Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

THƠ tự TRÀO của NGUYỄN CÔNG TRỨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.63 KB, 7 trang )

THƠ TỰ TRÀO CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ
1.Khái niệm “Trào phúng” và “tự trào”
- Từ điển định nghĩa “trào phúng”:
+ Trào: Cười nhạo, chế giễu. Phúng: Nói bóng gió, nói ví.
+ Trào phúng: Nói bóng gió, nói ví nhằm tạo ra tiếng cười châm biếm, giễu
cợt.
=> Tự trào: Tự cười mình, tự chế giễu mình.
- Thơ tự trào là thơ trào phúng trong đó đối tượng bị chế giễu chính là chủ thể sáng
tác.
2.Nội dung tự trào
Thơ trào phúng của Nguyễn Công Trứ có nội dung phong phú đa dạng: thể hiện tài
năng bản thân, gia cảnh, nhân tình thế thái, đả kích quan tham; mang nhiều sắc
thái: phủ định, khẳng định, khinh bạc. Tuy nhiên, nội dung thơ tự trào tập trung
vào hai mảng chính.
2.1.Tự trào tài năng – sắc thái khẳng định
- Văn học trung đại thường đề cao cái tâm hơn cái tài, chú trọng con người đức độ
hơn con người tài năng: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Tuy nhiên một số tác
giả tài năng, có cá tính riêng vẫn ngầm khẳng định tài năng cá nhân một cách ý
nhị. Nguyễn Trãi dùng hình ảnh cây tùng để thể hiện ý thức cá nhân về tài năng
của mình: “Đống lương tài có mấy bằng mày/ Nhà cả đòi phen chống khoẻ
thay/Cội rễ bên đời chẳng động/Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày” (Tùng). Ở
đây, người đọc chỉ thấy thấp thoáng hình ảnh tác giả qua sự tương đồng giữa loài
cây tượng trưng cho quân tử với hình ảnh nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Trãi.


Đến Nguyễn Công Trứ, ý thức về con người cá nhân và tài năng đều xuất hiện một
cách trực tiếp:
+ Vũ trụ nội mạc phi phận sự / Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
(Bài ca ngất ngưởng)
+ Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
(Cầm kì thi tửu)


+ Trong trần gian ai kém ai du/ Tài bộ thế khoa danh ừ lại có
(Trần ai ai dễ biết)
Các từ “tài”, “tài bộ”, xuất hiện khá nhiều trong thơ tự trào Nguyễn Công Trứ, thể
hiện ý thức tài năng cá nhân của tác giả. Nguyễn Công Trứ không hề giấu diếm,
mà khoe tài một cách trực tiếp, đầy kiêu hãnh. Nhưng tác giả không chỉ khoe tài
mà còn bỡn cợt, chế giễu cái tài bằng cách đặt tài bên cạnh những từ mang sắc thái
đối lập (nói đến cái tài là nói đến phẩm chất của con người, là một phạm trù
nghiêm túc) như: tài bộ – vào lồng, tài – giắt lưng – để tháng ngày chơi, tài
bộ/khoa danh - ừ lại có. Các cụm từ vào lồng, giắt lưng, để tháng ngày chơi, ừ lại
có cho thấy tác giả một mặt ý thức được tài năng cá nhân, mặt khác lại đem vấn đề
đó ra bỡn cợt, mang lại cảm giác dường như việc “tài năng” đó cũng chỉ là một
điều rất “bình thường” (trái với tâm lí khoe tài – trọng tài thường thấy), rất hiển
nhiên. Vì vậy, mặc dù cái tài bị “coi nhẹ” nhưng tự trào tài năng của bản thân lại là
cách khẳng định tài năng đặc biệt của Nguyễn Công Trứ.
2.2.Tự trào cảnh ngộ – sắc thái khinh bạc, hài hước
Con đường làm quan đầy thăng trầm của Nguyễn Công Trứ khiến có thời gian ông
lâm vào cảnh nghèo khó. Mặc dù sống trong cảnh nghèo, Nguyễn Công Trứ không
hề có tư tưởng bi quan, phẫn uất, ngược lại luôn luôn là tư tưởng ngạo nghễ, khinh
bạc cảnh nghèo.


Có rất nhiều bài thơ Nguyễn Công Trứ viết về cảnh nghèo: Phận anh nghèo, Vịnh
cảnh nghèo, Than cảnh nghèo, Tết nhà nghèo, Vui cảnh nghèo, Thế tình đối với
nhà nghèo, Hàn nho phong vị phú.
Trước hết, tác giả nhìn nghèo như một cái thú của bậc hàn nho. Trong bài Hàn nho
phong vị phú, tác giả dùng sáu câu đầu để khái quát về cái nghèo cùng những hệ
lụy mà cái nghèo mang lại: “Khôn khéo mấy ai/Xấu xa một nó”, đồng thời chỉ ra
cái nghèo không chừa một ai, từ bậc thánh nhân cho đến nông dân tay cày tay cuốc
(rành rành kinh huấn, ấy ấy ngạn ngôn), như một tiếng chửi kèm tiếng thở dài. Tuy
nhiên, khi trực tiếp tả cảnh hàn nho, tác giả lại dùng hệ thống hình ảnh, từ ngữ sinh

động để nói đến ngôi nhà, đến nếp sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ:
+ Đầu nhà mọt đục vẽ sao/ Trước cửa nhện giăng màn gió
+ Bóng nắng rọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô/ Hạt mưa soi hang
chuột trong nhà, con mèo lố nhố.
+ Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no/ Đêm
năm canh yên giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
+ Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon/ Đồ chơi nhiều quạt
sậy điếu tre, của đâu những của.
Cái thiếu thốn được tác giả miêu tả, ví von như một cái thú, một điều rất đỗi bình
thường nhưng ẩn sau đó là giọng mỉa mai, chế giễu cảnh hàn nho tưởng như đầy
đủ song lại thiếu thốn đủ đường. Nhà nho vốn được coi trọng trong xã hội cũ, thế
nhưng khi lâm vào cảnh nghèo, trở thành “hàn nho” thì nhà nho cũng chịu không ít
bi kịch giữa những bủa vây con trẻ khóc, tiếng chủ nợ la ó: láng giềng ít kẻ tới nhà/
Thân thích chẳng ai nhìn họ, hay lâm vào cảnh hổ thẹn “tủi con nhà mà hổ mặt anh


em”, chịu “ngảnh mặt cúi đầu”. Sự đối lập giữa cảnh đủ đầy tự tô vẽ và tình cảnh
éo le của nhà nho đem lại cái cười vừa chua chát, vừa khinh bạc.
Bên cạnh sắc thái khinh bạc, tác giả còn có những bài tự trào cảnh nghèo một cách
hóm hỉnh:
“Tết nhất anh ni ai nói nghèo
Nghèo mà lịch sự, đố ai theo!
Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc
Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu ”
(Than cảnh nghèo)
Bài thơ xuất hiện rất nhiều hình ảnh đối lập: nghèo – lịch sự, bánh chưng chất chật
– ba chiếc, rượu thuốc ngâm đầy – nửa siêu, kêu vang – ba tiếng pháo, cao ngất –
một gang nêu tạo nên sắc thái hóm hỉnh.

Bên cạnh việc bỡn cợt cảnh ngộ nghèo khó, Nguyễn Công Trứ còn đem chính tuổi
tác ra làm đối tượng để bỡn cợt:
“Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh


Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất toạ lê hoa áp hải đường
Từ đây tạc đá ghi vàng
Bởi đâu, trước lựa tơ chắp chỉ
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ?
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
Tình đã chung, lứa cũng phải vam
Suốt kim cổ lấy làm vận sự
Trong trần thế duyên duyên nợ nợ
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai
Càng già càng dẻo càng dai!”
(Tuổi già cưới vợ hầu)
Bài thơ như một lời trần tình cho hoàn cảnh của tác giả: già nhưng vẫn cưới thêm
vợ hầu (vợ lẽ). Hai câu đầu, tác giả lí giải nguyên nhân của hoàn cảnh có chút bất
thường đó: “Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc /Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau”.
Nguyên nhân tác giả đưa ra đã ẩn chứa sự hài hước, trớ trêu: tuổi trẻ thì tạo hóa
ngẩn ngơ đến nỗi quên mất việc sắp xếp cho lứa đôi gặp gỡ để đến độ tuổi già,
Nguyệt lão bày trò “cắc cớ trêu nhau”. Bản thân cụm từ này đã khiến cho hoàn
cảnh bất thường đó trở nên trớ trêu, hài hước. Sự trớ trêu, hài hước đó còn được tác



giả triển khai ở các câu thơ sau bằng hai cặp hình ảnh đối lập: người mái tuyết đã
phau phau – kẻ đào tơ còn mảnh mảnh, nhất tọa lê hoa áp hải đường. Người mái
tuyết, lê hoa và kẻ đào tơ, hải đường là hai cặp hình ảnh tác giả Nguyễn Công Trứ
dùng để chỉ mình và cô vợ hầu. Thủ pháp đặt hai cái tương phản trong một bộ đôi
là cách Nguyễn Công Trứ tạo nên cái bất thường hài hước. Tuy nhiên hai câu thơ
tiếp theo mới là đỉnh cao của cái hài: “Tân nhân dục vấn lang niên kỷ? / Ngũ thập
niên tiền nhị thập tam” (Cô dâu muốn hỏi tuổi đức lang quân? / Năm mươi năm
trước mới hai ba). Không những thế, tác giả còn kết luận: Tình đã chung, lứa cũng
phải vam (vừa). Như vậy mặc dù mở đầu bằng tình cảnh trớ trêu của tạo hóa,
Nguyệt lão nhưng tác giả đã khéo léo chuyển thành một cái kết rất vừa vặn, đẹp đẽ,
nguyên do là bởi “tình đã chung” thì đôi lứa lệch mấy cũng thành vừa, xóa bỏ khéo
léo tình huống “tuổi già cưới vợ hầu” ngại ngùng ban đầu. Nhưng nếu chỉ có thế
thì dường như không phải Nguyễn Công Trứ. Sắc thái tự trào của bài thơ tập trung
ở ba câu cuối:
“Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai
Càng già càng dẻo càng dai”
Lão Trần ở đây chỉ Trần Tu, một người đã già nhưng lấy vợ rất trẻ. Ví mình với
Trần Tu – một người đời trước, Nguyễn Công Trứ cho thấy mình không nằm ngoài
quy luật “tập cổ” (tập cổ trong văn hóa, văn học trung đại là mẫu mực) đồng thời
còn khẳng định: xưa nay chỉ có lão Trần và ta “Càng già càng dẻo càng dai”. Một
lần nữa tác giả khéo léo sử dụng đối lập đi trái với tự nhiên để đem lại tiếng cười
hài hước.
*Tiểu kết: Ở thơ tự trào Nguyễn Công Trứ, tác giả tập trung vào hai đối tượng
chính là tài năng và cảnh ngộ. Qua một số ví dụ đã dẫn, có thể thấy tiếng cười


trong thơ Nguyễn Công Trứ không đơn giản chỉ có một màu sắc khẳng định hay
phủ định mà đôi khi là tiếng cười nghịch dị, phủ định mà để khẳng định. Tác giả

đem cái tài để bỡn cợt, coi như một điều rất hiển nhiên, tầm thường chính là để
ngầm khẳng định tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, ngất ngưởng của một con người
mà tài năng đã vượt lên trên mức độ bình thường. Ở những bài thơ tự trào cảnh
nghèo, ta lại thấy một Nguyễn Công Trứ hài hước, khinh bạc, coi cảnh nghèo như
một trải nghiệm chứ không hề bi lụy, oán thán tình cảnh đó. Tương tự đối với tuổi
tác, một mặt tác giả khẳng định và ý thức được tuổi già, mặt khác lại cho thấy nét
cười hóm hỉnh, phủ định già – yếu thường thấy, khẳng định già – dẻo dai đầy tự
hào. Như vậy, tiếng cười trong thơ tự trào Nguyễn Công Trứ thực chất là tiếng
cười nghịch dị chứ không chỉ có một sắc thái đơn nhất.



×