Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.03 KB, 17 trang )

MỤC LỤC


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật nước ta càng được củng cố và cải
thiện trong đó, có pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng dần dần quy định chi tiết hơn mà
cụ thể là quyền tác giả, quyền liên quan đang từng bước được hoàn thiện. Bên cạnh
đó, nội dung của việc quy định xâm hại về quyền tác giả, quyền liên quan cũng được
Bộ Luật Hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng quy định tại Điều 170a
trong chương XVI về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Từ việc quy định cụ thể trên, quyền và lợi ích hợp pháp của từng chủ thể từng
bước được quan tâm chú trọng, trong đó là việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên
quan. Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan là vấn đề quan trọng luôn được người
dân và Nhà nước quan tâm vì quyền tác giả không chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho tác
giả, mà trong nhiều trường hợp, nó có thể đem lại giá trị kinh tế lớn cho những ai có
được nó. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, nhu cầu xây dựng
hệ thống pháp luật bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu với các đối tượng là điều hết sức
cần thiết. Do đó, trong những năm qua nước ta đã ký kết nhiều điều ước quốc tế như:
Công ước Berne1, Hiệp ước quyền tác giả của Wipo 2, Hiệp định TRIPs3, … Trong đó
Công ước Berne có hiệu lực trước tiên vào ngày 26/10/2004, Hiệp định TRIPs về các
khía cạnh thương mại của quyền SHTT có hiệu lực ngày 11 tháng 01 năm 2007 đồng
thời với thời điểm Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Bên cạnh đó, nhà nước ta cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến quyền tác giả như: BLDS năm 2005; Luật SHTT năm 2005; Luật SHTT năm
2005 sửa đổi bổ sung năm 2009; Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20/9/2011 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP; Bộ luật Hình
sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.


Tuy nhiên, một thực tế là tình trạng vi phạm quyền tác giả vẫn đang diễn ra ở
hầu hết các lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau mà cụ thể trong bài tiểu luận này,
người viết xin được đề cập đến vấn đề vi phạm sở hữu trí tuệ (quyền tác giả) trong
lĩnh vực chương trình máy tính đang là vấn đề nghiêm trọng được quan tâm hàng
đầu.
Để làm rõ hơn về những quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ
quyền tác giả trong giai đoạn hiện nay và có cái nhìn tổng thể tình hình vi phạm
quyền tác giả, quyền liên quan ở Việt Nam. Vì thế, người viết chọn đề tài: “Thực
trạng xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan với chương trình máy tính và giải
pháp hạn chế việc xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”
để làm bài tiểu luận và làm rõ vấn đề này.

1 , Truy cập ngày 09/6/2016
2 Truy cập ngày 09/6/2016
3 Truy cập ngày 09/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này, người viết xin đề cập đến một phần trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ về chương trình máy tính (bản quyền phần mềm) để xác xác định dấu hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên
quan. Trên cơ sở, các quy định của pháp luật và thực tiễn vi phạm hiện nay, từ đó nêu
lên cách xác định hành vi xâm phạm, nguyên nhân của sự xâm phạm, hướng hoàn

thiện nhằm ngăn chặn và hạn chế hành vi xâm phạm quyền tác giả.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng kiến thức từ quá trình học
tập; đọc báo; internet và các tài liệu liên quan đến đề tài cũng như vận dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, liệt kê, so sánh để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.
4. Bố cục đề tài
Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền tác giả và hình thức xâm phạm quyền tác
giả với chương trình máy tính ở Việt Nam
Chương 2. Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính theo
pháp luật Việt Nam
Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết tình trạng vi phạm bản
quyền phần mềm máy tính tại Việt Nam.
Tháng 6 năm 2016
Học viên Cao học Luật Kinh tế
Khóa 4 – đợt 2 năm 2015
Nguyễn Thanh Tuấn

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ HÌNH THỨC
XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ VỚI CHƯƠNG TRÌNH
MÁY TÍNH Ở VIỆT NAM
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền tác giả ngày càng có vị trí

quan trọng trong đời sống kinh tế hiện đại của mỗi quốc gia, đặc biệt là trong bối
cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Do vậy, việc xây dựng một hệ thống pháp luật về thiết
lập và bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ trong nước phù hợp với các Điều ước
quốc tế là nhu cầu cấp thiết đối với sự phát triển nền kinh tế của quốc gia và là yêu
cầu tất yếu của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay.
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả, quyền liên quan
Quyền tác giả hay tác quyền hoặc bản quyền (tiếng Anh: copyright) là độc
quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo
vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không
bị vi phạm bản quyền, ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc,
ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh, phần mềm máy
tính. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối
liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí
tuệ (intellectual property) và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ
song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Mỗi một
quốc gia khác nhau lại có những khái niệm khác nhau về quyền tác giả4.
Ở Việt Nam, tại khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung một
số điều 2009 quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Như vậy, chúng ta có thể hiểu quyền tác giả
là những quyền mà mọi người được hưởng đối với một tác phẩm văn học nghệ thuật,
khoa học, hay một dạng chuỗi ký tự nào đó. Người đó, có thể là người sáng tạo ra tác
phẩm, sản phẩm hay chỉ đơn thuần là người sở hữu tác phẩm, sản phẩm.
Tại khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung một số điều 2009
quy định: “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
1.1.2. Khái niệm về chương trình máy tính
Chương trình máy tính là một chuỗi các lệnh được mô tả bằng bất kỳ ngôn
ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các vật mang

tin được dùng trực tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc hai khâu: Chuyển
đổi sang một ngôn ngữ, mã, hệ thống ký hiệu khác; Tái tạo sang một vật mang tin
4 , Truy cập ngày 09/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 4

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

khác, làm cho một dụng cụ có khả năng xử lý thông tin thực hiện một chức năng nào
đó.
Tại Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về: “Quyền tác giả đối với
chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu”:
1. Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các
lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà
máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc
đạt được một kết quả cụ thể.
Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện
dưới dạng mã nguồn hay mã máy.
2. Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển chọn, sắp xếp
các tư liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư
liệu đó, không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó.
1.1.3. Vi phạm bản quyền phần mềm
Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005 tại khoản 10 Điều 28. Hành vi xâm phạm quyền

tác quy định “Vi phạm bản quyền phần mềm là việc nhân bản, sản xuất bản sao, phân
phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và
các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sỡ hữu quyền tác giả”.
Như vậy, hành vi vi phạm bản quyền có thể được thực hiện bằng cách sao
chép, tải xuống, chia sẽ, bán, cài đặt nhiều lần một bản sao vào máy tính cá nhân
hoặc máy tính làm việc.
1.2. Đặc trưng của quyền tác giả
Quyền tác giả là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, do vậy quyền tác giả có
đầy đủ các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực
sở hữu đặc thù có đối tượng là các tài sản vô hình, tài sản phi vật thể hình thành từ
hoạt động sáng tạo của con người. Chính điều này cho phép phân biệt giữa sở hữu trí
tuệ và sở hữu tài sản thông thường.
Việc phân biệt cơ bản của sở hữu trí tuệ và sở hữu thông thường là đối tượng
của nó. Như chúng ta đã biết, đối tượng của sở hữu tài sản thông thường là các tài sản
vật chất hữu hình, có thể tiếp cận, nhìn, ngắm được. Còn đối tượng của sở hữu trí tuệ
là các tài sản vô hình, phi vật thể, là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người,
con người không thể tiếp cận như cầm, nắm vào chúng
Ví dụ cho đối tượng của sở hữu trí tuệ là một phát minh, một bài thơ, một tác
phẩm hay một chương trình máy tính nào đó mà chúng ta không thể tiếp cận được và
chỉ khi chúng được thể hiện ra dưới một hình thức vật chất nào đó: được in, vẽ trên
giấy.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 5

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm

phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

1.3. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan được quy định tại Bộ luật
Hình sự Việt Nam
Theo pháp luật Hình sự Việt Nam “Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên
quan” được quy định tại điều 170a của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ
sung năm 2009 của Chương XVI Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Và sắp tới
đây, Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực thì việc quy định về tội xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan được quy định tại Điều 225 của Mục 3 Chương XVIII Các tội
xâm phạm về quản lý kinh tế điều này cho thấy việc quy định của bộ luật mới là một
bước tiến mới đáp ứng được nhu cầu về mặt quản lý và xử phạt một cách nghiêm
khắc hơn.
Điều 170a. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Bộ luật Hình sự
1999 được sửa đổ, bổ sung năm 2009)
“1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan
mà thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm quyền tác giả, quyền liên
quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ năm
mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao
bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ bốn
trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm”.
Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Bộ luật Hình sự
2015)

“1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan
mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền
liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến
dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan
từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao
bản ghi hình.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 6

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng
trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000
đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định
hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.
1.4. Một số hình thức xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính ở
Việt Nam
Tình trạng xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính ở nước ta
hiện nay chủ yếu tập trung vào những hình thức sau:
1.4.1. Sao chép trái phép (Softlifting)
Softlifting là thuật ngữ được dùng khi một người mua một bản sao cấp phép
chỉ dành cho việc sử dụng của một người đối với một chương trình nhưng người này
lại tải lên nhiều máy.
1.4.2. Không hạn chế sự truy cập của máy khách
Việc xâm phạm bằng cách không hạn chế việc truy cập máy khách diễn ra khi
bản sao của một chương trình phần mềm được sao đến máy chủ 5 của một tổ chức và
hệ thống máy khách6 của tổ chức đó được phép truy cập tự do phần mềm này.

5
/>%A7+l%C3%A0+g%C3%AC, truy cập ngày 25/6/2016
6 truy cập ngày 25/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


Trang 7

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

1.4.3. Tải sẵn trong ổ cứng
Hình thức tải sẳn trong ổ cứng diễn ra khi một cá nhân hay công ty bán máy
tính cài vào máy tính bán các bản sao phần mềm bất hợp pháp
1.4.4. Vi phạm hợp đồng phân phối giữa người bán hàng và nhà sản xuất
phần mềm
Một số phần mềm được biết đến là phần mềm OEM 7 (Original Equipment
Manufactuner – Nhà sản xuất thiết bị gốc) chỉ được phép bán một cách hợp pháp với
các phần cứng cụ thể. Khi chương trình này được sao chéo và bán tách rời với phần
cứng thì đây được xem là sự vi phạm hợp đồng phân phối giữa người bán hàn và nhà
sản xuất phần mềm. Tương tự thuật ngữ “Unbundling” chỉ cho hành vi bán phần
mềm một cách riêng rẽ đó được xem là hành vi hợp pháp khi nằm trong phần tron gói
khác. Chương trình phần mềm được đánh dấu bởi dòng chữ “không cho bán” thường
là các ứng dụng trọn gói.

7 truy cập ngày 25/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 8

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn



“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ
VỚI CHƯƠNG TRÌNH MÁY TÍNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1.Sự hình thành của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, đất nước bắt
đầu công cuộc đổi 0 mới với sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới
này, quyền dân sự - trong đó có quyền sở hữu trí tuệ, mà cụ thể là quyền tác giả của
cá nhân được tôn trọng và bảo vệ hơn.
Từ năm 1989, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ vai trò của tài sản trí tuệ và
bảo hộ quyền tác giả là một trong những yếu tố quan trọng trong xây dựng nền kinh
tế thị trường, vì thế Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật sở
hữu trí tuệ, đặc biệt là về quyền tác giả.
Ngay từ bản Hiến Pháp đầu tiên năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận
những quyền cơ bản của công dân, trong đó có đề cập đến quyền tác giả, thể hiện tư
tưởng tiến bộ, nhân văn về con người. Tư tưởng lập pháp đó được tiếp tục ghi nhận
trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và gần đây nhất là Hiến pháp 2013. Tại
Điều 40 Hiến pháp 2013 có quy định: “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và
công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”.
Năm 1985, Bộ luật Hình sự ra đời8 được coi là một dấu mốc quan trọng trong
sự phát triển của pháp luật Việt Nam đặc biệt là về sở hữu trí tuệ Việt Nam được quy
định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 1985 Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế,
phát minh.
Thêm vào đó, Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội Việt Nam thông qua tại kỳ

họp thứ 8 ngày 19 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2006 thể
hiện bước tiến vượt bậc của pháp luật về quyền tác giả Việt Nam và tính hoàn thiện
của hệ thống pháp luật về quyền tác giả, cùng với Bộ luật Hình sự 1999 được sửa đổi,
bổ sung năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành tạo hành lang pháp lý an toàn,
khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo hộ thành quả của lao động sáng tạo, bảo
đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo và các chủ thể khác, bảo vệ lợi ích quốc
gia, tương thích với luật pháp quốc tế, thể hiện sự minh bạch, khả thi, góp phần thúc
đẩy hoạt động bảo hộ quyền tác giả tại quốc gia.
Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng, Luật sở hữu trí tuệ vẫn bộc lộ một số
hạn chế và để khắc phục hạn chế này, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được kỳ họp
thứ 5 Quốc hội Khóa XII thông qua sửa đổi, bổ sung một số điều ngày 19/6/2009 và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 gồm 6 phần, 18 chương và 222 điều. Trong đó, quyền
tác giả và quyền liên quan được ghi nhận tại Phần 2 bao gồm các quy định: Điều kiện
8 truy cập ngày 24/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 9

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

bảo hộ quyền tác giả; Nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ quyền tác giả; Chủ
sở hữu quyền tác giả; Chuyển nhượng quyền tác giả; Chứng nhận đăng ký quyền tác
giả; Tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả. Luật Sở hữu trí tuệ cũng chứa
đựng những quy định để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung như quy định chung
về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp

dân sự, xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính và hình sự,
kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ
Ngoài ra, việc điều chỉnh quyền tác giả còn nằm trong các văn bản quy phạm
pháp luật như: Bộ luật Hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, Nghị định 100/2006/NĐ-CP, Nghị định số
105/2006/NĐ-CP, Thông tư 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày
29 tháng 2 năm 2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Nghị định 131/2013/NĐ-CP, Nghị định số
85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 100/2006/NĐ-CP, Nghị định số 119/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP,…
Trên cơ bản những bước tiến bộ vượt bậc và cũng cố hệ thống pháp luật Hình
sự ngày hoàn thiện về vấn đề xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan được Bộ luật
Hình sự 2015 quy định tại Điều 225 cụ thể hóa tính định lượng về hình thức xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
2.2 Tình hình xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình chung
Hiện nay, quyền tác giả đã được pháp luật bảo hộ nhưng tình trạng xâm phạm
quyền tác giả vẫn diễn ra liên tục. Chỉ cần nhìn thấy lợi ích trước mắt là không ít cá
nhân, tổ chức sẵn sàng xâm phạm quyền tác giả bằng các hành vi trái pháp luật như:
nhân bản, sản xuất bảo sao, phân phối, sao chép, cài đặt phục vụ cho mục đích
thương mại của bản thân, tổ chức. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mới chính là
người được thụ hưởng lợi ích từ những tác phẩm sáng tạo của mình. Để bảo vệ quyền
lợi cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và để khuyến khích tinh thần sáng tạo khoa
học, nghệ thuật của người dân, đặc biệt là những người yêu thích phát minh, sáng
chế, nghiên cứu ra những chương trình phần mềm máy tính cần thiết phải lên áng, xử
lý và ngăn chặn những hành vi xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính.
Sau 10 năm thực hiện Luật sở hữu trí tuệ từ năm 2006 đến hết năm 2015 9, các
cơ quan chức năng của Việt Nam đã tiến hành thanh tra và xử phạt các doanh nghiệp
tổng cộng hơn 8,6 tỉ đồng dùng phần mềm không có bản quyền

Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao từ tháng 7/2006 cho đến tháng
6/2012 các Tòa án chỉ thụ lý được 92 10 vụ án tranh chấp về quyền tác giả. Số vụ việc
còn quá hạn chế này cho thấy, các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ còn e ngại việc khởi
9 truy cập 27/6/2016 (Số
liệu năm 2016 chưa được thống kê)
10
truy cập ngày 27/6/2016

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 10

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

kiện ra Tòa án mà thay vào đó, họ chọn việc xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp
hành chính.
Nhưng vấn đề xâm phạm quyền tác giả vẫn tiếp diễn xảy ra, theo thống kê
trong năm 2014, Thanh tra Bộ VHTT&DL phối hợp với Cục cảnh sát phòng, chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao tiến hành thanh tra đột xuất 83 doanh nghiệp tại các
tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Tp. Hồ
Chí Minh. Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đà Nẵng đã phát hiện và
xử phạt 78 doanh nghiệp vi phạm quy định pháp luật về bản quyền các chương trình
phần mềm máy tính, chiếm tới 93,9% số doanh nghiệp bị thanh tra đột xuất với tổng
số tiền phạt là 1,7 tỷ đồng11.
2.2.2. Tình trạng xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan với chương
trình máy tính ở Việt Nam

Hiện nay, khi công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong
doanh nghiệp hay cá nhân ở nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các máy
tính của doanh nghiệp hay cá nhân có chiều hướng tăng mạnh, nên các cơ sở mua bán
máy tính và cung cấp phần mềm cho người dùng ngày đa dạng và người dùng dễ
dàng tiếp cận với những phần mềm do cơ sở bán cung cấp miễn phí không thông qua
bên chủ sở hữu để mua phần mềm hay ứng dụng máy tính. Với tình hình đó, việc các
cơ sở mua bán máy tình, cung ứng phần mềm chương trình máy tính được mở ra
ngày càng nhiều do đó việc này làm cho các cơ quan chức năng khó kiểm soát và
quản lý, hơn thế nữa việc cơ sở cung cấp miễn phí cho người dùng làm như vậy đã vi
phạm bản quyền.
Cụ thể, giữa tháng 10/2015 Đoàn thanh tra liên ngành Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch phối hợp với phòng C50, Tổng Cục cảnh sát tiến hành kiểm tra đột xuất 02
phòng game lớn của Công ty TNHH Cyber Core technology12 tại Tp. Hồ Chí Minh và
phát hiện một lượng lớn các phần mềm máy tính vi phạm bản quyền, tổng cộng lên
tới 220 phần mềm Microsoft Windown 7 Ultimate 64 bit, 221 phần mềm Microsoft
Windown 7 Ultimate 32 bit và 389 phần mềm Microsoft Office 2007 Enterprise.
Do đó, Công ty trên đã sử dụng một lượng lớn phần mềm của Microsoft trong
một thời gian dài mà chưa có giấy mua bản quyền phần mềm đã ảnh hưởng lớn quyền
tác giả mà cụ thể là đại diện Microsoft cho nên Công ty TNHH Cyber Core
technology tại Tp. Hồ Chí Minh đã vi phạm Khoản 1 và điểm a khoản 2 của Điều
170a.
Một vụ vi phạm bản quyền khác cho thấy mức độ vi phạm về phần mềm hiện
nay của nước ta là rất cao: Theo thông tin từ Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch phối hợp với Cục cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao C50 đã thanh tra
Công ty cổ phần điện tử Bình Hòa (Viettronics), sau khi kiểm tra 38 máy tính đang
được Công ty sử dụng cho hoạt động kinh doanh ngoài số lượng phần mềm cps bản
quyền thì Đoàn kiểm tra đã tìm thấy 62 phần mềm bất hợp pháp chủ yếu là các phần
11 Truy cập ngày 27/6/2016
12
Truy cập ngày 27/6/2016


GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 11

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

mềm văn phòng phổ biến như Microsoft Office, Microsoft Windown XP,… và một
số phần mềm của Autodesk, Adobe,.. tất cả các phần mềm, ứng dụng này công ty sử
dụng và mục đích kinh doanh, cài đặt cho các máy tính khác khi các cá nhân, doanh
nghiệp mua máy tính tại Công ty này.
2.3. Nguyên nhân của việc vi phạm bản quyền phần mềm
Nếu lấy lý do của việc vi phạm bản quyền phần mềm thì rất nhiều, có người
còn không nhận ra rằng, sử dụng phần mềm thì phải trả phí, nhiều người khác dùng
phần mềm phải trả tiền nhưng nhất định không trả đã trở thành thói quen.
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta và ý thức chấp hành pháp
luật của người sử dụng. Với người kinh doanh phần lớn họ nghĩ rằng mình kinh
doanh nhỏ lẻ nên không vi phạm quyền tác giả, bản quyền hoặc họ nhận thức ra hành
vi sao chép tràn lan của mình là vi phạm nhưng họ vẫn làm vì lợi nhuận. Lợi dụng
tình trạng này, không ít người thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng tác
giả, chủ sở hữu vì mục tiêu lợi nhuận cá nhân sẵn sàng sao chép, tải về ổ cứng rồi cài
đặt cho các máy tính khác do nhu cầu của người sử dụng yêu cầu… Đây là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tác giả.
Thứ hai, Với người tiêu dùng trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, điều
kiện kinh tế eo hẹp, khó khăn, nhất là đối với học sinh, sinh viên, thay vì việc đăng
ký mua bản quyền phần Microsoft chỉ được 01 năm mà giá khá cao thì họ không

đồng ý mua mà sẽ cài phiên bản lậu,…. Ở Việt Nam thực trạng này diễn ra phổ biến,
đa phần họ không ý thức được mình đang vi phạm hay có biết vi phạm thì họ cũng
mặc nhiên mà sử dụng không có quan tâm tới.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng đã phối hợp
với nhau rất nhuần nhiễn nhưng chưa có đủ kiểm tra trên diện rộng nên việc các cửa
hàng vẫn qua mặt được các cơ quan chức năng. Trên thực tế, qua quá trình tìm hiểu
một bộ phận nhỏ tại các trường Đại học thì đa phần sinh viên đều vi phạm bản quyền
như Microsoft Windown, Office, Adobe,…

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 12

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT
TÌNH TRẠNG VI PHẠM BẢN QUYỀN PHẦN MỀM TẠI
VIỆT NAM
Để góp phần ngăn chặn tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm nói riêng và
vi phạm sở hữu trí tuệ nói chung, cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp như
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả
Để hạn chế và ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả với chương trình
máy tính trước tiên cần phải tập trung xây dựng hệ thống pháp luật một cách hoàn
thiện và thống nhất. Cần phải thường xuyên rà soát, kiểm tra các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến bảo hộ quyền tác giả để kịp thời phát hiện, sửa đổi, bổ

sung và lắp đầy những lỗ hổng pháp lý. Giải pháp này tập trung hoàn thiện quy định
của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả cho phù hợp hơn nhằm khuyến khích việc sáng
tạo khoa học của công dân, bên cạnh đó còn góp phần hoàn thiện cơ chế thực thi. Để
giải pháp này được thực hiện đồng bộ thì ngoài việc các cá nhân, cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thì đồng thời phải tham khảo
ý kiến của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, trong đó không thể thiếu chuyên gia
trong lĩnh vực pháp luật về kinh tế vì nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát
triển nên ý kiến của họ có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngoài ra, cần khuyến khích các cá nhân, tổ chức khởi kiện những hành vi vi
phạm về quyền tác giả theo pháp luật hình sự và từ đó cũng cố hoàn thiện pháp luật
về việc giải quyết tranh chấp bản quyền. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng đối
với việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền tác giả với chương trình máy tính,
nhằm tạo ra cơ chế giải quyết thuận lợi, nhanh chóng và bảo đảm các quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể quyền tác giả.
3.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao
Để nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả cần thiết phải nâng cao năng lực
của các cơ quan chức năng và đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp liên quan đến việc
xác lập và triển khai các biện pháp thực thi quyền tác giả. Vì vậy cần định hướng và
triển khai có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác bảo hộ quyền tác giả; đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực thực thi, năng lực nghiên cứu, năng lực chuyên môn
cho các cán bộ công chức. Cụ thể:
+ Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải thường xuyên tổ chức hội
thảo, tập huấn về bảo hộ quyền tác giả cho các đối tượng làm nhiệm vụ quản lý thực
thi trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, doanh nghiệp,… Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch phối hợp với Cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm sử dụng Công nghệ
cao thường xuyên thành lập các tổ liên ngành tiến hành kiểm tra nhằm ngăn chặn các
sản phẩm vi phạm bản quyền.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo


Trang 13

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

+ Đối với Tòa án nhân dân các cấp: Phải nâng cao vai trò của Tòa án hình sự
trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền tác giả trong lĩnh vực sỡ hữu trí tuệ.
Hiện nay hệ thống Tòa án rất thiếu các chuyên gia có chuyên môn về thẩm định
quyền tác giả với chương trình máy tính. Cần thiết phải nâng cao trình độ cho các cán
bộ của Tòa án, nhất là đội ngũ thẩm phán, đầu tư cho việc cải cách và hiện đại hóa hệ
thống thông tin tư liệu, xây dựng quy trình để xác định và bảo vệ các thông tin bí mật
về những bên tham gia tố tụng, tăng cường cho Tòa án những công cụ, các biện pháp,
chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền tác.
+ Đối với các cơ quan đảm bảo thực thi pháp luật: Các cơ quan thực thi hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao liên quan đến đảm bảo quyền tác giả. Mặt khác cần đào
tạo cán bộ thực thi, tiến hành mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, các khóa tập huấn cho
các cán bộ thực thi. Ngoài ra các cơ quan thực thi cần tăng cường khả năng phối hợp
giữa các cơ quan thực thi, giữa các cơ quan thực thi và quản lý chuyên ngành, giữa
các bộ phận trong cùng một cơ quan nhằm hạn chế việc xử lý chồng chéo, tránh gây
phiền hà cho các doanh nghiệp, cá nhân và đỡ tốn thời gian, công sức của lực lượng
thực thi.
Ngoài ra cần ban hành các chính sách đối với các cán bộ được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng. Các chính sách này cần bảo đảm kết hợp hài hòa cả hai lợi ích: lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần như tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho cán bộ công chức đồng
thời phải có những ràng buộc cụ thể để tránh tình trạng cán bộ có chuyên môn và
năng lực chuyên ngành chuyển đơn vị công tác gây thiếu hụt cán bộ chuyên môn cho
cơ quan nói chung và cho đơn vị chủ quản nói riêng.

Việc đưa ra được các chính sách, chế độ hợp lý sẽ tạo ra động lực và phát triển
tiềm năng, làm cho đội ngũ cán bộ công chức trở nên năng động, tạo sức mạnh to lớn
trong việc bảo hộ quyền tác giả. Ngược lại, nếu cơ chế không phù hợp sẽ làm cho
việc thực thi pháp luật yếu đi, thậm chí triệt tiêu sức mạnh tập thể của đội ngũ cán bộ
công chức, từ đó ảnh hưởng đến việc bảo hộ quyền tác giả.
3.3. Nâng cao nhận thức của cộng đồng
Một trong những phương pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bảo hộ quyền tác giả là đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về quyền tác giả đối với những chương trình máy tính nhằm nâng cao nhận thức
của cá nhân, tổ chức khai thác sử dụng phần mềm, ứng dụng. Trên thực tế, có không
ít những tác giả của những chương trình máy tính do mình viết ra, người có quyền tác
giả nhưng lại không biết mình có quyền, do đó cần tuyên truyền, vận động để tăng
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 14

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

cường ý thức tự bảo vệ chủ thể quyền tác giả, chủ động hợp tác với các cơ quan thực
thi đấu tranh phòng chống, ngăn ngừa xâm phạm quyền tác giả.
Trang bị cho công dân những kiến thức, hiểu biết về các quy định của pháp luật
là vô cùng cần thiết. Trong khuôn khổ pháp luật về quyền tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, công tác tuyên truyền phải nhằm vào ba đối tượng chủ yếu đó là tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả và người sử dụng, làm cho các đối tượng hiểu rõ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Đối với những doanh nghiệp bán máy tính cần áp dụng các điều khoản trong

hợp đồng cung ứng các dịch vụ chương trình, phần mềm máy tính và giới thiệu cho
khách hàng biết những quyền, ích khi mua bản quyền.
Cần nên có chính sách phù hợp, hỗ trợ cho người dùng nhất là các bạn Sinh
viên để họ được tiếp cận với những phần mềm có bản quyền và hạn chế sự vi phạm
bản quyền.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 15

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

KẾT LUẬN
Nói tóm lại, có thể thấy được rằng dù tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm tại
Việt Nam đã có chiều hướng giảm nhưng vẫn đang là một thực trạng cần có những
giải pháp để ngăn chặn có hiệu quả. Để giảm tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của
Việt Nam xuống mức thấp cần phải có một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và chặt chẽ
hơn, kết hợp với một cơ chế thực thi có hiệu quả và cơ chế xử lý vi phạm nghiêm
khắc. Nhưng trên hết cần phải gia tăng nhận thức về sở hữu trí tuệ để mỗi cá nhân có
thể tham gia vào việc chặn đứng tình trạng vi phạm bản quyền không chỉ trong lĩnh
vực phần mềm máy tính mà còn trong tất cả những lĩnh vực sở hữu trí tuệ khác. Với
một sự chung sức của toàn xã hội, chúng ta tin chắc rằng, trong tương lai không xa,
Việt Nam sẽ là một quốc gia không chỉ có tiềm lực mạnh về kinh tế mà còn xây dựng
được một môi trường tốt cho mọi cá nhân, tổ chức có thể đóng góp những sáng tạo
của mình đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển mạnh về công nghệ thông
tin, nâng cao uy tín đối với nhà đầu tư nước ngoài, giúp Việt Nam đạt được mục tiêu

thực hiện tốt các cam kết quốc tế khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới./.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 16

HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn


“Thực trạng xâm phạm quyền tác giả với chương trình máy tính và giải pháp hạn chế việc xâm
phạm quyền tác giả với chương trình máy tính ở Việt Nam”

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005
2. Bộ Luật Hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009
3. Thông tư liên tịch Số: 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ
4. Một số trang Web tham khảo
- /> /> />-

/>
%A3
/>gws_rd=cr,ssl&ei=z4BuV62oCYH2vAS435Twg#q=m%C3%A1y+ch%E1%BB
%A7+l%C3%A0+g%C3%AC,
- />
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 17


HVTH: Nguyễn Thanh Tuấn



×