nhận ra điều đó. Thạch Lam như một ngơi sao chổi quét qua


bầu trời văn học, những di sản ông để lại ngày càng tỏa sáng nhiều giá trị, Lớp bụi thời gian
không đủ sức để che phủ lên những giá trị đó. Thạch Lam vừa xứng đáng là nhà văn hiện
thực và cũng là nhà văn lãng mạn!

*QUANNIỆM VỀ VĂNCHƯƠNG
- Đối với tôi văn chương không phải là 1 cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự
quên; trái lại, văn chương là 1 thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và
thay đổi 1 cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn.
(Thạch Lam)
- M.Gorki nói: văn học “giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản
thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.”
- Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.(Nam Cao – Trăng
sáng)
* Bút chiến với nhóm Tự lực văn đồn: Các ơng muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tơi và
các nhà văn cùng chí hướng như tơi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. (Vũ Trọng Phụng)
*Nhận định về ”chất thép”trong thơ Hồ Chí Minh: Khi Bác nói trong thơ có thép ta cũng
cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu 1 cách rất linh hoạt mới đúng. Khơng
phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép.
* Ý kiến về văn chương: Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không
đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.
(Nguyễn văn Siêu)
* Vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ:
- Thơ phát khởi trong lịng người ta.(Lê Q Đơn)
- Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngơ Thì Nhậm)
*Quan điểm nghệ thuật văn chương:

- Văn hoá nghệ thuật là 1 mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. (Hồ Chí Minh)
- Văn chương khơng cần đến những người thợ khéo tay làm theo 1 vài kiểu mẫu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai
khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. (Nam Cao - Đời thừa)

Khái Hưng đưa ra một nét rất chính xác: Thạch
Lamdám viết hết những cảm nghĩ trong đầu: "Ở Thạch Lam
sự thành thật trở nên sự can đảm, đọc nhiều đoạn văn của
Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn. Tôi xin thú thật rằng
những điều nhận xét gay go về mình và những người sống
chung quanh mình, tơi cũng thường có song vị tất đã dám
viết ra. Tơi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng khơng sao
có được cái can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám


văn sĩ mới ở nước ta tôi thấy ở Thạch Lam. Lịng ta là một
thế giới mênh mơng, nếu ta để trí suy xét của ta len vào các
ngách các nơi kín tối chăm chỉ tìm tịi, ta sẽ thấy nhiều mới
lạ. Tưởng sống tới trăm tuổi ta cũng không biết thực rõ
được lịng ta" (trích theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên, tập III , Ðại Nam in lại, trang 495)."
Gió đầu mùa và Sợi tóc
Về cách trình bày xã hội Việt Nam những năm 30-40, chúng ta có thể nhìn
thấy rất rõ hai mẫu hình: mẫu Tự Lực Văn Ðồn, gồm các ơng Tuần ,bà Án,
tượng trưng cho lớp già trong "chế độ" cũ đối chọi với những Loan, Nhung,
Mai... lớp trẻ, phản kháng chế độ. Và mẫu hiện thực phê phán xã hội gồm bọn
cường hào ác bá đàn áp bóc lột và người dân quê thấp cổ bé miệng trong các tiểu
thuyết Ngơ Tất Tố, Ngun Hồng, Nam Cao, Tơ Hồi...
Thạch Lam khơng chiếu ống kính vào những nhân vật nằm trong hai phạm trù
trên đây, dường như với ông, con người phức tạp hơn, không dễ chia cắt thành

hai giới tuyến thiện ác thường xuyên đối chọi nhau kịch liệt như thế; ngồi ra,
con người cịn có trách nhiệm tự thân về những hành động của chính mình, cả
trong những xã hội khép kín nhất.
Sớm nhìn đến vấn đề trách nhiệm cá nhân, những người con gái trong truyện
của Thạch Lam trao thân cho người yêu không cần hỏi ý cha mẹ. Liên trong Một
đời người, tuy bị chồng và mẹ chồng hành hạ, nhưng vẫn không bỏ chồng theo
người u, một phần vì nàng thiếu tự tin và khơng dứt khốt, Liên khơng chỉ là
nạn nhân xã hội. Những khổ đau của Dung trong Hai lần chết đã bắt nguồn từ
khi chào đời, bị cha mẹ ghét vì Dung "yếu đuối, ghẻ lở, bẩn thỉu, khó ni" và
khi bị gả chồng thì chính sự yếu đuối thể xác của Dung đã khơng cho phép nàng
thốt ly gia đình. Dung cũng không thuộc lớp người phản kháng chế độ cũ, bởi ở
nàng không phải là sự phản kháng mà là sự đầu hàng vơ điều kiện.
Thốt khỏi những cliché thời đại, tác phẩm Thạch Lam mở ra một xã hội Việt
Nam dưới những khía cạnh ít thấy xuất hiện trong tiểu thuyết lúc bấy giờ: một xã
hội đói và buồn, như có gì báo trước thảm cảnh Ất Dậu.
Trước hết là cái đói. Cái đói trong Gió đầu mùa và Sợi tóc phũ phàng cuốn
từNhà mẹ Lê sang người phu xe Dư trong Một cơn giận, đến anh Bào người học
trò giỏi và đẹp như con gái trong Người bạn trẻ, lan đến Sinh người thanh niên


bị mất việc trong Ðói, rồi đến Liên và Huệ, hai cơ gái điếm trơ trọi trong căn
phịng săm ẩm mốc Tối ba mươi, và cuối cùng đến Thành, chỉ xém một ly đã
tránh khỏi việc ăn cắp tiền trong Sợi tóc.
Trừ gia đình bác Lê, bác Dư là những người thật nghèo, cịn lại phần đơng là
cái đói của giai cấp trung lưu, thành thị. Cái đói của một xã hội phá sản khơng có
việc làm.
Ði đơi với cái đói là sự cơ đơn. Cá nhân lạc lồi trong xã hội như những bóng
ma đơn cơi, khơng ai giúp ai được. Thạch Lam dự báo cái đói và ý thức cá nhân:
mỗi người có một phản ứng khác nhau trước cái nghèo, cái đói, như Tâm trong
truyện Trở về, chọn lối thoát ngắn nhất lấy vợ giầu, đoạn tuyệt với dĩ vãng, dĩ

vãng nghèo đói ở quê với mẹ mà chàng cho là bẩn thỉu, tồi tàn và chàng vội vàng
chạy vọt ô tô, bắn vọt bùn lên quần áo mẹ, để người vợ giầu khỏi thấy di tích cái
quá khứ lấm lem của mình. Hoặc như Minh trong truyện Cái chân què, liên miên
bị ám ảnh bởi đồng tiền và khi chàng được nhiều tiền nhất là lúc chàng bị tai nạn
xe hơi, phải cưa chân và được hãng bảo hiểm đền cho một món kếch sù. Minh
yêu đời trở lại. Sau một thời gian chơi bời trác táng, trở về tay trắng, Minh mới
cảm thấy rân ran đau "cả vết thương ở ngồi hình thể và trong tâm hồn".

Trong ba truyện ngắn Ðói, Một cơn giận và Sợi tóc Thạch Lam đã tận dụng
những nghiệm sinh của chính mình. Ðói, mổ xẻ bản năng sinh tồn của con người
dưới những khiá cạnh ghen tuông, tham lam, thành kiến, độc ác... Một cơn
giậnmơ tả tình huống một người, chỉ vì một cơn giận gần như vơ cớ, đã đối xử
tàn nhẫn với một người phu xe, đẩy thân phận xấu số này tới bi kịch. Và Sợi tóc,
viết về hành trình của Thanh, một người đi từ "lương thiện" đến "ăn cắp", với tất
cả những chuẩn bị, tính tốn, đắn đo, liệu lượng... cuối cùng khơng hiểu sao, lại
"thốt", khơng phạm tội.Và Thanh cho biết: "Tơi cảm thấy một cái thú khoái lạc
kỳ dị, khe khẽ và thầm lặng rung động trong người, có lẽ là cái khối lạc bị cám
dỗ, mà có lẽ cái khối lạc đã đè nén được sự cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm
ngầm, tôi không tự thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái
cảm giác ấy của tâm hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc" (Sợi tóc, Sống mới
tái bản tại Hoa Kỳ, trang 77). Ăn cắp hay không ăn cắp? That is the
question: "Cái gì đã giữ tơi lại? Tơi khơng biết... Có lẽ chỉ một lời nói khơng
đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía kia, đã khiến tơi có ăn cắp hay
khơng ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới của hai bên.
(... ) Hình như những ý nghĩ ham muốn hay trù trừ tối ấy, khơng phải là của tơi,
hình như của ai ấy, của một người nào khác lạ, khác với cái người thường của
tôi bây giờ... " (trang 78).
Bộ ba truyện ngắn trên đây chứng tỏ lối phân tích tâm lý của Thạch Lam
nhưng năm 40 cũng đã đẩy xa hơn những người cùng thời, và nếu có thua, thì
cũng chỉ thua người anh, thua sự dài hơi của Nhất Linh trong Bướm trắng, bởi



trong Bướm trắng những phân tích tâm lý chi li như vậy, chạy suốt dọc chiều dài
tác phẩm.
Trong bối cảnh phá sản của xã hội, người phụ nữ hiện ra như những đốm sao
băng, như Liên và Huệ trong đêm ba mươi, chìm nghỉm với miếng ăn trong cuộc
đời giang hồ; như bà mẹ Lê, liều chết tìm gạo cho con lần cuối; như Tâm, cô
hàng xén, tần tảo suốt đời, nuôi mẹ nuôi em, gánh vác nhà chồng cho đến tàn
phai nhan sắc; như Mai, vì đói, phải bán thân kiếm vài miếng thịt ướp cho
chồng, cho mình; như Liên, một đời người, bị chồng và mẹ chồng hành hạ,
nhưng vẫn kéo dài kiếp sống, gánh đầy tủi nhục mà khơng tự mình gỡ bỏ; như
Dung trong hai lần chết, muốn thoát ly khỏi ngõ cụt nhưng rồi cái chết cũng
đánh lừa nàng.
Không phê phán xã hội, phê phán con người, dù tốt hay xấu mà chấp nhận họ,
Thạch Lam lặng lẽ vượt trên bi kịch, bằng thái độ gần như lãnh đạm với tất cả
mọi hình thức đấu tranh, ông đem cái "nhân phong" vào văn chương, thể hiện
con người trong những hoàn cảnh sống, vừa như một thử thách, để lộ thú tính và
nhân tính, và chính mỗi cá nhân đôi khi cũng không phân biệt được rõ ràng giữa
xấu và tốt, bởi ranh giới chỉ nhỏ như sợi tóc, và bất cứ ai, trong một thống giây
có thể chao đảo từ mảnh đất này sang mảnh đất kia mà không hiểu tại sao.

Từ hai phố huyện nhỏ, phố huyện Cẩm Giàng ở Hải Dương, nơi Thạch Lam
sống những ngày thơ ấu, và phố huyện bên bến đò Tân Ðệ, nơi cả nhà dọn lên ở
với người anh cả dạy học ở Thái Bình, Thạch Lam tạo ra mảnh xã hội nhỏ bé của
mình: một thế giới nửa q, nửa tỉnh rồi ơng nhẩn nha nghiêng mình xuống từng
thân phận một. Những mẹ Lê, mẹ Hiền, mẹ Ðối ... đều là những nhân vật có thật
gắn liền với cuộc đời Thạch Lam bên phố huyện Cẩm Giàng và phố huyện Thái
Bình. Cạnh những cơ hàng xén chợ huyện, là những khuôn mặt khác của Huệ,
Liên, anh Bào... ở Hà Nội, tất cả dệt nên hình ảnh một Việt Nam u buồn và đói
kém những năm 40. Nhưng tại sao hình ảnh bà mẹ Lê và cơ hàng xén lại rõ nét

hơn cả, và tại sao cả hai anh em Nhất Linh, Thạch Lam lại bị cuốn hút bởi hình
ảnh hai người đàn bà đó? Tại sao cái phố huyện nhỏ lại có một sức hút bí mật lạ
lùng như thế?
Trước hết phải phân biệt hai mẹ Lê: mẹ Lê của Thạch Lam, trong Gió đầu
mùa, xuất hiện năm 1937. Ba năm sau, khoảng 1940, Nhất Linh viết Xóm cầu
mới (lần đầu), mẹ Lê cũng lại xuất hiện, và nếu chú ý đến cơ Mùi trong Xóm cầu
mới, Mùi tuy không gánh hàng xén đi bán như Tâm, nhưng vẫn có nhiều nét
giống Tâm.
Qua chân dung của hai bà mẹ Lê và hai cô hàng xén Mùi - Tâm, anh em Nhất
Linh như đã dở lại từng trang ký ức đời sống thanh bần của chính gia đình mình
với hai phong cách khác nhau: Nhất Linh vui và no, Thạch Lam buồn và đói.


Nhất Linh lạc quan và đằm thắm, Thạch Lam đi sâu vào bi kịch, báo hiệu thảm
cảnh Ất Dậu. Thạch Lam sở trường về đoản thiên (truyện ngắn, tùy bút), Nhất
Linh sở trường về truyện dài, họ cùng gặp nhau ở sự tế vi và nhạy cảm, và chắc
chắn là Nhất Linh đã "bị ảnh hưởng" của em, hoặc ít ra, cũng nghĩ về em khi
dựng lại hai nhân vật "của Thạch Lam" bà mẹ Lê và cô hàng xén. Và việc ấy
cũng khơng tránh được, bởi đó là hai nhân vật tha thiết nói lên cuộc đời thầm
lặng của những người đàn bà tần tảo nuôi chồng, nuôi con, ni cha mẹ anh em,
mà trong tay khơng có đến một tấc vốn, hình ảnh ấy có chung một nguồn: bà cụ
Cẩm Giàng, mẹ của Thạch Lam, Nhất Linh, Hoàng Ðạo chồng chết sớm, tần tảo
buôn gạo nuôi bẩy người con ăn học. Bà cụ Cẩm Giàng chính là xuất xứ những
mẹ Lê, những cô Tâm, cô Mùi, linh hồn của xã hội.

Gió đầu mùa, tập truyện ngắn đầu tay của Thạch Lam, ngồi khơng khí đói và
buồn, nó cịn hé cửa vào những ngõ ngách phố huyện, phố chợ trong buổi giao
thời chuyển mình từ đời sống thuần tuý nông thôn sang thành thị, tạo ra một lớp
người nửa q nửa tỉnh, có những thân phận thốt được nghịch cảnh, có những
thân phận chìm sâu trong dịng thủy triều cuốn mau, cuốn mạnh.

Tính chất tương phản giữa hai lối sống, hai trình độ khác biệt và kỳ thị nhau
đó, đã được Thạch Lam nói đến ở ngay những dịng đầu Nhà mẹ Lê:
"Ðồn thơn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lỵ nhỏ ở trung
châu. Hai giẫy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những
cái giại nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một
căn nhà gạch có gác, bưng bít như một cái tổ chim, nhà của một người giầu
trong làng làm ra đấy để bán hàng.
Người ở phố chợ là bảy, tám gia đình nghèo khổ khơng biết q qn ở đâu,
mà người dân trong huyện vẫn gọi một cách khinh bỉ: những kẽ ngụ cư. Họ ở
những đâu đến đây kiếm ăn trong mấy năm trời làm đói kém; làm những nghề
lặt vặt: người thì kéo xe, người thì đánh dậm hay làm thuê, ở mướn cho những
người giầu có trong làng. Người ta gọi mỗi gia đình bằng tên người mẹ: nhà mẹ
Hiền, nhà mẹ Ðối, nhà mẹ Lê." ( Trích, Nhà mẹ Lê, trong tập Gió đầu mùa, nxb
Văn Học, Hà Nội, 1982, trang 12).
Mẹ Lê thuộc thành phần "những kẽ ngụ cư", mà không phải là nông dân. Gia
đình mẹ Lê thuộc diện ngoại vi, sống bên lề xã hội. Nếu đặt vào bối cảnh bây
giờ, nhà mẹ Lê có thể là một trong những gia đình lam lũ sống trong các chung
cư ổ chuột ở ngoại ô các thành phố lớn.
Nhà mẹ Lê cứ thầm lặng trơi đi trong cái khổ và cái đói, bác Lê và mười một
đứa con quánh lại với nhau, không ai than thở, vì biết rằng mọi người đều khổ
như thế cả, than cũng bằng thừa: "Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy


lội. Ðàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau, rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm,
vì đèn đóm khơng có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét, khổ sở. Nhưng
mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm mà chịu khổ một mình, khơng than thở với láng
giềng hàng xóm, bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau." (trang 16)
Sự im lặng chịu đựng ấy kéo dài và bao trùm lên bi kịch y như giọng nói của
Bác Lê, sau khi đi vay nợ ơng Bá bị chó tây cắn, chỉ nhỏ nhẹ giảng giải phàn nàn
với các con: "Thật cậu Phúc ác q! Ðã khơng cho thì thơi, lại cịn thả chó ra

đuổi." Yếu tố "đối chất" duy nhất nằm trong câu "cậu Phúc mà lại ác quá" còn
tất cả đều hiền lành. Phải chăng chính bởi lối viết đầy "nhân phong" ấy mà tác
phẩm Thạch Lam cứ âm thầm dày vò chúng ta: "cái nghèo nàn không biết tự
bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi; và từ đấy nó cứ theo liền
bác mãi. Nhưng giá cứ có người mướn làm thì cũng khơng đến nỗi. Bác nhớ lại
những buổi đi làm khó nhọc, những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con...
" (trang 18).
Cuốn phim đời bác từ từ quay lại trong mê sảng của những cơn sốt, người ta
chú ý đến câu "giá cứ có người mướn làm thì cũng khơng đến nỗi", như thể bác
Lê ở bên kia cuộc sống vẫn cịn phân trần, giải oan cho hồn cảnh oan nghiệt của
mình và các con. Nhưng Thạch Lam hiền lành trong lời nói bao nhiêu thì lại
mạnh dạn trong hình ảnh bấy nhiêu: "Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con
cùng nằm ngủ trên đó, trơng như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc",
"Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu
chết" (trang 13).
Cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc, thịt chúng nó thâm tím lại như thịt
con trâu, những hình ảnh mạnh, cực thực, phi lý, gần như ác mộng báo hiệu
thảm cảnh Ất Dậu, cứ chọc thẳng vào tim người đọc. Thạch Lam pha trộn chất bi
đát cùng với chất thơ thành một thể tuyệt vọng mới, âu yếm trùm lên những thân
phận khơng cịn là phận người trước khi trở nên thây người. Cả truyện ngắn là
một liều lượng pha trộn tuyệt vời đói khát với no đủ, yêu thương với ác nghiệt,
hy vọng với tuyệt vọng qua những hình ảnh đẹp rướm máu, cái chết của mẹ Lê
âm thầm dẫn đến những cái chết của mười một đứa con, tuy khơng nói ra, lại
càng làm cho chúng ta cảm thấy bàn tay của tử thần sờ trán mỗi đứa nhỏ mỗi lúc
một gần trong từng tích tắc cịn lại.
Bác Lê chết rồi, nhưng hình ảnh "một người đàn bà quê chắc chắn và thấp
bé,da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô" như vẫn chiếm trọn ký ức
người đọc, cái ký ức ấy có lúc thấy "Bác Lê đè thằng Hỉ, con Phún ra gọt tóc
cho chúng nó bằng một mảnh chai sắc", có lúc bác cịn "lấy phẩm xanh bơi cho
chúng nó. Trơng mẹ con bác lại giống một mẹ con đàn gà" khiến cho bác Ðối

phải nhắc:"Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không mất." Và như thế, mẹ
con bác Lê lại âu yếm quay trở lại như một éternel retour, một phục hồi miên
viễn.


“Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm
đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc
sống, trân trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam,
vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất
văn học”.
Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm hi vọng. Tình yêu mến và trân
trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nên nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ, để cho Liên có
một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước của hai chị em Liêm là một sáng tác nghệ thuật độc
đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì cả trong nhận thức của con người. Có chăng
Tế Hanh đã từng thốt lên :
Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngàn đời khơng đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau
nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với những con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ
cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những
tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn , tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu
đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của lồi
người”.

Nguyễn Tn viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn
là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam khơng chỉ ở nghệ thuật mà nó cịn giúp ta
thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” .
Ơng xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ơng lặng lẽ hướng ngịi bút của
mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ).



Thạch Lam – người có cùng năm sinh với Nguyễn Tuân: “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm
xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta
lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc
quý báu và thiêng liêng”

(2)

. Và hai là Vũ Ngọc Phan – tác giả bộ sách Nhà văn hiện đại: “Chỉ người ưa suy xét

đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.
Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám
chắc những văn phẩm của Nguyễn Tn sẽ cịn có một địa vị xứng đáng hơn nữa”

(3)

.

Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân, Thạch Lam đã khẳng định: “Trong cái vội vã cẩu thả của
những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực
những tác phẩm đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu
mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là một công việc quý báu và thiêng liêng”.

Chọn câu của Paul Morand làm đề từ cho Thiếu quê hương: “Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da ta
làm chiếc va ly”, Nguyễn Tuân dứt khoát khẳng định: “Đứng về phương diện một người lấy sự hoàn toàn phát
triển giác quan của mình làm lẽ chính cuộc sống” thì “khơng gì thiệt thịi bằng trung thành với một chỗ ở”.

niềm sung sướng và hạnh phúc của Nguyễn Tuân là được sống như mọi người, là được lẫn vào giịng người:
“Tơi thành ra cán bộ dân vận. Ngồi giờ cơng tác ở đơn vị, tôi xách cái túi gai chạy đi các nhà, ngồi góp

chuyện bên bếp lửa, tập nói tiếng địa phương. Tôi thấy tôi trở nên thân mật với người ở xóm bản như là đã
quen biết từ lâu lắm. Rồi nó thành hẳn một nếp tình cảm” ( Tình chiến dịch).

Trước 1945 Nguyễn Tn xác nhận: “Lịng kiêu căng của ta xui ta chỉ nên chơi có một lối độc tấu” ( Nhà

Nguyễn).
Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ năm 1949, Nguyễn Tuân phát biểu: “Bây giờ là thời kỳ viết tiểu thuyết,
đừng viết tùy theo bút nữa. Viết tiểu thuyết cho con người nói lên được”

(7)

.

Thế nhưng đâu cần đến tiểu thuyết - việc đó đã có rất nhiều người làm, mà vẫn chỉ với tùy bút, ông vẫn là
người đồng hành cùng cách mạng; hơn thế, cịn là người có chung những lo và nghĩ với cách mạng. Hết
kháng chiến, về với đời sống hịa bình, Nguyễn đã có nhiều lúc loay hoay, và hoang mang trong những biến
động của thời cuộc, diễn ra liên tiếp từ sau Chiến thắng Biên giới 1950 cho đến nửa sau thập niên 50 – qua
các sự kiện như Cải cách ruộng đất và Sửa sai; Hiệp định Genève về Đông Dương 1954 vừa ký kết đã bị Mỹ
Diệm xé bỏ; những biến động trên trường quốc tế làm lung lay sự bền vững của phe xã hội chủ nghĩa; cùng
các vụ/ việc trong đời sống chính trị và văn nghệ như Chỉnh huấn, Nhân văn – Giai phẩm… mà ông cùng một


số bạn văn “cây đa cây đề” như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Ngun Hồng, Tơ Hồi đều bị hệ
lụy ít nhiều.
Nhớ lại và suy nghĩ về một thời như thế - đó là việc rồi cũng cần phải làm, nó nằm trong một bối cảnh rộng
hơn, đó là cuộc đấu tranh dân tộc nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, và cuộc đấu tranh giai
cấp để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh một thế giới chia làm hai phe, mà một chút hoài nghi, mọi
sự chập chờn, lấp lửng ở giữa đều bị đẩy về phía kẻ thù. Trong khi bản chất của người trí thức là phải nghĩ, là
được nghĩ, là chỉ hành động theo lịng tin của chính mình. Và Nguyễn Tn, chính là hiện tượng có ý nghĩa
điển hình cho giới trí thức chân chính, ln trung thực khơng hề dấu mình, ln dũng cảm để nói lên chính

kiến, trong những tình thế phải giằng co giữa hai phía để đến với chân lý, nó lẽ ra hoặc phải là sự gặp gỡ
giữa chủ quan và khách quan trong tính thuyết phục của nó, chứ khơng phải là áp đặt hoặc răn đe.
Đây là thời kỳ Nguyễn Tuân viết những Phở (1956), Cây Hà Nội (1956), Đọc Sêkhov (1957) và Trả lời Tạp
chí Học tập (1957)… Và sau đó là Tờ hoa (1966), Tình rừng (1968) và Giị lụa (1973)… những bài gây tai
tiếng cho ơng; nhưng chỉ ngót 20 năm sau trở đi, lại trở lại giá trị của một cách nghĩ, cách viết dũng cảm,
trung thực và tiên tri, cùng với giá trị văn chương của nó.
Chặng đường sau 1960 cho đến khi Nguyễn Tuân qua đời, năm 1987 vẫn là một hành trình liên tục, khơng
ngừng nghỉ, không nản mỏi, không đứt quãng trên hai trục Đi và Viết, với khởi đầu là Sơng Đà (1960).

Nếu có một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX, và nếu nền văn học
đó có được những thành tựu đáng ghi nhận thì theo tơi là vào nửa đầu thập niên 60, sau Đại hội Đảng lần
thứ III với bản giao hưởng Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội – “đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”

(8)

. Sơng

Đà góp một giai điệu ấm áp và hào sảng đó vào một thời khó quên trong lịch sử văn học thế kỷ XX – thời, với
những câu thơ có cánh trong Bài ca mùa xuân 1961, Ánh sáng và phù sa, Riêng chung, Trời mỗi ngày lại

sáng; thời của những bộ tiểu thuyết trường thiên như Sóng gầm, Vỡ bờ, Sống mãi với thủ đô; thời của những
áng văn giàu chất trữ tình và chất thơ như Mùa lạc, Rẻo cao, Trăng sáng, Cỏ non… Và Sơng Đà, trước hết đó
là vẻ đẹp của thiên nhiên qua một bút pháp rất tạo hình: “Con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân”; để làm nên một nốt nhấn đặc sắc trên cả hai chiều hiện tại và quá khứ của
một dân tộc đang hào hứng đi vào một sự nghiệp dựng xây, sau một lịch sử có quá nhiều hy sinh, nhọc
nhằn, gian khổ… Trên hành trình ngược Tây Bắc lần này, Nguyễn Tn khơng cịn là một lữ khách ham vui,
mà tự nhận mình là một người đi tìm vàng, tìm “cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con
người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và vững
bền”.


Nguyễn đã viết rất sảng khoái những áng văn vừa là tùy bút vừa là chính luận, với rất nhiều âm hưởng và
giọng điệu qua những cái tên bài thật là độc đáo: Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội, Cho giặc bay Mỹ nó ăn

một cái tết ta, Có ba phi cơng Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán, Bên ụ súng Hà Nội, một đám cưới phịng
khơng, Cánh B52 rụng xuống một thôn hoa Hà Nội, Hà Nội ta vậy mà đã một năm chiến thắng B52, Đất
cùng trời toàn cõi ta từ đây coi như sạch hẳn bóng nó, Đêm xuân năm Hổ này nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ .
Quả là ý thức dân tộc luôn luôn là một giòng chảy thật đậm trong văn Nguyễn Tuân, kể từ Vang bóng một

thời, Thiếu quê hương… cho đến Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi.
quan niệm văn chương của Hồi Thanh: “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ
thuật là phê bình”

(9)

. Dĩ nhiên đây là cái đẹp trong quan niệm của mỹ học, chứ không phải ở bất cứ lĩnh vực

nào khác, như chính trị, hoặc luân lý, đạo đức; và dĩ nhiên là muốn tới cái đẹp thì phải loại bỏ cái xấu, cũng
như cái ác, cái bất lương; và với Nguyễn Tn trước 1945 thì đó là bọn người bất tài, mà hợm hĩnh về tiền
của, quyền lực; là đám “con buôn quen sống với đủ thứ hàng họ và bn Tần, bán Sở”. Cịn sau 1945 thì đó


là thói giả dối, nịnh hót và cơ hội – không xứng với một cuộc sống trong sạch và đẹp như ông từng thấy và
ao ước. Thậm ghét sự giả dối, bởi ơng là người trung thực; ghét thói nịnh hót và cơ hội, bởi ơng là người
ngay thẳng. Thật và thẳng – đó là phong cách sống và viết của Nguyễn Tuân.

sự đánh giá của Hoài Thanh đối với các tác gia Thơ mới: “Họ đã dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng
Việt” để tạo nên “một thời đại trong thi ca” Việt Nam, thì ta sẽ hiểu và tin Nguyễn Tuân khi ông khẳng định:
“Về những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh dân tộc, tôi nghĩ rằng cái biểu hiện yêu nước của tôi, ở tơi, tơi chỉ
xin khung nó gọn vào vấn đề xây dựng tiếng nói”(10). Nhận mình là một người lao động, như bất cứ nghề lao

động nào khác, trong các bản khai về nghề nghiệp, thay vì Nhà văn, hoặc Người viết văn, ông ghi:Chuyên
viên tiếng Việt.

Chuyên viên tiếng Việt– mà tôi muốn gọi một cách quen thuộc là nghề viết, với phương tiện duy nhất là tiếng
nói và chữ.

Chọn năm 1910 mà ra đời, để 100 năm sinh của mình đúng vào dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,
Nguyễn Tuân người quê ở Mọc – Nhân Mục, xã Nhân Chính huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Nhân Chính,
quận Thanh Xuân), sinh ở Hàng Bạc đã hưởng được những tinh hoa của ba sáu phố phường và trở lại làm
sáng danh cho văn hóa thủ đơ bởi tất cả những gì làm nên hồn cốt của một người viết – đó là lịng u cái
đẹp và khả năng làm giàu cho cái đẹp ở tư cách một người viết tận tụy và hết mình cho ngơn từ, khiến cho
bất cứ lúc nào ơng cũng nhận được sự kính trọng của mọi thế hệ người đọc – để, nói như Kim Lân, ông là
“người sung sướng nhất”(11).
Cách đây 23 năm, trong Điếu văn đọc tại Lễ tang Nguyễn Tuân, ngày 28-7-1987, nhà văn Nguyễn Đình Thi
đã nói đến Nguyễn Tuân như là “người đi tìm cái đẹp và cái thật”. Ở dịp kỷ niệm 100 năm năm sinh Nguyễn
Tuân hơm nay, tơi muốn nói một lời khẳng định: Nguyễn Tuân là người đã “đến được với cái đẹp và cái
thật”./.

Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,
vì văn Nguyễn Tn khơng phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.
(Vũ Ngọc Phan)

Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ
thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không
bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, ln nghiêm khắc với chính mình.
Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự
nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".
- Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên "lộn tùng phèo"
mọi thứ quan niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía dân tộc và truyền thống
dũng cảm chống lại sức công phá của lối sống xu thời. Sáng tác của ông thời kỳ này dồn

sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các giá trị văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và xã hội.
Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc


nuối khôn nguôi. Dù điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u
hoài đối với dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được một tấm lòng chân thành và rất
mực thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ
những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể
ví trang sách như tấm lá chắn hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn trước 1945 chính là người cảm tử quân đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ ở thành trì Chân - Thiện Mỹ.
- Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ
thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lịng đón nhận bao nhiêu thanh sắc của cuộc
sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trước kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu
nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ đây con người tài hoa uyên bác ấy như được
tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường, cất cao lời ngợi ca đất nước và con người
Việt Nam trong thời đại mới.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm
màu sắc chủ quan, "không bà con gì với luân lý thời đại" thì giờ đây, đã có sự hài hịa cần
thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân ; như
có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía. Hồi cổ khơng cịn mang ý nghĩa níu kéo dĩ
vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.
* Tác phẩm tiêu biểu :
- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn
dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua
(1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hồi (1943), Nguyễn (1945).
- Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950),
Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hịa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sơng Ðà
(1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978),
Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian thử bút ở một số thể loại trước khi dừng lại và tỏa
sáng với tùy bút.

- Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông, cho đến trước năm
1937, hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy chưa gây được
tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu như "Giang hồ hành"
(thơ), "Vườn xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn) những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật
lớn. Ðó là tinh thần hồi cựu, ln chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ,
cuối mùa ; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc ; là lối
văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.
- Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện
thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà phong
vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy
nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi
lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao,... cho nên thật khơng
dễ dàng đối với Nguyễn Tn trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có


lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở
trường của mình.
- Nguyễn Tn chỉ thực sự cơng nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể
từ tùy bút - du ký "Một chuyến đi", năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những trang viết từ
chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim "Cánh
đồng ma" - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Nét đặc sắc nhất ở "Một chuyến
đi" chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện
giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo : "Khi thì trang
nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xơ bồ bừa
bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng
rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái "tơi" ngơng
nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái "tôi" sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài
nghi tất cả, chỉ cịn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích
lũy được trên bước đường xê dịch.
- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đã vươn

đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy
(Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xi Việt Nam phát triển thêm một bước
mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của
thời phong kiến suy tàn, thời có những ơng Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi
cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ
thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao,
người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng ; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng
miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó cịn
được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có
nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và
phục chế lại bằng tất cả tấm lịng thành kính. "Vang bóng một thời", vì thế, có thể được
xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
- Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi
vào ngõ cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy
mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tơi" vẫn cịn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản
thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái "tơi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và
niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn
Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần. Bên
cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng
về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác ngọc lam", "Ðới roi",
"Rượu bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngịi bút Nguyễn Tn
thời kỳ này.
* Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám,
thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời"
trở về sau. Ðiều này hồn tồn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa
lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá
nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn
chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận
bằng thái độ trân trọng và thơng cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân
thành, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất.



Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng
vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời
mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tơi Cách Mệnh), Nguyễn Tn cịn có "Chùa Ðàn" - một tác
phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về một nhân vật
mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được uống
liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với
xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc
qua, dễ có ấn tượng về một q trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem
xét tác phẩm trong cả q trình sáng tác của nhà văn thì khơng thể không công nhận "Chùa
Ðàn" là một cố gắng đáng trân trọng.
- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950) - ghi
nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu gọi của Ðảng,
Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tơi"
giờ đây khơng cịn phá phách, ngơng nghênh nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng
bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sơi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân
thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như
sau phút dừng chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba
trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây không
phải mất cơng tìm kiếm ở cõi q vãng hoặc vơ hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời
thực đang từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh
choáng say sưa trước niềm hạnh phúc vơ biên ấy. Ơng vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực
và bày biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình.
Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy : "Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa
thủ đơ", "Tìm hiểu Sê Khốp",...
- "Sơng Ðà", viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong
sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng thác lớn
thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt con sơng
Ðà "hung bạo và trữ tình", chảy băng băng qua vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với

thời gian. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cái Ðẹp - chất "vàng mười" của đất nước và con
người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng
tử của Nguyễn Tuân như mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào :
"Ðời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lịng tin tưởng khơng bờ bến, tin mình tin
người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin chắc vào
cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống
này".
- Từ sau "Sông Ðà", Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở thể tùy
bút, được tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu : "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" (1972),
"Ký" (1976), "Hương vị và cảnh sắc đất nước" (1978). Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này có
thể phân thành hai mảng chính : mảng thứ nhất viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh
chống Mỹ - Ngụy chia cắt đất nước ; mảng thứ hai tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước
và con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Công cuộc
chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao của thời đại mới. Tinh thần quyết thắng từ tầm cao
lịch sử ấy là âm hưởng chung của văn học thời kỳ này. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã thể
hiện tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới ngịi bút của ơng, người Việt Nam vừa đánh
Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung dung, sang trọng và đầy tài hoa ; tư thế của một dân tộc
khơng chỉ giành được chính nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà cịn có bề dày truyền thống


văn hóa lâu đời. Nhiều bài ký khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước một sức bút kỳ lạ với
vốn sống ngồn ngộn, tinh tế ; vừa đầy ắp liên tưởng bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời
sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai như lọt vào đúng tầm ngắm của
Nguyễn Tuân. Sự đối lập rõ rệt giữa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta với dã tâm
của kẻ thù tạo nên nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đã nã những phát cực kỳ lợi hại,
bóc trần bản chất xảo quyệt của chúng, dù được chúng ngụy trang rất khéo léo ; góp phần
động viên và tăng cường nhận thức của quần chúng về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.

Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngơng. Cái ngơng vừa có

màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ;
vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã
hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng,
thuyết hiện sinh...”

Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ
Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa ai khơi" nên
thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với những trang viết của ngòi
bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú các
các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ; mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ
người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về
thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia được
Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả,
chứ không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.
Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và
rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân
trọng những "đấng tài hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường
sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ
Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ơng Phó Sứ, ơng Cử Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ
thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một
thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì
uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao thượng
thì càng đáng kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường là
một tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.
Sự chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc sống,
phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế giới nhân vật
của trang viết Nguyễn Tn. Nhưng khơng vì thế mà nhà văn đánh mất tính độc đáo, bất
biến của phong cách.Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí
phách, của văn hóa dân tộc : "Có cái như là Hoa Kỳ vừa đánh Hà Nội, vừa thử tài sức và

trí lực Hà Nội. Trong cuộc đọ súng đọ lửa với giặc Hoa Kỳ, quân và dân thủ đô càng đánh
càng phát huy truyền thống chống xâm lược của dân tộc mình. Chắc tay súng, đúng tầm
đạn, chiều 5 tháng 5 vừa qua, tất cả cỡ súng Hà Nội có nịng và tên lửa khơng nịng đã


quần cho một trận tơi bời (...). Chợ Ngọc Hà khơng phải vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ
tan trên một buổi chợ chiều : mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp nhánh mảnh
vụn đuy ra F.105. Cơ gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-dòa sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay
súng và theo dõi trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".
Hình ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung linh
giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ khơng ai khác, là những kỹ sư, nghệ sĩ
đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống mới, nền văn hóa
nghệ thuật mới.
Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tn.
Dường như ơng chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm
xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt đến đỉnh cao của khả năng
ghi nhận và thể hiện đời sống.
- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước
được của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng
điệu văn chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo,
khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những
triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tưởng
mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tn thường là giọng kể. Người dẫn chuyện ln
đóng vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy
với các nhân vật khác. Người ấy thường có giọng lịch lãm, đơi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn
nhưng vẫn đảm bảo độ mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.
Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa
thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình huống
nhà văn ln có cách nói phù hợp, khơng chung chung, tạo được khơng khí cần thiết cho ý
đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã bắt đúng giọng thì khơng cịn giản đơn là

viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo
nghệ thuật. Như dịng sơng Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn,
ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha :
"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại,
réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa
càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sơng lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".
" Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xn".
- Nguyễn Tn có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được miêu tả
trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ :
"Nước bể Cơ Tơ sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ? (...) Cái màu
xanh luôn luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ
vị của mỗi đứa tơi đang nổi gió trong lịng. Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối


non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vịng ? Nước biển Cơ Tô
đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết
Thanh Minh ? Ðúng một phần thơi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một
chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của
ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng khơng ? (...) Sóng
cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ thì
khơng tài nào tn ra kịp với nhịp sóng".
Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn đến người
đọc chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong
phú do cần cù tích lũy cả đời, với lịng u say mê tiếng mẹ đẻ. Khơng chỉ góp nhặt những
từ sẵn có, ơng cịn ln có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ

tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng khi vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu
hiện. Hãy xem cách ơng dùng hai từ "góa bụa" và "lõa lồ" :
"Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi
đến những ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm
chiều nay, tự nhiên tơi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa,
hồn tồn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa tất cả. Bát
cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".
"Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe cịn có thêm một hành
khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói
tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được".
Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc để trêu
ghẹo thiên hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét : "Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà
lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng.
Nguyễn cứ lập ngơn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì khơng bướng bỉnh sao
được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, khơng cịn cực đoan nữa, Nguyễn Tn dùng ngơn
từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và giáng
những đòn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ thù.
Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là
cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển
hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo
Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc
chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn ln giữ vẹn được
nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo
bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa
chói lịa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để
không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.
Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động
của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng của Vũ
Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ơng. Ơng xứng


đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim
hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu).


Khi Tổng thư ký Liên đoàn các nghệ sĩ Việt Nam là Đàm Quang Thiện đưa một nhóm
nghệ sĩ sang Hồng Công làm phimCánh đồng ma, Nguyễn Tuân cũng tham gia đóng một vai
phụ. Là một người có tâm hồn phóng túng, thích ngơng, Nguyễn Tn đã kết bạn vong niên
với thi nhân lừng danh Tản Đà. Có lần Nguyễn Tuân đến 71 phố Cầu Mới thăm Tản Đà, quà
mang theo là một bó đóm. Khi tiễn khách về, Tản Đà đã sẻ đôi bao diêm, biếu Nguyễn Tuân
một nửa cùng mấy câu thơ vừa ứng tác:
Đóm kia tuy chẳng là bao
Nhưng là tình nghĩa lẽ nào dám quên
Sẵn đây cịn có bao diêm
Tặng ơng một nửa cịn riêng tơi dùng.
Kỷ niệm ấy và bài thơ Tản Đà tặng, Nguyễn Tuân nhớ suốt đời, cho thấy ông trân trọng
Tản Đà đến ngần nào. Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn từ năm 1937, khi chơi thân với nhóm nhà
văn trong Ban kịch Hà Nội, với Vũ Trọng Phụng, và nhất là khi kết thân với Tản Đà. Ông viết
cho Tiểu thuyết thứ bảy những truyện ngắn đầu tiên.
Nhận xét về Nguyễn Tuân trước năm 1945, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Nguyễn Tuân là nhà
văn đứng riêng ra một phái. Những tập văn của ông không phải là tuỳ bút, cũng ngả về tuỳ bút
khơng ít thì nhiều. Ơng lại khơng thể nào bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất
cứ về việc gì, nên có nhiều đoạn lê thê… Tuy vậy, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng
thấy một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành
văn một cách hoàn toàn Việt Nam”.

Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một
chữ "ngông"

Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên
bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở
phương diện văn hố, mĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ơng đi tìm cái đẹp của thời xưa cịn vương sót lại và ơng gọi
là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai.Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ơng là nhà văn của những tính cách phi
thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ,
củagió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội......
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức
tinh tế và độc đáo về núi sơng cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý
thức sâu sắc về cái tơi cá nhân đã khiến Nguyễn Tn tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất
yếu
Nguyễn Tuân còn có đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.


Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông
vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ
đây ơng cịn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì
chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.

Quan niệm cái đẹp gắn liền với chất tài hoa tài tử.

Trong các sáng tác trước và cả sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn
Tuân thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả và thể hiện con
người. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp thườngđi đôi, gắn bó với cái tài, với chất
nghệ sỹ, điều này cũng thống nhất với nét tài hoa, nghệ sỹ trong con
người ơng.
Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tn tỏ lịng mến mộ, yêu quý
những con người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang

hồ. Ở những nhân vậy này, nhà văn chẳng nhữngkhai thác khía cạnh tài
hoa tài tử mà còn chú ý cả những điểm khác người, thậm chí đến mức lập
dị, cầu kỳ của họ. Truyện Đánh thơ nói về một đơi vợ chồng lãng tử mà
Nguyễn Tuân đã gọi họ bằng một cái tên trìu mến "Một lứa đôi tài tử". Mỗi
tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "Nghĩ đến việc làm
một cái tổ ở một chỗ nhất định nào". Ngay đến cả cái chết của kiếp con
người, chất lãng tử cũng thật đậm nét khiến cho Nguyễn Tuân vừangậm
ngùi thương tiếc lại vừa mến mộ : "Đi qua Hoành Sơn quan thấy cảnh đẹp,
lịng sinh tình, hai ơng mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la...
Trúng cơn gió độc, ơng Phó Sứ đã hóa ra ma chết sát ngay bên
đường thiên lý"
Cụ Hồ Viễn trong Ngôi mã cũ vốn xuất thân từ tướng Cờ Đen oai
phong lẫm liệt một thời nay vì thất thế mà trở thành một ông thầy địa lý
nhưng vẫn giữ được nét tài tử, nghệ sĩ. Nhân vật cô Tú trong truyện đã kể
cho đứa em nghe nhiều chuyện về cụ. Đó là một con người mà qua lời kể
của cô chị, cậu Chiêu "thấy cả một huyền sử bộc chung quanh một
tướng võ nghệ cao cường". Hình ảnh cụ Hồ lúc còn làm tướng Cờ Đen thật
oai phong lẫm liệt : "Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái
là một khẩu đoạn mã và phía bên phải là một khẩu súng thập bát
hưởng bắn một lúc được mười tám phát liền". Nhưng người ta còn nhớ đến
con người này bởi một phong thái ung dung, tài tử: "Những lúc việc quân
thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ "sường chí" có những quả
bơng đỏ, cầm quạt... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Viên tướng Cờ Đen
này lại có nét chữ viết rất đẹp, rất tốt "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá
thiếp... nét sổ rất khỏe và rất thẳng". Con người ấy, dù đã thất thế, vẫn cố


giữ một nét sinh hoạt cầu kì "Thuốc phiện, nếu khơng phải là thứ một lạng
đựng vào cóng thì khơng hút", vẫn để móng tay út lá lan "cuống hai vịng
như râu rồng" và mỗi bận rửa ta thì phải lại có vài quả chanh. Chất tài hoa

tài tử cịn được thể hiện trong chi tiết ông cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu đã đánh
với nhau mấy ván cờ không có qn đi, khơng có bàn bày trên đường đi...
Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là một mẫu người tải tử điển
hình. Ơng là "người có hoa tay" lại "thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên
"sống cuộc đời cũng như ngườita chơi bời mà thôi. Người ấy thật là
người khơng có lấy một giây phút trịnh trọng với nhân sinh. Ông ta sinh ra
để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái tài hoa của mình
ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình". Làm cơng việc dạy học mà
con người chịu ảnh hưởng nhiều của nhân sinh quan Lão Trang này khơng
mấy chú tâm, chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái lá
thuốc, ngắm trăng trên đỉnh Sài Sơn hoặc ẩn mình đối với nhân vật này.
Phải chăng đó là sự gặp gỡ, là hiện thân của chất tài tử, của chủ nghĩa xê
dịch trong Nguyễn Tuân ?
Nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không nhắc đến Huấn Cao trong
truyện ngắn Chữngười tử tù. Con người tài hoa ấy chẳng những có tài bẻ
khóa, vượt ngục mà con có tài "viết chữ rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả tỉnh
Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục đã từng ao ước "có
được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên đời". Thế nhưng khơng
dễ gì xin được chữ của ơng. Con người ấy đã từng nói với viên quản ngục
"Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối
bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho
ba người bạn thân của ta thơi". Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn
đã làm nổi bật lên một nhân cách cao vời vợi. "Con ngưởi này vừalà một
nghệ sỹ tài hoa vừa là một trang anh hùng dung liệt mặc dù chí lớn khơng
thành nhưng bao giờ tư thế cũng hiên ngang bất khuất" (Trần Hữu Tá). Đọc
truyện người ta dễ dàng nhận ra thái độ thán phục của Nguyễn Tuân trước
trang anh hùng dũng liệt này. Nhân cách, khí phách của Huấn cao thể hiện
trong cái vẻ lạnh lùng “thúc mạnh thành gông xuống đất đánh huỳnh một
cái” mà không thèm để ý đến những lời dọa nạt của mấy tên lính áp tải,
trong thái độ thản nhiên trước cái chết sắp cận kề, trong những lời nói thể

hiện quan niệm sống coi thường bạc vàng, quyền thế của ông. Nhung nhân
cách của Huấn Cao cịn được thể hiện trong việc ơng nhận ra sở thích cao
q của viên quản ngục. Chính vì thế, cảnh cho chữ phi thường mới diễn ra
trong chốn ngục tù: “ Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ cịn vẳng có
tiếng mõ trên trạm canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra
trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột phân gián”. Trong cảnh tượng lạ lùng này, viên quản ngục –
người nắm quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu mực. Cịn
Huấn Cao, tên tử tù sắp bị chém đầu thì ung dung, đĩnh đạc biết bao!
Khơng nghĩ gì đến cái chết đang đón đợi mình, Huấn Cao chỉ chú ý đến mùi


thơm của chậu mực, màu tinh khiết của bức lụa trắng và cuối cùng là lời
khuyên viên quản ngục hãy thay đổi chỗ ở để khỏi “Nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện”. Ở truyện ngắn này, quan niệm của Nguyễn Tuân thể hiện khá
rõ: cái tài phải di cùng với cái thiên lương trong sáng. Chính sự kết hợp
giữa cái tài, thiên lương và khí phách anh hùng đã làm nên nhân cách cao
vợi của Huấn Cao.

Cái đẹp mang tính chất duy mỹ
Như trên đã nói, Vang bóng một thời là minh chứng sinh động cho quan điểm “Nghệ thuật vị
nghệ thuật” của Nguyễn Tuân thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
Là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật trong đời, Nguyễn Tuân nhiều khi đã khơng
chú ý đến tính chất xã hội của hiện thực. Ông mải mê ca ngợi những cái đẹp thuần túy, mang
tính hình thức. Hai truyện ngắn Chém treo ngành và Ném bút chì là những ví dụ tiêu biểu cho
việc ca ngợi, phản ánh cái đẹp một cái duy mỹ của ông.
Truyện Chém treo ngành kể về một tên đao phủ tên là Bát Lê. Bát Lê là người “có tài chém
đầu người chỉ một nahst mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” như quan Tổng đốc đã
nhận xét về y. Cuộc chém đầu những kẻ phiến loạn được Bát Lê tập dượt bằng những buổi
chém những thân cây chuối trên một góc thành. Tiếng hát của Bát Lê cùng với tiếng những

thân chuối đổ trên mặt thành gây một cảm giác rờn rơn, chết choc. Nhà văn đã dừng lại khá
lâu để miêu tả cảnh Bát Lê tập lối chém treo ngành trong vườn chuối: “Bát Lê tiến thêm ba
bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu bên trái, Bát Lê thuận tay trái đà thanh quất, lại
chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thần hình
người quỳ chịu tội. Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê đã hát hết
mười bốn câu và đánh gục mười bốn chân cây chuối… Bát Lê quay mình lại, ngắm các cơng
trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫn cịn dính
vào phần gốc bởi một lần bẹ bị giập nát”. Buổi chém tử tù cũng được miêu tả với giọng văn
hiện thực, có phần bàng quan, lạnh lùng như vậy: “Bát Lê bắt đầu hoa khơng thanh quất mấy
vịng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái
âm thanh lơ lớ rờn rợn. Quan Cơng Sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù
và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun
lên phì phì, vọt lên cao trên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào
rụng xuống”. Vào những lúc nhộn nhạo quá đông tử tù, việc chém đầu người sẽ được tiến
hành theo một cách cịn “tài tình” hơn và tất nhiên cũng rùng rợn hơn. Người ta sẽ “Chẻ đôi
cây tre đực dài ra, cặp vào cổ từ tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Đại để
cũng giống như là cái lối cắp gắp chả chim mà nướng ấy”. Rồi đao phủ sẽ cầm gươm mà róc
ngang như người ta “róc mắt mía”…
Trong truyện ngắn Ném bút chì, Nguyễn Tn nói tới cái tài ném lưỡi mai chết người của Phó
Kình, của Lý Văn trong một đảng cướp. Chỉ với “cây bút chì”– lưỡi mai thơ sơ mà y (Phó
Kình) đã dám “chấp cả một ấp người”. Tài ném lưỡi mai của hạng người này có thể nói đã


được miêu tả như một thứ nghệ thuật: “Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải
vào cánh tay trái, bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững dốc nhọn mai…
Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gúc xuống mặt đất, kêu đánh roạt.” Còn đây
là những dòng miêu tả tài “ném bút chì” của Lý Văn: “Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra
kêu đánh vút. Một tiếng gà oang oác. Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai
chân. Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và gặp giò chưa lìa hẳn, vẫn cịn sinh
vào đùi bởi lần da hoen máu.” Lý Văn còn hứa hẹn với đồng bọn về một thứ “tài nghệ” mới: “

Để hôm nào rảnh anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh
đến đòn hỗn chiến thì đầu người cứ rụng như sung”.
Đọc những truyện ngắn loại này, nhiều người có cảm giác giọng văn của Nguyễn Tuân lạnh
lùng, tàn nhẫn làm sao! Tả cảnh chém đầu người giữa pháp trường mà giọng văn cứ lạnh
lùng, tình táo như khơng. Thực ra cần phải hiểu quan niệm của Nguyễn Tuân khi miêu tả hiện
thực. Phải chắng, với quan niệm “Viết văn không khuynh hướng”, Nguyễn Tuân chỉ chú ý ngợi
ca những cái đẹp mang tính hình thức chứ khơng mang tính tư tưởng ? Sự phiến diện trong
quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám là một hạn
chế lớn. ĐọcVang bóng một thời hay Tóc chị Hồi, Chiếc lư đồng mắt cua…, dễ thấy nhiều khi
Nguyễn Tuân tách rời ra khỏi cái đẹp có ích, đề cao cái đẹp một cách thuần túy. Trong Tóc chị
Hồi, Ngun Tn cũng đã từng tuyệt đối hóa cái đẹp của hình thức khi miêu tả mái tóc
người con gái. Ngay cả trong Chùa đàn – tác phẩm được viết sau 1945, người ta vẫn thấy
quan niệm nghệ thuật cũ của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Theo nhà văn, cái đẹp trước hết
phải gắn với cái tài. Với Nguyễn Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, khơng nhất thiết phải
xem cái tài đó có lợi hay khơng. Trong Chùa Đàn, nhà văn ca ngợi tiếng đàn oan nghiệt ma
quái: “Người ta vừa đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới
gốc nhạc khí.” Nếu gạt bỏ đi yếu tố ma quái trong truyện này, người đọc vẫn thấy rõ sự thán
phục của nhà văn trước tài đánh đàn của Bá Nhỡ và tiếng hát điêu luyện, ngọt ngào của cô
Tơ.
Những năm sau này, với những tùy bút nổi tiếng như Sông Đà và Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, thế
giới quan của nhà văn có nhiều thay đổi. Cái nhìn của nhà văn trở về nên tin u, đơn hậu,
khơng có cái vẻ khinh bạc như trước kia. Tuy nhiên, có một điều khơng thể thay đổi trong cảm
hứng thẩm mỹ của nhà văn. Nguyễn Tuân vẫn say sưa miêu tả, thể hiện cái tài của những
con người bình thường giản dị mà khơng giấu diếm sự thán phục của mình đối với họ.
Đọc Người lái đị sơng Đà trong tập tùy bút Sơng Đà mới thấy nhà văn đã dành bao nhiêu yêu
mến và thán phục trước người lái đò trên sống Đà. Trong thiên tùy bút này, người lái đò hiện
ra dưới ngịi bút của Nguyễn Tn vừa có cốt cách của một anh hùng lại vừa có phong thái
của một nghệ sỹ tài hoa, tài tử. Như vậy, chính quan niệm về cái đẹp vừa có tính chất nhất
qn vừa có sự biến đổi trong những tác phẩm sau Cách mạng tháng Tám nhưNgười lái đị
sơng Đà đã tạo nên một phong cách lớn Nguyễn Tuân.

Cái đẹp mang tính duy mỹ rõ ràng đã gây nhiều chú ý, thắc mắc ở người đọc khi đến
với Vang bóng một thời. Nhưng ở đây dường như cũng chứa đựng ít nhiều mâu thuẫn. Đồng
ý rằng nhà văn ít chú ý đến ý nghĩa xã hội của đời sống, chỉ quan tâm đến phương diện mỹ
học của sự vật và con người những sẽ lý giải như thế nào trước một Nguyễn Tuân giàu cảm
tình với cái “thiên lương” cao quý và một Nguyễn Tuân giàu tinh thần dân tộc? Chữ người tử


tù lâu nay đã được coi là một truyện tiến bộ. Truyện chẳng những thể hiện thái độ luyến tiếc
của nhà văn trước một nhã thú văn hóa cổ truyền đang dần lụi tàn – nghệ thuật thư pháp –
mà cịn nói lên rất nhiều khâm phục của tác giả đối với Huấn Cao, hình bóng của người anh
hùng Cao Bá Quát. Ngay cả những truyện được coi là đậm chất duy mỹ như Chém treo
ngành vẫn có thể khơi gợi nơi người đọc một sự căm thù sâu sắc đối với bè lũ thực dân và
tay sai của chíng. Chẳng phải là Nguyễn Tuân đã thể hiện một cách kín đáo thái độ của mình
qua đoạn văn miêu tả cơn lốc xoáy kỳ lạ giữa pháp trường làm hất tung chiếc mũ trên đều
quan Cơng Sứ đó sao? Như vậy, với quan niệm cái đẹp mang tính duy mỹ nói trên, Nguyễn
Tuân đã có nhiều khi tự mâu thuẫn với chính mình hay nói như nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Tuân đã “tự lừa dối mình trong những ngày tháng tuyệt vọng”. Nguyễn Tuân phức tạp
cũng chính là ở điểm này

Nghệ thuật tả cảnh và một hệ thống ngôn từ độc đáo.

Quan niệm về cái đẹp như trên đã quy định nghệ thuật tả cảnh và hệ thống ngôn từ
trong Vang bóng một thời.
Có thế thấy rõ trong tác phẩm không hiện diện những cảnh tượng huyên náo, rực rỡ màu sắc.
Cảnh vật được miêu tả trong tác phẩm khơng ít thì nhiều đều gợi về một thời xa vắng và như
một nhà phê bình đã viết, nó kéo con người ta trở về với quá khứ.
Đọc truyện, dễ nhận thấy một gam màu nhạt và ảm đạm bao trùm khắp trong tập truyện. Nhà
văn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua, mà
ngày nay người ta tưởng còn văng vẳng, và thấp thống đó là tất cả cái thê lương nó khởi
đầu những mẫu chuyện cổ thời”. Gam màu nhạt và ảm đạm này phù hợp một cách kỳ lạ với

khung cảnh những buổi chiều u ám: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mất con chim không tổ mỏi
cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Những thân chuối cao vút và tàu lá chuối
trống trải khơng đủ là nơi làm tổ, lồi chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành.
Vào tiết mưa dầm, những trận mưa ngâu đổ lên vườn chuối một khú nhạc suông nghe buồn
thỉu buồn thiu”. Đến gần cuối truyện, khơng khí ảm đạm u ám ấy còn được pha thêm màu sắc
dữ dội gây cảm giác bức bối, nặng nề báo hiệu chết chóc, đau buồn: “Trời chiều có một vẻ dữ
dội. Mặt đất thời sáng hơn là nền trời. Nền trời vẫn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình thù
qi lạ. Những bức tranh mây chói màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi
bức và sang gắt”. Chẳng cứ gì buổi chiều, ngay cả một buổi trưa hè cũng được tả với sự
buồn vắng, im lìm: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đối mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm
rung rinh lớn khơng khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vớn qua những màu
xanh bong lống của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất).
Truyện Báo ốn có lẽ là truyện có nhiều nhất những đoạn văn tả cảnh ảm đạm, thê lương và
thật đậm nét yếu tố ma quái như bản thân tên truyện. Sau đây là một ví dụ: “Mùa mưa dấm
tháng chin chỉ là những giọt nước mắt triền mien than vãn của kỳ thất tịch cịn sót lại mãi đến
bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam Hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ, trên đó nhấp


×