Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nghiên cứu ứng dụng một số bài tập trò chơi vận động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh nam khối 5 trường tiểu học “Trần Quang Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.14 KB, 59 trang )

-1-

PHẦN MỞ ĐẦU
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để
tiến tới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phấn đấu mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bên cạnh việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, chúng ta cần phải xây dựng một đội ngũ lao động có năng
lực cao: bao gồm cả hai mặt trí tuệ và thể chất. Để đáp ứng việc thực hiện
mục tiêu trên, trong đó TDTT, GDTC đóng vai trị quan trọng. Bởi lẽ TDTT,
GDTC là nhằm tăng cường sức khỏe và phát triển thể chất, tác động tích cực
đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người cũng như tố chất thể lực,
phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, lối sống.
Trong cuộc sống con người, sức khoẻ đóng một vai trị hết sức quan
trọng. Nó là nguồn tài sản q giá nhất của mỗi người và của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy Bác Hồ đã kêu gọi tồn dân tập thể dục, trong đó có đoạn viết:
“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có
sức khoẻ mới thành cơng. Mỗi người yếu ớt tức làm cho cả nước yếu ớt, mỗi
người dân khoẻ mạnh tức góp phần làm cho cả nước mạnh khoẻ…”
Xây dựng chiến lược phát triển con người về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là mục đích của tồn
Đảng, tồn dân ta. Trong đó giáo dục cũng như giáo dục thể chất đóng vai trị
hàng đầu về đào tạo con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa.
Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói
chung, của giáo dục thể chất và thể thao học đường nói riêng. Thực tiễn trên
địi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải tìm ra giải pháp, xây dựng chương
trình đồng bộ nhằm: “Cải tiến nâng cao chất lượng Giáo Dục Thể Chất, phát
triển và bồi dưỡng năng khiếu thể thao của học sinh trong nhà trường phổ
thông”.



-2-

Giáo dục thể chất ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền giáo dục
của nước ta. Mục tiêu của giáo dục thể chất là đào tạo con người phát triển
toàn diện, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước phải hội đủ những
phẩm chất tài đức vẹn tồn, nhằm đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Để phát triển tồn diện thì con người khơng thể chỉ giới hạn ở tri thức,
mà cịn địi hỏi phải phát triển về thể chất. Mục tiêu của giáo dục thể chất là
phát triển toàn diện các nhân tố thể lực, nâng cao sức khỏe, nâng cao thành
tích thể thao, đồng thời góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Chính vì
vậy, trong những năm gần đây, bộ giáo dục và đào tạo đã không ngừng
nghiên cứu cải tiến nội dung, đổi mới phương pháp giảng dạy trong các mơn
học nói chung, trong đó có mơn Thể dục nói riêng.
Nhận thức được vấn đề cần thiết trong việc hoàn thiện thể chất cho học
sinh, một số trường đã được vận dụng một cách sáng tạo nội dung chương
trình phù hợp với điều kiện cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục thể
chất trong nhà trường phổ thông.
Một trong những cải tiến về nội dung và chương trình dạy học ở nhà
trường là tăng cường đưa trò chơi vận động vào giờ học thể dục. Trò chơi vận
động làm kích thích tính tự giác tích cực của học sinh giúp các em nâng cao
thể lực, vận động chính xác, khéo léo, phản ứng nhanh nhẹn, linh hoạt. Ngồi
ra cịn bồi dưỡng cho các em những đức tính như: Trung thực, dũng cảm, ý
thức tổ chức, kỷ luật, đoàn kết, tương trợ, tinh thần đồng đội, xây dựng thói
quen rèn luyện thân thể, đồng thời làm cho khơng khí lớp học thêm vui tươi,
sơi nổi.
Như vậy tác dụng của trị chơi vận động là rất lớn. Nó không chỉ đem lại
sự hứng thú trong học tập cho học sinh mà cịn giúp cho các em phát triển
tồn diện về thể chất. Chính vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề



-3-

tài: “Nghiên cứu ứng dụng một số bài tập trò chơi vận động nhằm phát
triển các tố chất thể lực cho học sinh nam khối 5 trường tiểu học “Trần
Quang Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh”.
Mục đích nghiên cứu
Nhằm lựa chọn, xác định một số bài tập trò chơi vận động để phát triển
thể lực, đồng thời nâng cao chất lượng giảng dạy thể dục cho các em học sinh
khối lớp 5 trường tiểu học Trần Quang Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Để đạt được mục đích trên, chúng tơi tiến hành giải quyết các mục tiêu
sau:
MỤC TIÊU 1: Lựa chọn, xác định một số bài tập trò chơi vận động
nhằm phát triển thể lực cho học sinh nam khối 5 trường tiểu học Trần Quang
Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
MỤC TIÊU 2: Đánh giá hiệu quả ứng dụng của một số bài tập trò chơi
vận động nhằm phát triển thể lực của học sinh nam khối 5 trường tiểu học
Trần Quang Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.


-4-

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1.

Sơ lược lịch sử các vấn đề nghiên cứu
Giáo dục thể chât là một bộ phận của nền văn hóa xã hội là di sản q


giá của lồi người, là sự tổng hòa những thành tựu xã hội trong sự nghiệp
sáng tạo và sử dụng những biện pháp chun mơn để hồn thiện thể chất nâng
cao sức khỏe con người.
Chăm lo cho con người về thể chất và tinh thần là trách nhiệm của tồn
xã hội là cơng việc của tồn xã hội là cơng việc vơ cùng quan trọng, là một
khâu, một công đoạn quan trọng trong chiến lược đào tạo con người cho đất
nước.
Đóng góp cho việc phát triển con người toàn diện, giáo dục thể chất có
vai trị quan trọng trong nhà trường nó mang ý nghĩa quyết định là bảo vệ và
tăng cường sức khỏe cho học sinh.
Một trong những mục đích của giáo dục thể chất trong nhà trường phổ
thông là từng bước hoàn thiện về cấu trúc và chức năng cơ thể các em, để khi
các em trưởng thành, trở thành người phát triển tồn diện. Thơng qua giáo
dục thể chất cịn giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, bồi dưỡng tinh thần tập
thể, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm việc có khoa học trong đời sống.
Nếu làm tốt công tác giáo dục thể chất trong trường phổ thơng sẽ phịng ngừa
cho các em nhiều bệnh tật, tăng cường sức khỏe cho các em.
Có nhiều cơng trình khoa học trên thế giới chứng minh giáo dục thể
chất có khả năng góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho thế hệ trẻ.
Chính vì vậy, giáo dục thể chất được đưa vào trường ở hầu hết các nước trên
thế giới.
Qua nhiều năm nghiên cứu, thực nghiệm, một số cán bộ khoa học, viện
nghiên cứu khoa học Thể Dục thể thao Liên Xô củ X.Xgiosbenkop phụ trách


-5-

đã đưa ra kết luận: “Kết quả học tập của nhóm học sinh tham gia tập luyện thể
dục thể thao tăng 12%. Trong khi đó kết quả học tập của học sinh khác tăng
6%. Đáng chú ý là hiện tượng mỏi mệt nhiều và kết quả học tập giảm sút

thượng có ở cuối kỳ và cuối năm khơng biểu hiện ở các em có chế độ tập
luyện thể dục thể thao đầy đủ…”
Ở Việt Nam, có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này như: PGSTS Trịnh Trung Hiếu, TS Nguyễn Ngọc Can và Bác sỉ Đinh Ký tại trường cấp
I, II, III Tân Thuật , Kiến Xương, Thái Bình cũng có kết luận như trên. Vị trí
và tác dụng của giáo dục thể chất rất lớn, nó khơng những đem lại sức khỏe
cho học sinh mà cịn góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, cho nền
giáo dục thể chất không thể thiếu được trong trường học ở các nước.
Trong những năm qua có nhiều cơng trình nghiên cứu về các vấn đề:
Cơng trình nghiên cứu về thể chất cho học sinh (Bộ Giáo Dục năm (19651966).Đáng chú ý là cơng trình nghiên cứu về dạy thể dục của (PGS-TS Trịnh
Trung Hiếu, TS Vũ Huyên năm 1978-1985).
Từ công tác giáo dục thể chất ở các nước tiêu biểu có thể rút ra những
nhận xét như sau: Công tác giáo dục thể chất cho học sinh trong trường học
đều nhằm mục đích nâng cao sức khỏe, thể lực cho thế hệ trẻ và xem đây là
chiến lược của mỗi quốc gia. Chương trình giáo dục thể chất quy định nội
dung và thời lượng mơn học, hình thức tổ chức giáo dục thể chất ở mổi nước
có đặc điểm riêng. Nhìn chung các nước đều chú trọng (1/3 dến 1/2 chương
trình quy định), hình thức tổ chức giáo dục thể chất ngoài giờ học đa dạng,
thiết thực cũng được quan tâm có tác dụng khuyến khích người tập.
1.2.

Cơ sở lý luận về giáo dục thể chất.
Giáo dục thể chất là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một di

sản quý giá của loài người và là sự tổng hòa những thành tựu xã hội trong sự
nghiệp sáng tạo và sử dụng những biện pháp chuyên môn để hoàn thiện thể


-6-

chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc kéo dài tuổi thọ cho con

người. Quá trình giáo dục thể chất, hình thái và chức năng, các cơ quan trong
cơ thể được từng bước hoàn thiện, các tố chất thể lực được phất triển hơn,
các kỹ năng, kỹ xảo vận động được hình thành và phát triển, giáo dục thể
chất có vai trị quan trọng trong việc hồn thiện năng lực vận động của con
người.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay khơng chỉ
nói lên sức khỏe đơn thuần của một người dân, một nước, mà còn là biểu hiện
sự cường thịnh của nền kinh tế, văn hóa xã hội của một nước. Thể dục thể
thao cải tạo nịi giống, tăng dần tầm vóc của người dân. Ở các nước tiên tiến
công tác giáo dục thể chất cho thanh niên học sinh được chú trọng hàng đầu
và điều đó nói lên sự phát triển vững chắc của nền thể dục thể thao nước đó.
Ở nước ta công tác thể đục thể thao và giáo dục thể chất đã được Đảng và
Nhà nước luôn luôn quan tâm và là mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Mục tiêu đó là bảo vệ nâng cao sức khỏe và thể chất nhân
dân, chống suy dinh dưởng cho trẻ em, tăng chiều cao cân nặng của thế hệ trẻ
và tuổi thọ trung bình của người Việt Nam.
Sự phát triển thể chất và sự phát triển trí tuệ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sự lớn lên và phát triển trí tuệ địi hỏi có sự phát triển thể chất tương ứng.
Xuất phát từ các vấn đề trên Bộ Giáo dục – Đào tạo, từ năm 2001 đã có thay
đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu
hiện nay và kích thích người học. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả công tác
giảng dạy, việc tổ chức giảng dạy tốt môn thể dục thể thao trong nhà trường là
trách nhiệm của các thầy, cơ giáo chẳng những góp phần vào việc nâng cao
sức khỏe cho học sinh, nhằm cải tạo nòi giống mà còn là nền tảng hết sức
vững chắc cho thành tích học tập lao động trước mắt cũng như sau này của
học sinh..Qua những năm công tác giảng dạy ở trường, bản thân rút ra được


-7-


trong giảng dạy, muốn cho ngưới học hiểu, biết và ham thích học mơn học
của mình thì người dạy biết kích thích người học ham thích và phát huy hết
khả năng tự có của bản thân. Từ đó mới đạt mục tiêu giáo dục, mà muốn đạt
được như thế thì người dạy ln thay đổi hình thức tập luyện cho thật phong
phu và đa dạng, nên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu một số trò chơi vận
động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh nam khối 5 trường tiểu
học Trần Quang Vinh, Quận Bình Thạnh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
1.3. Đặc điểm tâm, sinh lý và giải phẫu của học sinh tiểu học:
1.3.1 Đặc điểm tâm lý:
Ở lứa tuối này các em có những biến đổi quan trọng trong cuộc sống, lao
động, học tập, do đó những đặc điểm tâm lý thể hiện qua các hoạt động về
nhận thức, tình cảm, cảm xúc… có những thay đổi cơ bản.
So với lứa tuổi mẫu giáo, mối quan hệ giao tiếp, quan hệ xã hội của học
sinh tiểu học có những thay đổi và biểu hiện rõ các nội dung và hình thức
giáo dục khác nhau.
Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, học tập đã trở thành những hoạt động
chủ đạo. Sự say mê học tập chưa thể hiện đó là nhận thức trách nhiệm với
tồn xã hội, mà là chủ yếu các động cơ mang ý nghĩa tình cảm như: được
thầy, cơ, ơng bà, bố mẹ, anh chị khen ngợi và động viên. Do đó các em cố
gắng học tập vì tình yêu thương, chăm lo của ông bà, bố mẹ, anh chị…; học
tốt để được khen ngợi để trở thành “cháu ngoan Bác Hồ”.
Để hình thành các hiểu biết, kiến thức các em thường học thuộc lịng
từng câu, từng chữ. Để hình thành kỹ năng vận động các em thường bắt
chước, cố gắng làm theo các động tác, điệu bộ hành vi của giáo viên.
Trong giảng dạy TDTT, do tư duy của các em vẫn cịn mang tính chất
hình ảnh cụ thể nên các em sẽ tiếp thu dễ dàng và nhanh chóng hơn đối với
các khái niệm có kèm theo hình ảnh trực quan. Do vậy khi giảng dạy TDTT,


-8-


ngồi việc phân tích, giảng giải kỹ thuật động tác, nhất thiết giáo viên phải
làm mẫu và sử dụng rộng rãi các hình thức trực quan khác.
Hoạt động vui chơi đối với học sinh nói chung đặc biệt là học sinh tiểu
học là một yêu cầu hết sức cần thiết, đây là nhu cầu tự nhiên và cấp thiết
không thể thiếu được trong cuộc sống và trong học tập của trẻ. Thông qua các
hoạt động vui chơi mà tạo nên các hình thức giáo dục tri thức, đạo đức thẩm
mỹ và hoàn thiện sự phát triển cơ thể của các em. Mặt khác, hình thức hoạt
động vui chơi cịn giúp các em giải tỏa sự “căng thẳng”, “dồn ép” thời gian
khá nhiều cho học tập, hồi phục khả năng làm việc, hồi phục sức khỏe, góp
phần duy trì tính tích cực - tự giác, lòng hăng say học tập, lao động tạo tâm
hồn tươi trẻ cho các em.
Về mặc tình cảm, thái đọ cư xử trong sinh hoạt, học tập.. của học sinh
tiểu học chưa ổn định. Các em thường hay xúc động, thay đổi tâm trạng vui
buồn trong cùng một hoạt động, một thời điểm.
Các phẩm chất tâm lý như: tính độc lập, sự tự kiềm chế, tự chủ còn thấp.
1.3.2 Đặc điểm sinh lý:
 Đặc điểm hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, nhịp tim nhanh (mạch đập thông thường là:
85-90 lần/phút). Khi hoạt động vận động hoặc có trạng thái lo lắng… thì nhịp
tim đập nhanh hơn, dồn dập hơn.
Lượng máu mỗi lần tim co bóp đưa vào động mạch (lưu lượng tâm thu)
được tăng dần:
- Ở lứa tuổi 7- 8, lưu lượng tâm thu là: 23ml
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, nếu các em phải chịu đựng hoạt động lao
động, học tập, tập luyện thể dục thể thao hoặc vui chơi quá sức và kéo dài,
dẫn đến tim phải làm việc quá tải sẽ phát sinh bệnh tim - mạch hoặc các bệnh
khác.



-9-

 Đặc điểm hệ hô hấp:
Ở lứa tuối học sinh tiểu học, hệ hơ hấp đang ở thời kỳ hồn thiện, các em
đang dần dần tạo nên thói quen chuyển từ thở kiểu bụng sang thở kiểu ngực,
lồng ngực phát triển chưa hoàn thiện.
Độ giãn nở của các phế nang (túi phổi) cịn thấp nên nhịp thở cịn nơng.
Số lượng phế nang tham gia mỗi lần hơ hấp cịn ít, nên lượng oxi được đưa
vào máu khơng cao.
Lượng khơng khí chứa đựng trong phổi còn thấp (ở trẻ 8 tuổi là: 1.699
lít, ở người trưởng thành là: 4 lít), do vậy, phổi của các em phải thường xuyên
làm việc khẩn trương mới cung cấp đủ oxi cho cơ thể.
Về lượng thơng khí phổi (thể tích khí mỗi lần hít vào hoặc thở ra bình
thường), dung tích sống (thể tích khí thở ra cố gắng, sau khi hít vào hết sức)
được tăng dần theo sự phát triển lứa tuổi của trẻ.
Tần số hơ hấp (số lần thở ra-hít vào trong 1 phút) của học sinh tiểu học
tương đối cao. Do đó, khi hoạt động vận động (tập luyện TDTT) với lượng
vận động vừa phải thì nhịp thở đã tăng lên cao, các em dễ mệt mỏi sớm
chuyển sang thở gấp, đòi hỏi phải có thời gian nghỉ ngơi phù hợp với lứa tuổi
các em.
 Đặc điểm hệ thần kinh:
Hoạt động phân tích và tổng hợp của học sinh kém nhạy bén, nhận thức
các hiện tượng biến đổi của xã hội còn mang tính chủ quan, cảm tính, bị
động…
Ở lứa tuổi này các em có khả năng bắt chước một cách máy móc, khả
năng phân biệt, tính sáng tạo cịn hạn chế. Lứa tuổi này thường có một số loại
hình thần kinh sau:


- 10 -


- Loại mạnh – thăng bằng: hưng phấn bình thường, thể hiện trạng thái
sức khỏe tốt, các em này có khả năng hình thành phản xạ nhanh, có tình cảm
sâu sắc, bình tĩnh, tự tin, mức độ tập trung cao, trí nhớ tốt…
- Loại mạnh – hưng phấn: hưng phấn mạnh, dễ bị kích thích, chóng thích
nhưng cũng chóng chán, thành lập phản xạ nhanh nhưng cũng dễ phá vỡ, khả
năng tập trung tư tưởng kém…
-Loại yếu (thụ động): là những học sinh nhút nhát, khả năng phản ứng
kém, trí nhớ kém phát triển, khó thành lập phản xạ có điều kiện…
1.3.3. Đặc điểm hệ cơ – xương
 Hệ cơ
Cơ của các em có chứa nhiều nước, tỉ lệ các chất đạm, mỡ cịn ít nên khi
hoạt động chống mệt mỏi.
Sức mạnh ở lứa tuổi này còn rất hạn chế, giới hạn sinh lý về khả năng
chịu đựng mà các em mang vác được tương đối nhỏ khoảng 5kg ở lứa tuổi 12.
Các nhóm cơ to phát triển sớm hơn nhóm cơ nhỏ, do khả năng phối hợp
vận động ở học sinh tiểu học nói chung cịn rất kém. Lực cơ được tăng dần
theo lứa tuổi. Với các học sinh nam 7 tuổi thì lực cơ trung bình là 4 -7 kg, 12
tuổi là 11,3 – 13,9 kg. Ở lứa tuổi này cơ phát triển còn thiếu cân đối nên khả
năng phối hợp vận động còn kém.
 Hệ xương:
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tốc độ phát triển của xương nhanh hơn so
với các bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là xương ở tay và chân.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học , các đốt xương ở cột xương sống có độ dẻo
cao, chưa thành xương hồn tồn và cịn ở trong giai đoạn hình thành đường
cong sinh lý. Do đó, những tư thế ngồi, đứng, đi lại, chạy, nhảy… không phù
hợp với cấu trúc tự nhiên và giải phẫu sẽ dễ làm cong vẹo cột sống, gây ảnh


- 11 -


hưởng không tốt tới sự phát triển của lồng ngực và cấu trúc tương đối của
toàn thân. Ở độ tuổi 20-25 xương sống mới được cốt hóa hồn toàn.
1.4. Đặc điểm tố chất thể lực của học sinh lứa tuổi học sinh tiểu học:
Tố chất thể lực là sự biểu hiện tổng hợp của hệ thống chức năng các cơ
quan cơ thể. Tố chất thể lực tăng trưởng theo sự tăng trưởng của lứa tuổi, sự
tăng trưởng này gọi là sự tăng trưởng tự nhiên, khuynh hướng của sự tăng
trưởng có tốc độ nhanh, biên độ lớn trong thời kỳ dậy thì.
Tố chất thể lực là năng lực cơ bản của cơ thể con người, khi nghiên cứu
các tố chất thể lực: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sự mềm dẻo và khéo léo.
Chúng ta thấy rằng trong quá trình phát triển tự nhiên, các tố chất thể lực tăng
theo lứa tuổi. Ở học sinh nam chúng theo 3 giai đoạn : giai đoạn tăng nhanh,
giai đoạn tăng chậm và giai đoạn ổn định. Tố chất thể lực từ giai đoạn tăng
nhanh chuyển qua giai đoạn ổn định theo thứ tự phát triển như sau: tố chất
nhanh phát triển đầu tiên, sau đó tố chất mạnh và cuối cùng là tố chất bền,
quy luật này ở nam và nữ giống nhau.
Các tố chất thể lực thường thể hiện trong khi làm động tác và phụ thuộc
vào cấu trúc của động tác. Ngoài ra việc thể hiện đặc điểm của các tố chất còn
phụ thuộc vào trạng thái của người tập và điều kiện khi thực hiện động tác.
Rèn luỵên các tố chất thể lực cần phải thông qua q trình tập luyện bằng một
hệ thống chun mơn. Hệ phương pháp ấy phải xây dựng trên cơ sở hiểu biết
về phản ứng của cơ thể. Như vậy, để rèn luyện và phát triển các tố chất cho
học sinh trong môn học TDTT chúng ta cần phải quan tâm, vào việc phát triển
đầy đủ các tố chất nhanh, mạnh, bền và tố chất mềm dẻo – khéo léo.
 Sức nhanh :
Sức nhanh là khả năng thực hiện một hành động trong khoảng thời gian
ngắn nhất. Biểu hiện của nó có 3 hình thức : thời gian tiềm phục (nhanh phản
ứng) đối với động tác, vận tốc của một động tác (nhanh vận tốc), và tần số



- 12 -

động tác (nhanh chu kỳ). Sức nhanh phụ thuộc vào tính linh hoạt của hệ thống
thần kinh, phụ thuộc vào sức mạnh, sức bền, sự hoạt động nhịp nhàng của cơ
bắp và các nhân tố sinh lý, tâm lý, sinh hóa khác. Lứa tuổi học sinh THCS
đang trong giai đoạn sức nhanh phát triển thuận lợi nhất, nếu khơng tăng
cường tập luyện tới mức cao thì sau này sức nhanh của các em sẽ phát triển
khó khăn. Cho nên khi tập luyện để phát triển toàn diện các mặt thể lực cần
chú ý phát triển sức nhanh. Khi tập luyện các môn cần chú ý các đặc điểm
sau:
Tập lặp đi lặp lại với vận tốc nhanh.
Yêu cầu học sinh làm theo nhanh khi giáo viên thay đổi cách thực hiện
bài tập hoặc thay đổi hoàn cảnh xung quanh.
Dùng nhiều tín hiệu đột ngột và yêu cầu học sinh làm theo.
Dùng nhiều phương pháp trò chơi, lợi dụng địa hình, địa vật để tập luyện
như chạy ở đường dốc để tăng tốc độ chạy.
Có thể giảm bớt thời gian, cự ly, độ nặng của dụng cụ để yêu cầu tăng
nhịp độ động tác.
Sắp xếp nội dung và yêu cầu tập sức nhanh lúc hưng phấn của hệ thần
kinh ở trạng thái tốt nhất, vì đó là điều kiện quan trọng để sức nhanh biểu hiện
cao.
Giữa mỗi lần tập động tác cần được nghỉ thích đáng để cơ thể kịp hồi
phục nhưng khơng nghỉ q dài làm giảm tính hưng phấn của hệ thần kinh.
 Sức mạnh :
Sức mạnh của cơ thể là năng lực khắc phục sức cản ở bên ngồi nhờ sự
vận động của cơ bắp. Do tính chất hoạt động, con người biểu hiện sức mạnh ở
nhiều trạng thái khác nhau : hoạt động tĩnh hoặc chậm gọi là sức mạnh vận
tốc, trong đó có sức mạnh khắc phục và sức mạnh nhượng bộ, một bộ phận cơ
thể hoạt động gọi là sức mạnh cục bộ. Nhiều bộ phận cơ thể cùng hoạt động



- 13 -

gọi là sức mạnh toàn thân; Sức mạnh với một trị số lớn trong một thời gian
ngắn nhất gọi là sức mạnh bột phát. Sức mạnh lớn nhất phụ thuộc vào những
đặc điểm sinh cơ học của động tác, mặt khác vào số lượng tham gia và sự cố
gắng của nhóm cơ bắp, sự điều tiết của hệ thần kinh đối với các nhóm cơ đó.
Nhiệm vụ của giáo viên thể dục là thúc đẩy sự phát triển toàn diện và lâu bền
của sức mạnh, phát triển năng lực sử dụng sức mạnh một cách hợp lý, có hiệu
quả trong những hình thức, điều kiện hoạt động khác nhau. Trong khi tập
luỵên các môn, muốn nâng cao sức mạnh thì cần chú ý những đặc điểm sau :
- Tăng thêm vật nặng khi làm động tác như: bao cát, tạ tay, …
- Tạo ra điều kiện khó khăn yêu cầu học sinh khắc phục như: chạy ngược
chiều gió, chạy trên đường cát xốp dày, …
- Tập những động tác phải khắc phục trọng lượng cơ thể như : nằm sấp
chống đẩy, kéo tay xà đơn, …
- Tập những động tác có tính chất đối kháng như : kéo đẩy giữa 2 người,
các kiểu vật, …
Những vật nặng, động tác, điều kiện để tập luyện sức mạnh nên sử dụng
ở mức độ trung bình và trên trung bình, tức là với mức độ đó học sinh có thể
hồn thành động tác tương đối nhiều lần.
Cần tập những động tác phát triển sức mạnh động lực, sức mạnh phối
hợp, tránh tập sức mạnh tĩnh lực và tập quá nhiều sức mạnh bộ phận.
Thay đổi tư thế cơ thể khi tập động tác sẽ ảnh hưởng tới nhiều nhóm cơ
bắp khi tập động tác đó và bài tập khơng đơn điệu dễ kích thích tính tích cực
tập luyện của học sinh.
Tập sức mạnh phải kết hợp với thở, giữ vững nhịp thở và thở sâu là yêu
cầu mà giáo viên cần ln nhắc nhở học sinh thực hiện, tránh nín thở hoặc thở
không tự nhiên.



- 14 -

Sau mỗi lần tập sức mạnh cần chú ý thả lỏng cơ bắp vừa nâng cao sức
mạnh, vừa nâng cao tính đàn hồi của cơ bắp.
 Sức bền :
Sức bền là năng lực hoạt động có hiệu quả trong một thời gian dài. Do
hoạt động lâu, cơ thể xuất hiện mệt mỏi, khả năng hoạt động tạm thời giảm
sút, năng lực chống lại sự mệt mỏi đó để duy trì hoạt động cũng được gọi là
sức bền. Sức bền bao gồm: sức bền chung, sức bền vận tốc, sức bền lực lượng
và sức bền tĩnh lực. Trong đó, sức bền chung có ý nghĩa rất lớn tới các loại
sức bền. Tuy nhiên, cũng cần có mức độ để nâng cao sức bền vận tốc và sức
bền lực lượng. Sức bền tĩnh khoảng 14 tuổi bắt đầu phát triển mạnh, nếu
khơng được tập luyện, tốc độ của nó sẽ giảm đi, về sau khó nâng cao. Các
mơn có nhiều tập luyện mang tính chất sức bền tĩnh như thể dục dụng cụ, cần
phải đưa những động tác tĩnh dạy xen kẽ với động tác động để phát triển sức
bền một cách toàn diện.
Trong tập luyện phát triển sức bền cần chú ý các đặc điểm sau :
Sử dụng phương pháp tập luyện đều đặn, thường dùng các môn đi bộ,
chạy để tập trong thời gian dài có cường độ trung bình và nhịp độ đều đặn
hoặc lặp lại nhiều lần liên tục trong thời gian dài như : đứng lên ngồi xuống,
nằm sấp chống tay, … Sử dụng phương pháp lặp lại và biến đổi tức là lặp lại
nhiều lần một động tác, một cự ly nhất định hoặc có thay đổi, mỗi lần lặp lại
có nghỉ giữa quãng nhất định và biến đổi.
Nội dung và phương pháp tập luyện sức bền cần kết hợp chặt chẽ với đặc
điểm của từng môn tập. Thời gian, cự ly, số lượng, trọng lượng của dụng cụ
cần nâng cao dần mới có tác dụng phát triển và củng cố sức bền.
Sức bền phụ thuộc rất lớn vào cơ quan hô hấp. Trong tập luyện cần dạy
cho học sinh thở đúng, giữ vững nhịp thở, thở sâu và cần chú ý nhiều đến thở
ra. Địa điểm tập nên thoáng, sạch, mát mẻ.



- 15 -

Tập sức bền địi hỏi phải duy trì hoạt động đơn điệu trong thời gian dài.
Vì vậy, giáo viên cần chú ý giáo dục tính kiên trì chịu đựng, ý chí khắc phục
khó khăn cho học sinh. Có thể dùng phương pháp thi đấu, phương pháp trò
chơi để kích thích học sinh tập luyện.
 Khéo léo :
Sức khéo léo là loại năng lực tổng hợp phức tạp của con người khi hoàn
thành động tác. Sự khéo léo phụ thuộc vào tính linh hoạt của hệ thần kinh, sự
hoạt động của các cơ quan phân tích, nhất là cơ quan phân tích vận động.
Năng lực phân tích càng chính xác càng hồn thiện thì khả năng tiếp và biến
đổi động tác càng cao. Muốn rèn luyện tố chất khéo thì phải tập luyện chính
xác các bài tập mà người tập sẽ sử dụng trong thi đấu và kiểm tra. Vì tố chất
khéo léo rất kém khả năng “chuyển”. Cho nên trong quá trình tập người tập
cần tập lặp lại nhiều lần các động tác mang tính chất khéo léo. Vì thế, trong
quá trình giảng dạy chúng ta nên căn cứ vào các đặc điểm phát triển các tố
chất thể lực để dùng phương pháp tập luyện thích hợp và khoa học giúp học
sinh có cơ hội được tập luyện và phát triển các tố chất thể lực.
Để phát triển nhanh và kịp thời sức khéo léo ở lứa tuổi này cần chú trọng
các điểm sau đây :
Làm phong phú thêm những kỹ năng mới một cách thường xuyên, nên
sắp xếp các giờ học đều có nội dung mới hoặc tập động tác có những yếu tố
mới. Khi đã nắm được động tác cần thay đổi luôn hoặc thay đổi đột ngột
những tình huống thực hiện.
Chỉ dẫn kịp thời và chính xác mức độ hồn thành động tác của học sinh
làm cho các em có cảm giác động tác tốt, phân biệt động tác đúng hay sai,
mức độ đúng sai và tự điều chỉnh.



- 16 -

Khối lượng vận động khi tập luyện khéo léo cần nâng cao dần độ khó để
học sinh có thể thực hiện phối hợp được như : độ chính xác động tác, sự phối
hợp giữa các động tác, những biến đổi đột ngột hoàn cảnh thực hiện.
Các bài tập khéo léo thường làm cơ thể học sinh mệt mỏi nhanh, nên cần
cho học sinh nghỉ thích đáng sau mỗi lần tập đủ để có thể phục hồi hồn tồn.
Phương pháp giảng dạy, thủ thuật tiến hành phải rất phong phú nhằm
kích thích khả năng phối hợp vận động của học sinh ở mức độ cao.
Tóm lại, phát triển thể lực hoc học sinh là một yêu cầu không thể thiếu
trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải coi trọng một cách đồng thời với
các yêu cầu khác, cần sử dụng nhiều phương pháp thích hợp để học sinh có
nhiều cơ hội được tập luyện nâng cao thể lực. Tuy nhiên, quá trình phát triển
các loại thể lực là q trình lâu dài, tồn diện, khoa học khơng thể nơn nóng,
phiến diện, tùy tiện. Giáo viên nên xuất phát từ tình hình đặc điểm của học
sinh và những diễn biến cụ thể của nó từ trong khn khổ thời gian và điều
kiện giảng dạy cho phép để xác định mức độ, tìm chọn các thủ thuật phát triển
thể lực và bồi dưỡng ý chí cho học sinh.
1.5 Khái quát về trò chơi vận động.
1.5.1 Nguồn gốc và sự phát triên của trò chơi vận động
Trong lịch sử xã hội lồi người, đã có một thời kỳ kéo dài con người
phải sống bằng săn bắt và hái lượm. Không những thế, để tồn tại và phát triển,
con người còn phải chống lại sự tấn công của muôn thú và các hiện tượng tự
nhiên như: mưa, nắng, giông, bão, lũ, lụt, núi lửa phun, động đất và bệnh
tật.v.v… Trong cuộc sống đầy khó khăn gian khổ, con người phải vất vả lao
động, đấu tranh để sinh tồn, đó cũng chính là những cuộc đọ sức, thi đấu giữa
con người với muôn thú, với tự nhiên và môi trường xung quanh về sức
mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo linh hoạt, tài trí và sự dũng cảm. Chính
trong cuộc sống sinh tồn ấy, nhiều khi con người phải trả giá rất đất bằng



- 17 -

chính sinh mạng của mình, nhưng cũng nhờ đó con người đã có những bài
học q giá. Thơng thường sau một ngày lao động và đấu tranh vất vả vì cuộc
sống, mọi người thường tụ tập nhau để đón mừng những thành quả lao động
của mình. Trong những cuộc vui chơi như vậy những người tạo ra những
thành quả đó thường diễn tả lại những cơng việc chính đã làm bằng lời và
những động tác quyết định mà nhờ đó con người đã thắng thiên nhiên, thắng
động vật để đem lại những thành quả. Ví dụ như những thao tác chạy rượt
đuổi các con vật rồi dùng đá và vũ khí thơ sơ đã chuẩn bị trước, hoặc mới tìm
được để ném vào con vật, hoặc những thao tác leo từ cành cây này sang cành
cây khác để hái quả; hoặc lội, bơi, lặn để bắt các động vật dưới nước.v.v..
những thao tác đó được nhiều người vui mừng bắt chước, trong q trình đó,
người này thêm một chút, người kia bớt một chút, biến thành những trò chơi,
những điệu múa, đó chính là sự ra đời của trò chơi vận động. Sự ra đời này
bắt nguồn tư lao động một cách tự nhiên, con người cũng không biết rằng sự
vui chơi đó chính là hình thức tập luyện sơ khai nhất để chuẩn bị cho lao
động. Như vậy có thể nói, trị chơi cận động bắt nguồn từ lao động và sau đó
lại phục vụ cho lao động. Khi khả năng tư duy, khả năng trừu tượng và ngơn
ngữ cũng như những kinh nghiệm tích lũy trong cuộc sống và trong lao động
phát triển đến mức nhất định, người ta thấy rằng không nhất thiết phải tập
luyện những động tác y như những thao tác lao động mà chỉ cần tập luyện
mang tính tượng trưng, đó chính là sự ra đời của những trò chơi vận động
mang tính mơ phỏng.
Ngay từ những ngày đầu, trị chơi vận động đã mang tính giáo dục rõ
rệt, người ta sử dụng trò chơi dạy cho con cháu, dạy lớp người trẻ để chuẩn bị
cho họ tiếp bước cha ông tham gia vào công cuộc lao động kiếm sống và đấu
tranh để sinh tồn, phát triển.



- 18 -

Sau này, cùng với các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài
người, trường học được hình thành và mở rộng. Trường học trở thành trung
tâm tập trung những mầm non của xã hội, ở đó người ta sử dụng những
phương pháp nội dung giáo dục tinh hoa nhất trong đó có trị chơi vận động
để giáo dục lớp người trẻ.Trò chơi được coi là một trong những nội dung,
đồng thời là một trong những phương pháp giáo dục lớp trẻ nhanh, dễ tiếp thu
và có hiệu quả nhất. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng
trò chơi, trò chơi được khai thác và sử dụng một cách triệt để trong giáo dục
nói chung , đặt biệt là trong giáo dục thể chất ở nhà trường phổ thơng.
1.5.2 Trị chơi là nhu cầu của con người
Luật giáo dục 1998 đã ghi khái quát mục tiêu giáo dục tiểu học như
sau:
“Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức và trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học lên trung cấp cơ sở”.
Trước hết, cần hiểu giúp học sinh không phải là thay các em, hoặc áp
đặt, bắt buộc trẻ, ra mệnh lệnh buộc trẻ làm theo ý thầy cô giáo và người lớn.
lý luận đó suất phát từ một quan điểm trong giáo dục: học sinh là chủ thể của
quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Cần phải tạo điều kiện để trẻ em
phát huy được tính tích cực và phát triển được tiềm năng của bản thân, làm
sao để nhà sư phạm là người đỡ đầu cho sự phát triển.
Giúp học sinh phải là một quan điểm được quán triệt trong mọi hoạt
động dạy học, giáo dục, đặc biệt trong hoạt động vui chơi ở nhà trường cũng
như ngoài nhà trường.
Trong mọi hoạt động, nhà sư phạm cần tạo được hứng thú để kích thích
nhu cầu, đồng thời biết điều chỉnh nhu cầu đó của trẻ theo mục tiêu giáo dục

phát triển trí tuệ, năng lực, thể chất của chúng. Gieo nhu cầu và đáp ứng nhu


- 19 -

cầu phát triển mọi mặt của trẻ là trách nhiệm của giáo dục. Vì vậy, trong giáo
dục và hoạt động vui chơi ở trường, ở cộng đồng hay ở nhà. Thầy cô giáo, cha
mẹ, người lớn cần nắm vững mục tiêu giáo dục từng cấp, tạo ra những điều
kiện thuận lợi và một môi trường tốt nhất, an tồn nhất để em có hứng thú
hoạt động. Từ đó, mới có điều kiện phát triển thể chất, trí tuệ, thói quen, kỹ
năng về mọi mặt. Vì học sinh tiểu học là trẻ em ở lứa tuổi từ 6đến 11 tuổi, còn
thiếu kinh nghiệm sống, cơ thể phát triển chưa đầy dủ về mọi mặt nên vai trò
tổ chức, hướng dẫn trẻ em hoạt động của thầy cô giáo là vô cùng quan trọng.
Điều thứ hai cần lưu ý trong mục tiêu giáo dục tiểu học là hình thành
những cơ sở ban đầu cho một sự phát triển đúng dắn và lâu dài.
Những cơ sở ban đầu nên hiểu là những yếu tố nền tảng đầu tiên, đó là
những tố chất cơ bản về trí lực, tâm lực, thể lực, kỹ ăng học tập, hoạt
độnggiao tiếp…phát triển toàn diệm nhân cách là mục tiêu của giáo dục của
tất cả các cấp học, ngành học.
Giáo dục ở bậc tiểu học cũng phải đạt mục tiêu tồn diện, nhưng tạm
thời chỉ địi hỏi những nền tảng đầu tiên của nhân cách. Những giá trị đạo đức
cơ bản đầu tiên được xác định là những chuẩn mực hành vi.
Trong số những nhu cầu tự nhiên của con người có cả nhu cầu rèn luyện
cơ bắp và các cơ quan nội tạng, nhu cầu nhận các thơng tin bên ngồi. Khi có
sắc thái cảm súc tốt, nhu cầu này sẽ được bộc lộ. Như ở trẻ em là những trò
chơi, giúp các em hiểu rõ bản thân và thế giới xung quanh một cách tốt hơn.
Khi chơi, các em rèn luyện thể chất của mình, làm phong phú thêm sự
hiểu biết bằng những biểu tượng mới. Nhưng phải chăng điều này chỉ có ở trẻ
em. Nếu lấy lại lời của nhà thơ Nga A.X. Puskin ta có thể nói một cách khơng
q đáng rằng “Mọi tuổi tác đều ngoan ngỗn trước trị chơi”. Nói riêng, điều

đó có thể giải thích được do hoạt động trị chơi có những nét làm gần gũi với
lao động, một loại hình cơng việc u thích. Chính vì trị chơi, cũng như lao


- 20 -

động đều có mục đích mà mọi người mong muốn đạt tới. Trị chơi cũng như
cơng việc, nếu được ta yêu thích, sẽ đem lại cảm giác thỏa mãn, vui sướng,
nếu lao động có những qui luật của mình, thì trị chơi cũng liên quan tới việc
áp dụng các luật chơi mà thiếu chúng trị chơi khơng thể thực hiện được. Song
các động cơ của hoạt động trò chơi lại phức tạp hơn nhiều.
Các nhà thơ, các nhà bác học đã gọi cảm xúc con người là những “cảm
xúc mãnh liệt”. Những cảm xúc đó tạo thành một chuỗi những xúc động hết
sức đa dạng - từ thất vọng, đau khổ tới những niềm vui to lớn.
Như ta biết, cảm xúc xuất hiện khi có những mâu thuẫn giữa thơng tin
con người cần có những thơng tin mà con người đã có ở thời điểm nhất định.
Nếu khơng có đủ thơng tin (Ví dụ: vận động viên khơng biết có được thi đấu
hay khơng) thì cảm xúc là xấu. Còn nếu các dữ liệu nhận được là đầy đủ (vận
động viên biết là được tham gia thi đấu) thì cảm xúc có được sắc thái tốt. Khi
xuất hiện những cảm xúc tốt, con người sẵn sàng hoạt động.
Trò chơi được coi như đối tượng thông tin về công việc sắp tới, nó
khơng gây ra cho con người sự bất định. Con người biết rằng q trình này có
liên quan tới những hoạt động thể lực và trí lực thoải mái, rằng trong trị chơi
bao giờ cũng có yếu tố thú vị. Cùng một trò chơi, khi được lập lại một cách
định kỳ, các lối chơi không bao giờ giống nhau. Trò chơi bao giờ cũng mới,
cũng độc đáo, cũng tiềm tàng rất bất ngờ. P.Ph. Letxgap nhấn mạnh rằng trò
chơi, khác với những động tác qui định một cách chặt chẽ (Ví dụ như thể
dục), bao giờ cũng có yếu tố sáng tạo trong việc giải quyết nhiệm vụ vận
động. Điều đó có sức hấp dẫn đối với người chơi, cịn đối với người hướng
dẫn, nó có liên quan tới việc giải quyết những nhiệm vụ giáo dục.

Vậy là, chỉ một biểu tượng về trò chơi đã đủ khả năng gợi lên trong con
người những cảm xúc tốt, cảm giác mong muốn, hồi hợp thú vị. Trong đó,


- 21 -

như chúng đã nói, những cảm xúc này có thể được xem như liên quan rất ích
đến kết quả: thắng thua của cuộc chơi.
1.5.3 Trò chơi trong chu kỳ tập luyện và trong giờ học.
Thành tích trong thể thao thế giới được nâng cao vơ cùng nhanh chóng.
Để đạt được những thành tích đó phải huy động tối đa những khả năng của
con người, đơi khi cịn “hơn một chút” nữa.
Ta biết rằng chỉ bằng cách thường xuyên tập luyện các bài tập trong bất
kỳ loại hình thể thao nào mới đảm bảo được việc tạo ra những kỹ xảo vững
chắc, cũng cố những sự hoàn hảo về kỹ thuật. Nhưng ngay cả ở các vận động
viên có ý thức và cần cù nhất điều đó cũng thường gây ra một kiểu “ trì trệ ”
về tâm lý, một sự mệt mỏi, mất hứng thú. Phản ứng tự nhiên của cơ thể đối
với những giờ tập luyện đơn điệu ấy là có. Song, chỉ cần huấn luyện viên thay
đổi hình thái những giờ đó, đưa ra việc thi tốc độ, thì độ chính xác, khéo léo,
cho tiến hành trị chơi hay trị chơi tiếp sức, có nghĩa là đưa thêm buổi tập yếu
tố kích thích xúc cảm, thì người học sẽ quên mệt mỏi và tiếp tục tập luyện
một cách thích thú và say mê.
Đối với q trình tập luyện thì một vịng quay tương đối trọn vẹn gồm
các thời kỳ nhất định là một đặc điểm tiêu biểu. Cũng khơng phải nói q
đáng khi nói rằng, việc áp dụng các trị chơi vận động có thể tiến hành trong
bất kỳ thời kỳ nào (thời kỳ chuẩn bị, thời kỳ thi đấu hay thời kỳ chuyển tiếp),
nhưng khối lượng và tính chất của trị chơi phải khác nhau tùy theo nhiệm vụ
trong từng giai đoạn tập luyện.
Do nhiệm vụ của giai đoạn đầu thời kỳ chuẩn bị là nhằm nâng cao trình
độ phát triển chung của các tố chất thể lực, mở rộng kỹ năng, kỹ xảo vận động

của vận động viên nên ở giai đoạn này song song với các bài tập chun mơn,
có thể sử dụng rộng rãi các trò chơi với nội dung chủ yếu là tác động tới việc
phát triển thể lực, tốc độ , sự khéo léo và phẩm chất khác. Có thể đưa vào nội


- 22 -

dung trò chơi những bài tập tương tự với môn thể thao tự chọn, cũng như
những bài tập hồn tồn khác với mơn đó. Đồng thời trị chơi cũng góp phần
chuẩn bị cả về mặt đạo đức, ý chí cho vận động viên, bởi lẽ trong nó cũng có
những tiềm năng sư phạm to lớn để làm việc đó.
Giai đoạn thứ hai của thời kỳ chuẩn bị có nhiện vụ là nắm sâu hơn và
hoàn thiện những kỹ năng vận động ở chính mơn thi đấu. Điều đó để lại dấu
vết cả đối với tính chất của nội dung trò chơi trong tập luyện. Khi lựa chọn và
tiến hành trò chơi trong tập luyện. Khi lựa chọn và tiến hành trò chơi với tư
cách là những biện pháp bổ trợ, thì việc tác động có lựa chọn và định hướng
của các trò chơi vào việc phát triển các tố chất và kỹ năng chuyện môn cần
thiết cho vận động viên được tăng lên.
Còn khi tổ chức trò chơi ở cuối chu kỳ nhỏ của thời kỳ chuẩn bị, huấn
luyện viên lại nhằm giải quyết những nhiệm vụ hoàn toàn khác. Do thời kỳ
này được kết thúc bằng một sự nghỉ ngơi tích cực. Ở đây các trị chơi không
nhằm chuẩn bị chung hay chuẩn bị chuyên môn, mà nhằm duy trì trạng thái
xúc cảm tốt cho cơng tác tập luyện tiếp theo. Những trị chơi đó chỉ địi hỏi
những nổ lực không lớn lắm về thể lực và tâm lý.
Cũng cần nhắc tới một vai trò quan trọng của trị chơi trong q trình
chuẩn bị cho những cuộc thi đấu thể thao tay đơi với tính chất quyết định. Sự
cảm xúc độc đáo bao giờ cũng phân biệt thi đấu với tập luyện. Huấn luyện
viên nào cũng mong muốn rằng đó khơng phải là sự hững hờ khi xuất phát,
khơng phải là sự nơn nóng, mà là cảm giác sẵn sàng chiến đấu. Một nhà y học
đã khẳng định rằng: đối với một vài vận động viên thì sự hưng phấn trong thi

đấu có thể biểu hiện theo cơng thức: “thi đấu là một trị chơi bao giờ cũng hấp
dẫn mà tất cả các nhà vô địch đều u thích.
Trong hệ thống tập luyện, một trong những hình thức cho phép tạo ra
sự sẵn sàng về mặt tâm lý đối với thi đấu (nhất là trong loại hình thể thao


- 23 -

khơng cần tính chất trị chơi) là việc áp dụng các trò chơi vận động mà trong
điều kiện thi đấu sẽ củng cố và hoàn thiện được các bài tập đã học. Những trị
chơi đó giúp vận động viên hình thành cho mình một tâm lý nhất định. Có thể
gọi việc áp dụng các trị chơi này là sự tập luyện cảm xúc, giáo dục đạo đức ý chí, giúp vận động viên sau này dễ dàng tiếp nhận và vượt qua những căng
thẳng về thần kinh trong thời điểm quan trọng của thi đấu. Trong quá trình
đưa các trò chơi vào tập luyện, huấn luyện viên rèn luyện được sự ăn ý về tâm
lý giữa các vận động viên trong tập thể, một yếu tố quan trọng trong thi đấu
đồng đội hay thi đấu cá nhân. Hệ thống huấn luyện được xây dựng đúng đắn
ở thời kỳ chuẩn bị, trong đo có áp dụng cả những trị chơi vận động, sẽ giúp
vận động viên khi cần thiết đạt được trạng thái sung sức thể thao tốt nhất. Đó
là khi cảm thấy sức lực, khả năng hoạt động rất dồi dào, khi xuất hiện “cảm
giác của cơ thể, của đường chạy, của xà ngang, của trái bóng…”, khi thôi thúc
nguyện vọng được thi đấu và xuất hiện cả khả năng hồi phục rất tốt ngay sau
những khối lượng tập luyện tối đa.
Một phương tiện hoàn thiện hết sức quan trọng thời kỳ thi đấu là chính
bản thân thi đấu vì nó địi hỏi phải động viên đối đa tồn bộ sức mạnh thể chất
và tinh thần.
Kỹ xảo hình thành trong thể thao, như ta thường thấy, được xuất hiện
khơng có sự tham gia của cảm xúc trong trị chơi. Hơn nữa nếu chúng xuất
hiện, chúng chỉ phá vỡ các động tác và cản trở việc đạt tới mục đích. Cịn
những giờ tập luyện tiến hành giữa các lần thi đấu lại mang tính chất khác.
Một mặt những giờ đó nhằm bảo tồn và hồn thiện các tiểu xảo có được từ

trước, những tiểu xảo thường nhờ các phương tiện chuyên môn mà đạt được.
Mặt khác, những giờ này nhằm giúp các vận động viên nghỉ ngơi một cách
tích cực và chính ở đây các trị chơi tập thể “vui nhộn”, tiếp sức các trị giải trí
đa dạng nhưng không phức tạp hầu như sẽ là một phương tiện tốt nhất. Cũng


- 24 -

không nên xem thường việc áp dụng các trò chơi đòi hỏi những nỗ lực lớn về
thể lực, bởi lẽ sự chuẩn bị về thể lực chung trong thời kỳ thi đấu, tuy chỉ đóng
vai trị bổ trợ, song cũng hết sức quan trọng (nhất là khi giai đoạn thi đấu kéo
dài). Cần nhớ rằng những trò chơi tương đối nặng đó cũng có tác động tới
việc giải quyết một loạt những nhiệm vụ bổ trợ rất quan trọng cho thời kỳ thời
đấu, có quan hệ tới sự nghỉ ngơi tích cực và giữ gìn các phẩm chất đạo đức, ý
chí.
Trong q trình thi đấu gay go căng thẳng, sự nỗ lực thần kinh, thể chất
và ý chí phải duy trì ở mức tối đa trong thời gian khá lâu, khơng ít trường hợp
dẫn đến q xấu: vận động viên “nóng vội”, “sự tập luyện thái quá” chuyển
sang mặt đối lập của nó, con người mất đi trạng thái sung sức thể thao, bị tổn
thương về mặt tâm lý. Người ta đã xác nhận rằng, một trong nhiều ngun
nhân của những hậu quả xấu đó là khơng biết hạ thấp khối về mặt thần kinh
đúng lúc. Và cũng ở đây, trò chơi vận động cũng hệt như một “ngày giảm tải”
trong quá trình “giảm trọng”, sẽ giúp loại bỏ những lo lắng, căng thẳng, gợi
nên những cảm giác thoải mái. Dễ thấy là ở đây khơng chỉ nói tới các vận
động viên trẻ, mà còn cả đối với những vận động viên nòng cốt của đội tuyển.
Trò chơi có thể chiếm một vị trí rất lớn đối với các vận động viên trong
thời kỳ chuyển tiếp. Do thời kỳ này tiếp nối giữa hai thời kỳ khác nhau, nên
lúc này phải tạo ra những điều kiện để nghỉ ngơi và hồn chỉnh các q trình
hồi phục sau những ngày tập luyện và thi đấu căng thẳng, đồng thời cũng phải
tạo ra những điều kiện để duy trì trình độ tập luyện.

Do vấn đề chủ yếu của thời kỳ chuyển tiếp là chuẩn bị thể lực chung
được tiến hành trong chế độ nghỉ ngơi tích cực, nên nội dung và tính chất của
trị chơi đưa vào những buổi tập có thể hết sức đa dạng. Điều đó tùy thuộc và
sở thích của huấn luyện viên và các vận động viên. Học thêm những trò chơi


- 25 -

mới chưa biết cũng không phải là không thú vị. Và nếu lại tiến hành các trị
chơi đó ở các địa điểm khác nhau thì càng bổ ích.
Cịn về chính giờ tập luyện thì tùy theo nhiệm vụ cơ bản và bổ trợ của
thời kỳ đó mà có thể hồn tồn khơng đưa trị chơi vận động vào nội dung của
nó, hoặc đưa vào với tính chất là một bộ phận của khâu chuẩn bị, khâu cơ bản
hay khâu cuối cùng của giờ tập. Khơng ai có thể khẳng định trước một cách
dứt khoát rằng phải ứng dụng những trò chơi nào, trong những giờ học nào.
Theo chúng tơi, trị chơi chỉ là phần bổ sung của một quá trình học tập tập luyện bình thường. Vấn đề lựa chọn trị chơi và các bài tập giải trí để ứng
dụng trong các thời kỳ tập luyện khác nhau hay trong từng giờ học riêng biệt
hoàn toàn phụ thuộc vào cách nhìn nhận, cách sắp xếp kế hoạch của huấn
luyện viên. Ở đây các cảm tính sư phạm, sự tính tốn chính xác về tâm lý có ý
nghĩa quan trọng. Chỉ có thể tổ chức được một q trình luyện tập nhằm đảm
bảo đạt được những thành tích cao trong thể thao khi hiểu được một cách sâu
sắc những qui luật hoạt động của cơ thể con người.
Cũng như trong các bài tập khác, một quy luật phổ biến trong các trò
chơi là du trò chơi (hay bài tập) có thú vị hay gây cảm xúc tốt, nhưng nếu áp
dụng q nhiều thì người học có thể sẽ mất hứng thú đối với nó. Dễ hiểu là
trong giờ tập luyện, càng áp dụng nhiều các phương tiện thì giờ học càng
hứng thú. Người huấn luyện giởi bao giờ cũng phải kết hợp với sự cẩn thận,
chính xác trong chuẩn bị bài với sự linh hoạt, đối sử cá biệt trên từng học
sinh. Sự sáng tạo cá nhân kết hợp với kinh nghiệm phong phú và những hiểu
biết tinh tế về chun mơn (vận dụng trị chơi như một mơn học) là vơ cùng to

lớn.
1.5.4. Phân loại trị chơi vận động:
Trò chơi là một loại hoạt động rất quen thuộc, gần gũi với mọi người, tuy
vậy cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ, chính xác về trò chơi.


×