Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bài tiểu luận tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện qua tập thơ tình của xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.24 KB, 27 trang )

Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề:....................................................................................................................5
3. Phạm vi nghiên cứu:............................................................................................................5
4. Mục đích nghiên cứu:..........................................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu:...................................................................................................6
6. Đóng góp của đề tài:...........................................................................................................6
NỘI DUNG.................................................................................................................................7
Chương một.................................................................................................................................7
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ẨN DỤ............................................................................................7
1. Vài nét về khái niệm ẩn dụ:................................................................................................7
2. Các kiểu ẩn dụ:....................................................................................................................8
2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu..........................................................................................8
2.2. Quan niệm của Cù Đình Tú.............................................................................................8
2.3. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc.......................................................................................9
3. Phương thức ẩn dụ............................................................................................................10
3.1 vài nét về phương thức ẩn dụ..........................................................................................10
3.2. Các phương thức ẩn dụ..................................................................................................11
TIỂU KẾT.................................................................................................................................12
Chương hai................................................................................................................................13
PHƯƠNG THỨC ẨN DỤ TRONG THƠ TÌNH CỦA XUÂN DIỆU.....................................13
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm..............................................................................................13
1.1 Tác giả:............................................................................................................................13
1.2. Sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.................................................................................13
2. Khảo sát hiện tượng ẩn dụ trong thơ tình của Xuân Diệu.................................................14
2.1. Cơ sở lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh..............................................................................14
2.2.Khảo sát cách sử dụng từ ngữ liên tưởng ẩn dụ..............................................................16


2.3. Khảo sát hình ảnh làm cơ sở liên tưởng theo phương thức ẩn dụ..................................17
2.3.1. Một hình ảnh làm cơ sở cho sự liên tưởng..................................................................17
2.3.2. Một hình ảnh làm cơ sở cho hai liên tưởng.................................................................21
2.3.3. Một hình ảnh làm cơ sở cho nhiều liên tưởng.............................................................22
TIỂU KẾT.................................................................................................................................25
KẾT LUẬN...............................................................................................................................26

SV: Hà Thị Hồng

1

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu

PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương bằng những
tác phẩm văn học Pháp vào thế kỉ thứ XIX. Sau đó, nó ngày càng trở nên phổ
biến trong các tác phẩm văn chương. Và theo thời gian, bằng những tác phẩm
xuất sắc của mình, chủ nghĩa lãng mạn ngày càng khẳng định được vị trí, những
đóng góp của mình đối với nền văn học nói chung. Một trong những đặc điểm
nổi bật nhất, mang đậm dấu ấn riêng của chủ nghĩa lãng mạn chính là việc đề
cao chủ nghĩa cá nhân, đề cao cái “tôi” rất riêng của nhà thơ thay vì cái “ta”
chung trong chủ nghĩa cổ điển. Lần đầu tiên, những ý thức cá nhân, những quan
điểm, khuynh hướng thẩm mỹ, xúc cảm, con mắt cá nhân được đề cao và được
coi như là trung tâm của văn chương. Nhà nghệ sĩ mạnh dạn bày tỏ hình ảnh của
chính mình, đưa một cái “Tôi” nhân vật rất đậm nét vào trong văn chương. Nhắc
đến chủ nghĩa lãng mạn, có thể kể tên hàng loạt loạt các tác giả, tác phẩm tiêu
biểu với tập thơ Trầm tư với truyện ngắn Lời bộc bạch của những đứa con thời

đại, với tiểu thuyết Cái đầm ma; với tập thơ Tia sáng và bóng tối, tiểu thuyết
Nhà thờ đức bà Paris, Những người khốn khổ, kịch Hernani. Với văn học Việt
Nam, chủ nghĩa lãng mạn thực sự mang dấu ấn đậm nét sau khi sự ra đời của
phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Đây là giai đoạn mà văn học Việt Nam có sự
đổi mới, cách tân vô cùng kì diệu, có sự chiến đấu mãnh liệt giữa yếu tố cũ - yếu
tố mới và kết quả là hàng loạt những tác giả, tác phẩm nổi tiếng đã ra đời, đem
đến một hơi thở, một tiếng nói rất riêng, một “luồng gió mới lạ” cho nền văn học
nước nhà. Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, đến Thơ mới, người ta không thể
không nghĩ đến Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”, người
đã góp phần đưa Thơ mới lên đến giai đoạn đỉnh cao nhất của nó. Trong thơ
Xuân Diệu, người đọc có thể thấy dấu ấn đậm nét, cảm hứng lãng mạn im đậm
trong mỗi vần thơ, thấm vào từng câu chữ, tứ thơ, thể hiện qua cả hình thức và
nội dung tác phẩm. Trong bài viết này, do sự hiểu biết còn hạn hẹp và thời lượng
không cho phép. Chắc hẳn, bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong cô góp ý
cho tôi để bài viết được hoàn thiện hơn.
1. Lý do chọn đề tài.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh từng nhận xét: "Chưa bao giờ người
ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược
Pháp, ảo nào như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan
Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Không phải ngẫu nhiên nhà phê bình văn học lại đặc biệt sử dụng ba tính
từ để nhận xét về Xuân Diệu với một hồn thơ “tha thiết, rạo rực, băn khoăn”.
Bởi đơn giản ở Xuân Diệu người ta nhận thấy một “nhà thơ mới nhất trong các
nhà Thơ mới”.

SV: Hà Thị Hồng

2


Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Do chịu ảnh hưởng của thơ lãng mạn Pháp, thơ tình Xuân Diệu như một
luồng gió mới cả về tứ thơ, ngôn ngữ, âm điệu và cách thể hiện... Với Xuân
Diệu, yêu là mục đích, là lẽ sống:
"Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào".
Hoài Thanh đã từng nhận xét "Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa
từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm
cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi
của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết". Thế nên,
trong thơ tình Xuân Diệu luôn có được cái say đắm, hối hả, cuống quýt, muốn
tận hưởng ngay những gì hiện có của cuộc đời, muốn tắt nắng buộc gió
"ta muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Ta muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Để giữ lại muôn sắc tươi đẹp của cuộc đời. Bởi nhà thơ luôn sợ "Xuân
đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết cũng là tôi cũng mất
Không cho dài thời trẻ của nhân gian".
Nhiều lúc dường như không thể chờ đợi, thi sĩ đã giục giã
"Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rồi
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi
Nhanh lên chứ thời gian không đứng đợi".
Trong thơ Xuân Diệu ta luôn cảm nhận được cái rạo rực, háo hức của một

tâm hồn đang yêu, từ đó ta cảm nhận được một con người luôn ham yêu, ham
sống, dâng hiến hết mình cho cuộc đời. Chính vì thế mà Vũ Ngọc Phan đã dành
cho ông những lời đẹp nhất "Thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất
cả các nhà Thơ Mới". Chất người, chất thơ của ông hòa quyện làm một dựng lên
lầu thơ tình tuyệt diệu của nhân gian.
Trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam, thơ mới đóng vai trò quan
trọng trong quá trình hiện đại hoá văn học. Phong trào thơ mới – trào lưu tiêu
biểu của thơ ca công khai giai đoạn 1930 – 1945 đã quy tụ không biết bao nhà
thơ, nhà văn độc đáo như: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Thế Lữ… Mỗi
người mỗi vẻ, một trái tim yêu thương với nhịp đập sôi nổi và dịu dàng khác
nhau. Trên bầu trời văn học ấy đã xuất hiện “ ông hoàng thơ tình” làm rụng
động biết bao trái tim trẻ - đó chính là Xuân Diệu. đến với phong trào thơ mới,
Xuân Diệu mang theo một nguồn cảm hứng yêu đời dạt dào chưa từng có trên
thi đàn Việt Nam. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu thật lạ một thứ tình yêu nguyên
sơ như thuở hồng hoang
SV: Hà Thị Hồng

3

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Xuân Diệu là nhà thơ đa tài, có vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ ca Việt
Nam hiện đại. Cho nên để hiểu sâu và toàn diện về thơ Xuân Diệu là một việc
làm không dễ, chúng ta không thể tìm hiểu rõ mọi khía cạnh thơ của thi nhân.
Do đó tôi chỉ khái quát một khía cạnh nhỏ trong thơ Xuân Diệu đó là “ tìm hiểu
phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu” để làm bài tiểu luận.
Xuân Diệu là nhà thơ được nghiên cứu rất nhiều, có không ít bài tiểu luận,
bài nghiên cứu phê bình, khảo sát về thơ Xuân Diệu nói chung và thơ tình nói

riêng. Nhưng chưa bao giờ người phê bình giám nói đã nghiên cứu xong thơ
Xuân Diệu. Với đề tài này tôi có nhiều thuận lợi bởi lẽ bài viết bài nghiên cứu
về Xuân Diệu tương đối nhiều và đã khám phá sâu rộng trên các bình diện nội
dung phương pháp, nghệ thuật thi pháp… nên biết kế thừa cái hay cái đẹp đó.
Tuy nhiên tôi gặp một số khó khăn, đó là phải “cày trên miếng đất có rất nhiều
người đã cày và đang cày “. Tuy nhiên tôi vẫn chọn đề tài này vì tôi là một
người rất yêu mến thơ tình Xuân Diệu, cũng từng say đắm với những vần thơ
tình lãng mạn của ông. Do đó tôi muốn tìm hiểu về thơ tình Xuân Diệu sâu hơn,
để tận hưởng hưng vị ngọt ngào trong những vần thơ tình đắm say của ông.
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở, là sức sống cho mọi tâm hồn, cho nên
cuộc sống con người luôn gắn với tình yêu, như L. Tolstoi: “ tình yêu biến
những điều vô nghĩa của cuộc đời thành có ý nghĩa, làm cho những ai bất hạnh
trở thành hạnh phúc” còn V, Huygo lại cho rằng: “ Thế giới không có người biết
yêu thì mặt trời sẽ tắt”. do đó, việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ qua thơ tình
Xuân Diệu là một công việc có ý nghĩa.
Tìm hiểu phương thức ẩn dụ thong qua mảng thơ tình của Xuân Diệu, góp
một phần sức nhỏ khẳng định đúng với bản chất như nhiều người vẫn khẳng
định Xuân Diệu: “ nhà thơ tình bậc nhất” ( Hà Minh Đức ); “ nhà thơ tình kiệt
xuất” ( Lê Đình Kỵ)….đến “ đệ nhất thi sĩ tình yêu trong lịch sử văn học Việt
Nam “. Qua đó cho thấy rõ Xuân Diệu là nhà thơ tình số một của văn học Việt
Nam.”
Đồng thời tôi muốn tìm hiểu và nắm vững phương thức ẩn dụ, vừa làm
giàu kiến thức cho mình vừa góp phần nhỏ bé để làm tiếng việt thêm phong phú,
đa dạng về nghĩa
Như vậy việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ thình của Xuân
Diệu sẽ mang lại nhiều lợi ích cho bản thân người nghiên cứu có thể nắm vững
kiến thức về những bài thơ tình của Xuân Diệu và tìm hiểu thêm về phương thức
ẩn dụ sẽ phục vụ tốt cho công tác dạy học sau này.
Với tất cả những lí do trên là động lực quan trọng giúp tôi đi sâu nghiên
cứu vấn đề: “Tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện qua tập thơ tình của Xuân

Diệu”.

SV: Hà Thị Hồng

4

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
2. Lịch sử vấn đề:
Việc nghiên cứu phương thức ẩn dụ từ lâu đã được các nhà Việt ngữ học
quan tâm. Năm 1940, tác phẩm của Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm giới
thiệu một cách sơ lược về ẩn dụ văn chương. Trong giáo trình về từ vựng học
tiếng Việt cụ thể là Nguyễn Văn Tú, Đỗ Hữu Châu đều có đề mục viết về hiện
tượng chuyển nghĩa nói chung, phương thức ẩn dụ nói riêng.
Cù Đình Tú xem ẩn dụ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối
tượng này để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối liên tưởng về nét tương
đồng giữa hai đối tượng.
Đinh Trọng Lạc một lần nữa khi nghiên cứu về giáo trình và phong cách
học của mình trước đây và đồng thời tiếp thu những thành tựu mới của ngôn ngữ
học hiện đại, đã khẳng định ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình
tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được định danh
với khách thể B có tên gọi được chuyển sang dung cho A.
Nhìn chung, vấn đề ẩn dụ được nghiên cứu không ít, nhưng ít gặp bài
nghiên cứu khảo sát ẩn dụ trong tác phẩm văn học , nên tôi muốn tiến hành việc
“ tìm hiểu phương thức ẩn dụ qua thơ tình của Xuân Diệu”.
Đối với nhà thơ Xuân Diệu, phải nói rằng Xuân Diệu là một trong những
hiện tượng thẩm mĩ của thi ca văn học Việt Nam. Từ trước tới nay đã có nhiều
nghiên cứu về thơ tình Xuân Diệu. Thu Hoài và Nguyễn Đức Quyền tập trung

đánh giá vị trị, vai trò của Xuân Diệu trong đời sống văn học nghệ thuật dân tộc
với “Xuân Diệu – nhà thơ lớn của dân tộc”. Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “
Tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện qua tập thơ tình của Xuân Diệu” để làm đề
làm bài tiểu luận này.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Hiện tượng chuyển nghĩa nói chung cũng như phương thức ẩn dụ nói riêng
biểu hiện vô cùng sinh động, không dễ gì nắm bắt được. Để thực hiện được mục
đích của mình trong khuôn khổ bài tiểu luận, trong điều kiện hạn hẹp của bản
thân. Với đề tài này tôi đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu những bài thơ tình có ẩn
chứa phương thức ẩn dụ qua hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
4. Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này người viết có dịp đi sâu khám phá và lý giải những nét độc
đáo, mới lạ những đóng góp mới về phương diện sử dụng phương thức ẩn dụ
trong thơ tình Xuân Diệu.
Thêm vào đó, việc nghiên cứu đề tài này góp phần khẳng định phần quan
trọng trong việc liên tưởng sáng tạo nhiều từ mới thông qua phương thức ẩn dụ,
để tạo nên những thành công về phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ
Xuân Diệu.

SV: Hà Thị Hồng

5

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Mặt khác, đi vào nghiên cứu vấn đề này, người vết còn có dịp làm quen với
một phương pháp nghiên cứu và thực hiện bài tiểu luận, làm nền tảng cho những
bước nghiên cứu tiếp theo.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài này, tôi sử dụng rất nhiều phương pháp để nghiên
cứu. từ phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ đến phương pháp nghiên cứu văn
học. Với phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ tôi sử dụng phương pháp phân tích
– tổng hợp để nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó còn kết hợp với việc sử dụng tất cả
các phương pháp văn học: diễn dịch, quy nạp, liệt kê… để phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài này.
Tất cả các đề tài đều sử dụng các phương pháp tích hợp, đó là tổng hợp các
tri thức đã được tích luỹ có liên quan. Để phục vụ tốt cho bài tiểu luận này.
Trong quá trình nghiên cứu tôi liệt kê những câu thơ có sử dụng hình ảnh
ẩn dụ để tiện cho việc khảo sát.
6. Đóng góp của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài đã nêu bật được cơ sở lí luận của vấn đề từ
khái niệm đến những đặc trưng cơ bản, đưa ra những dẫn chứng cụ thể để chứng
minh cho những lí luận khoa học đó. Đề tài còn đi sâu nghiên cứu phương thức
ẩn dụ trong thơ tình của Xuân Diệu để có những nội dung phù hợp với nhận
thức và năng lực của học sinh. Mặt khác những nội dung trong đề tài dựa trên
mục tiêu và nội dung để phục vụ cho đối tượng là học sinh. Vì vậy từ nội dung
cho đến hình thức ngôn ngữ đều được cân nhắc lựa chọn đơn giản gần gũi với
học sinh. Đó là những đóng góp, có tính sáng tạo cũng như có tính ứng dụng,
đáp ứng nhu cầu thiết thực của cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng trong
việc giảng dạy môn Ngữ Văn.
Đề tài được xem là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên, phụ
huynh, học sinh và sinh viên.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho các em hiểu chính xác hơn đầy đủ hơn
về phương thức ẩn dụ và từ đó phát huy tính chủ động sáng tạo, biết liên hệ và
ứng dụng nội dung kiến thức vào thực tiễn.

SV: Hà Thị Hồng


6

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu

NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ẨN DỤ
1. Vài nét về khái niệm ẩn dụ:
Trong ngôn ngữ, không có từ nào hay hơn từ nào hoặc từ nào dở hơn từ
nào mà giá trị của nó thể hiện ở cách vận dụng có phù hợp không. Vì vậy, việc
lựa chọn từ ngử là để tạo ra những câu nói vừa độc đáo, hấp dẫn, vừa thể hiên
được sự nhạy bén, sáng tạo và tài sử dụng ngôn ngữ của người nói.
Sử dụng các biện pháp tu từ là một trong những cách làm cho câu nói hay câu
thơ thêm đặc sắc. trong đó người ta thường dung mối quan hệ liên tưởng để biểu
thị đối tượng. Các phương thức ngữ nghĩa được cấu tạo theo quan hệ liên tưởng
là so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,...
Khái niệm về ẩn dụ đươc các nhà ngôn ngữ học nêu lên với nhiều cách diễn
đạt khác nhau:
- Trong cuốn” Phong cách học tiếng Việt” của Cù Đình Tú –Lệ Anh Hiền –
Nguyễn Thái Hoà – Võ Bình (1982) có viết: “ Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của đối
tượng này để lâm thời biểu thị một đối tượng khác trên cơ sở thừa nhận ngầm
một nét giống nhau nào đấy giữa hai đối tượng”.
- Trong quyển “ Phong cách học và phong cách chức năng tiếng Việt” Hữu
Đạt nêu: “ Ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu thị sự vật khác dựa trên
cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc” .
- Còn tác giả Đinh Trọng Lạc trong cuốn “ 99 phương tiện và biện pháp tu
từ tiếng việt” cho rằng: “ Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình

tượng dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được định danh
với khách thể B có tên gọi được chuyển sang dung cho A.”
Trên cơ sở những quan điểm về ẩn dụ nêu trên rút ra kết luận về khái niệm
ẩn dụ làm cơ sở cho việc nghiên cứu, khảo sát đề tài tiểu luận như sau:
- Ẩn dụ là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai
sự vật có nét tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên
gọi dựa trên sự đồng nhất hoá các sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên
tưởng của con người phát hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét hay một đặc
điểm nào đó.

SV: Hà Thị Hồng

7

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
2. Các kiểu ẩn dụ:
2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu
Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ có các kiểu sau:
- Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức
giữa các sự vật.
- Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách
thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.
- Ẩn dụ chức năng là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về chức năng
giữa các sự vật
- Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của
các sự vật đối với con người
Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế nét nghĩa đồng nhất không phải bao giờ

cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều ẩn dụ không chỉ một mà thường là
một số nét nghĩa cùng tác động.
Ví dụ: Trong những từ như: Mũi, chân cả hai nét nghĩa hình dáng và vị trí
phối hợp với nhau tạo nên các nét nghĩa ẩn dụ của chúng ( trong chân bàn thì có
nét nghĩa hình dáng nhưng trong chân núi thì chủ yếu là nét nghĩa vị trí).
2.2. Quan niệm của Cù Đình Tú
Theo Cù Đình Tú trên lý tuyết nếu như có bao nhiêu khả năng tương đồng
thì có bấy nhiêu khả năng cấu tạo ẩn dụ tu từ. có thể nêu một số khả năng tương
đồng được dùng làm cơ sở để cấu tạo nên các ẩn dụ tu từ:
- Tương đồng về màu sắc:
“ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
( Nguyễn Du)
Lửa và hoa có màu sắc như nhau, lửa biểu thị của hoa.
- Tương đồng về tính chất:
“ Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hang thế kỉ bỗng bừng
lên buổi bình minh của thời”
( Lê Duẩn)
Bóng đêm và chế độ thực dân, phong kiến có tính chất như nhau (tăm tối),
bong đêm biểu thị cho chế độ thực dân phong kiến.
- Tương đồng về trạng thái:
“ Cứ ngỡ hồn thơm lại tái sinh
Ngôi sao ấy lặn hoá bình minh”
( Tố Hữu )
SV: Hà Thị Hồng

8

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55



Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
- Tương đồng về hành động:
“ Thay mặt cho tất cả các tổ chức ấy chỉ có một mình anh uỷ viên thường
trực trẻ tuổi. con song nhỏ hứng trăm con dòng suối trút xuống.”
( Chu Văn )
- Tương đồng về cơ cấu:
“ Thầy quen nhẫn nại như một người đan rổ: tay bắt từng nan một, uốn nắn
cho khéo, vào khuôn vào khổ. Nhiều nan bị gãy nhưng rỗ vẫn thành rổ”
( Chu Văn )
2.3. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc
Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ thành các kiểu nhóm sau: ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung
và ẩn dụ tượng trưng. Ngoài ra ông còn coi nhân hoá và vật hoá là những biến
thể của ẩn dụ.
- Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ:
Hoa thơm bán một đồng mười
Hoa tàn nhị rữa bán đôi lạng vàng
( ca dao )
Có thể nói ẩn dụ hình tượng là phương thức bình giá riêng của cá nhân nhà
văn, nhà thơ. Bằng những sắc thái ý nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm
được, ẩn dụ hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả
năng cảm thụ sáng tạo.
- Ẩn dụ bổ sung là sự kết hợp của hai hay nhiều từ chỉ những cảm giác
sinh ra từ khu cảm giác khác nhau làm cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị,
đa nghĩa.
- Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với một
khái niệm về cảm giác
Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Nó trở thành một phương
tiện tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan kì diệu của
con người.

Ví dụ:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
( Huy Cận )
Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
như: Đỗ Hữu Châu, Cù Đình Tú. Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ
được trình bày theo các cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà
SV: Hà Thị Hồng

9

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
bổ sung cho nhau nhằm đem đến một cách hiểu đầy đủ và thống nhất về ẩn dụ tu
từ. đẻ từ đó, có một cái nhìn toàn diện hơn trng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
về phương thức ẩn dụ qua tập thơ tình của Xuân Diệu.
3. Phương thức ẩn dụ
3.1 vài nét về phương thức ẩn dụ
Ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm, trong đó vế so sánh được giảm lược đi
chỉ còn lại vế được so sánh. Như vậy, phương thức ẩn dụ là phương thức chuyển
nghĩa của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một
nét nghĩa tương đồng nào đó.
Ví dụ:
Thuyền đi đẻ bến đợi chờ
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
( Ca dao )

Câu ca dao trên nói thuyền mà không phải thuyền, nói bến mà không phải
bến. vì theo quan niệm củ người xưa là “ nam nhi chí tại bốn phương, còn nữ nhi
thì tề gia nội trợ”. Thuyền được ví như là người con trai còn bến là người con
gái
Như đã nói ẩn dụ được dung khá phổ biến. ẩn dụ xuất hiện trong ngôn ngữ
khi nào có sự so sánh ngầm hoặc là tên gọi của sự vật được chuyển đổi trên cơ
sở so sánh nhưng thiếu các từ so sánh
Các từ ẩn dụ không phải chỉ là danh từ, mà đôi khi chỉ cần chuyển nghĩa
của một động từ là có thể kéo theo một loạt từ chuyển nghĩa, điều đó khiến ta
nghĩ đến phương thức ẩn dụ của câu hoặc là một đoạn câu và như vậy có thể mở
rộng khả năng diễn đạt và cảm thụ đến một phạm vi rộng lớn hơn.
Nói đến ẩn dụ là phải nói đến thơ ca, đặc biệt là thơ trữ tình, thơ trữ tình
mới thật sự là “ vương quốc của các ẩn dụ”.
Nếu như thuyền và bến trong câu ca dao lúc nãy đã mòn sắc thái biểu cảm
thì Chế Lan Viên lại ngược lại:
Để lòng anh hoá bến
Nghe thuyền em ra đi
Nếu Xuân Quỳnh lấy thuyền và biển làm ẩn dụ thì Xuân Diệu lại là biển và
bờ
Cũng có lúc rào rạt
Muốn nghiến nát bờ em.
Ẩn dụ đem đến cho thơ ca những cái mới trong cảm nhận thế giới và mở ra
cho con người những khả năng tìm tòi, khám phá về các mối liên hệ, quan hệ
giữa các sự vật, hiện tượng. nó làm cho trí tưởng tượng thêm phong phú, bay
SV: Hà Thị Hồng

10

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55



Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
bổng thoát khỏi sự phản ánh các sự kiện bằng lối cấu trúc ngôn ngữ thong
thường. Thông qua ẩn dụ, người ta có thể nhận ra phong cách riêng của từng
nhà thơ.
3.2. Các phương thức ẩn dụ
a. Ẩn dụ tu từ học
Trong ca dao người ta bắt gặp nhiều cách nói như sau:
Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây
Giếng sâu thể hiện tình yêu sâu sắc
Giếng cạn thể hiện tình yêu nông cạn, hời hợt
Nối sợi dây dài đáp lại tình cảm thắm thiết
Sợi dây tình yêu của chủ thể
Cách ẩn dụ như vậy gọi là ẩn dụ tu từ. Ẩn dụ tu từ là biện pháp lấy tên gọi
biểu thị đối tượng này để chỉ đối tượng kia dựa vào nét tương đồng về hình
dáng, màu sắc, trạng thái, phẩm chất hoặc chức năng… của các đối tượng khác
loại.
Ẩn dụ tu từ trong tiếng Việt rất đa dạng và phòn phú. Người Việt Nam có
bao nhiêu mối liên tưởng thì sẽ có bấy nhiêu ẩn dụ.
b. Ẩn dụ từ vựng
Xét về mặt chức năng ẩn dụ từ vựng là đối tượng của từ vựng học. Đó là sự
chuyển nghĩa của từ được thực hiện theo những liên tưởng so sánh tương đồng
giữa hai sự vật đã thành của chung, của cộng đồng, mang tính bắt buộc thực sự
tạo nên nghĩa mới của từ. những nghĩa mới này được ghi lại trong từ điển.
Cũng xét về mặt cức năng ẩn dụ từ vựng học có thể chia làm hai loại: Ẩn
dụ định danh và ẩn dụ nhận thức. Đinh Trọng Lạc nhận định hai loại này như
sau:
Ẩn dụ định danh là một thủ pháp có tính chất thuần tuý kỷ thuật dung để
cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ vựng cũ

Ví dụ: Đầu làng, chân trời đây là nguồn tạo nên những tên gọi chứ không
phải là loại ẩn nhằm phát hiện sắc thái ý nghĩa. Nó tác động trực tiếp vào trực
giác để gợi mở và tác động vào cách nhìn để chỉ xuất, không đem lại cho người
đọc những cảm xúc về vẻ đẹp của ngôn từ mang tính biểu cảm, không gợi lên sự
liên tưởng phong phú.
Ẩn dụ nhận thức là loại ẩn dụ nảy sinh do kết quả của việc làm biến
chuyển khả năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi ý nghĩa của
chúng từ cụ thể đến trừu tượng.

SV: Hà Thị Hồng

11

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Ví dụ: những từ ngữ chỉ đặc trưng như : giá lạnh, hiền hoà, mơn mởn…
vốn có ý nghĩa cụ thể và cí khả năng kết hợp với những từ ngữ chỉ sự vật, hiện
tượng như: băng tuyết, con người, cây cối.

TIỂU KẾT
Ở chương này tôi đã trình bày một số vấn đề lí thuyết cơ bản về ẩn dụ như:
khái niệm về ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ, khái niệm về phương thức ẩn dụ, khình thức
cấu tạo…
Ẩn dụ là phương thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai
sự vật có nét tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên
gọi dựa trên sự đồng nhất hoá các sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên
tưởng của con người phát hiện ra ở chúng có ít nhất cùng có một nét hay một
đặc điểm nào đó.

Ẩn dụ ca dao khác với ẩn dụ trong Truyền Kiều, của thơ Hồ Xuân Hương,
của Lục Vân Tiên… mỗi nhà thơ có một phong cách riêng cũng như mỗi thời
đại có cách cảm nhận và phản ánh thế giới theo cách riêng. Thơ trữ tình thực sự
là vương quốc của ẩn dụ. Đây có thể là địa hạt khai phá nghệ thuật không bao
giờ mòn cũ của nghệ sĩ. Bởi mỗi bài thơ là một tâm trạng và có những mã riêng
của nó. Ẩn dụ thể hiện phong cách sang tạo nghệ thuật riêng của tác giả, phong
cách thời đại và phong cách dân tộc. Nghiên cứu phương thức ẩn dụ của một tác
giả nào đó sẽ có những “ trường phong cách” khác nhau. Vì lẽ đó tôi đã chọn
khảo sát phương thức ẩn dụ trong thơ tình của Xuân Diệu, ông hoàng của thơ
tình Việt Nam để từ đó có thể tìm ra điểm cốt lõi của phong cách một nhà thơ
lớn.

SV: Hà Thị Hồng

12

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu

CHƯƠNG HAI
PHƯƠNG THỨC ẨN DỤ TRONG THƠ TÌNH CỦA XUÂN DIỆU
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm.
1.1 Tác giả:
Xuân Diệu(2 tháng 2năm 1916 – 18 tháng 12 năm 1985 ) tên thật là Ngô
Xuân Diệu, bút danh là Trảo Nha, quê ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc tỉnh Hà
Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hoà tỉnh Bình Định. Cha
ông là Ngô Xuân Thọ ở Hà Tĩnh, đỗ tú tài Hán học, vào làm thầy dạy học ở
Bình Định, kết duyên với bà Nguyễn Thị Hiệp.

Thưở nhỏ Xuân Diệu học chữ Nho, chữ quốc ngữ và cả tiếng Pháp với
cha, năm 1927 xống học ở Quy Nhơn, đỗ bằng thành chung năm 1934. Thời kì
này Xuân Diệu đã tập làm những bài thơ theo các thể thơ truyền thống và rất
mến phục Tản Đà.
Năm 1935 – 1936, Xuân Diệu ra học tú tài một tại trường trung học bảo hộ
tại Hà Nội. năm 1936 – 1937, Xuân Diệu học tú tài hai ở trường trung học Khải
Định – Huế. Tại đây, ông đã gặp Huy Cận, học sau hai lớp, và hai bạn thơ đã kết
nghĩa với nhau một tình bạn bền bỉ ngót năm mươi năm.
Năm 1944 Xuân Diệu tham gia cách mạng, năm 1945 tham gia cướp chính
quyền Hà Nội. Sau cách mạng tháng tám 1945 ông là uỷ viên BCH Hội Văn hoá
cứu quốc, thư kí tạp chí tiên phong. Đến năm 1946, Xuân Diệu là đại biểu quốc
hội khoá I. Xuân Diệu được kết nạp Đảng năm 1947. năm 1985, Xuân Diệu
được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng I và cũng trong năm này Xuân
Diệu qua đời sau một cơn bạo bệnh vào ngày 18/12. Là cây đại thụ của nền thi
ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại 450 bài thơ, một số truyện ngắn và
bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. Ông đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh đợt I về văn học nghệ thuật năm 1996. Tên của ông được đặt cho một con
đường phố ở Hà Nội, và cũng được đặt cho một trường trung học phổ thông ở
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
1.2. Sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Con đường đi của nhà thơ Xuân Diệu từ một nhà thơ lãng mạn thành một
nhà thơ cách mạng là con đường tiêu biểu cho nhà thơ thuộc phong trào thơ mới
1932 – 1945.
Bài thơ Với bàn tay ấy đăng ở báo Phong Hoá 1935 – 1936 là bài thơ đầu
tiên của Xuân Diệu. năm 1938 Xuân Diệu mới bắt đầu sự nghiệp thơ văn của
mình bằng việc cho xuất bản tập thơ đầu tiên là Thơ thơ. Tập thơ đầu tay này đã
đưa Xuân Diệu lên hàng đầu của nhà thơ Tiền chiến.
SV: Hà Thị Hồng

13


Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp nghiên cứu đồ sộ với nhiều thể loại. Khi
nghiên cứu về tác giả Xuân Diệu thì các nhà nghiên cứu đã chia sự nghiệp thơ
văn của nhà thơ Xuân Diệu ra làm hai giai đoạn:
Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945: Xuân Diệu mở đầu cho sự
nghiệp và nổi tiếng trên thi đàn 1932 – 1945 bằng hai tập Thơ thơ (1938) và Gửi
hương cho gió (1944). Với hai tập thơ này Xuân Diệu đã đưa thơ mới lên một
đỉnh cao mới và bản thân của nhà thơ cũng được giới phê bình nhận định rằng: ‘
Xuân Diệu là một hiện tưởng điển hình, một nhà thơ tiêu biểu nhất cho Phong
trào thơ mới”
Giai đoạn sau cách mạng tháng tám 1945: cách mạng tháng tám bùng nổ,
Xuân Diệu và Huy Cận hăng hái tham gia hoạt động lên án bọn Việt Cách, Việt
Quốc chống phá chính quyền cách mạng và làm nhiều bài thơ đả kích mạnh mẽ,
rồi cho xuất bản tập tráng ca Ngọn quốc kỳ ca ngợi cờ đỏ sao vàng của Tổ
Quốc. Đến đầu năm 1946, lại xuất bản tập tráng ca Hội nghị non sông ca ngợi
cuộc tổng tiển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng Hoà.
Năm 1951, ấn hành tập tiểu luận Tiếng thơ. Sau hoà bình lập lại Xuân Diệu
cho xuất bản hai tập thơ Ngôi sao và Mẹ con. Trong đó tập Ngôi sao đạt giải văn
nghệ năm 1954 – 1955….
Ngoài ra Xuân Diệu còn dịch và xuất bản một số thơ của nước ngoài như
tập thơ dịch Thi hào Nadim Hitmet năm 1962. Xuân Diệu còn dịch tập thơ Vây
giữa tình yêu của Blaga Dimitroova, thơ Puskin, Êxeenhin, Ximonop…
Cả hai chặng đường trước và sau cách mạng tháng tám 1945 Xuân Diệu
đều đạt được những thành tựu, ông tham gia hầu hết các lĩnh vực: sang tác, phê
bình, tiểu luận, nghiên cứu, dịch thuật cho đến nói chuyện về thơ. Dù phương
diện nào Xuân Diệu cũng có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn học Việt Nam.

Như Vũ Ngọc Phan từng nhận xét “ Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất
cho thơ ca Hiện đại Việt Nam”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và
trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sửu dân tộc. Chính vì thế có thể
nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là một nhà thơ lớn, nhà văn hoá lớn.
2. Khảo sát hiện tượng ẩn dụ trong thơ tình của Xuân Diệu
2.1. Cơ sở lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh
Xuân Diệu sinh ra trong thời điểm giao thời giữa hai nền văn hoá, ông cũng
là nhịp cầu nối giữa hai vùng quê: “ Gió Lào cát trắng” Hà Tĩnh quê cha và vùng
biển Quy Nhơn quê mẹ. Chính ngọn gió quê hương đã gợi lên con sóng lãng
mạn đầu tiên góp phần làm nên những hình ảnh thơ độc đáo của nhà thơ này. Và
khi chàng thi sĩ trẻ bước vào làng thơ, đúng như lời Kiều Văn đã nói: “Xuân
Diệu dường như đã lựa chọn cho mình một tôn chỉ: Sống để yêu và phụng sự
SV: Hà Thị Hồng

14

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
cho Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và
bằng việc hăm hở làm thơ tình! Xuân Diệu ví mình như một con chim bay hay
hát.”
Tôi réo rắt, chẳng qua trời bắt vậy,
Chiếc thuyền lòng, nước đẩy phải trôi theo.
(Lời thơ mở đầu tập thơ Gởi Hương)
Thật quả vậy trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này để ca
hát về tình yêu. Ông sống hết mình cho tình yêu cộng với tài thơ thiên phú, gặp
lại buổi “ Gió Âu mưa Mĩ”, lòng yêu đời và nỗi khao khát tình yêu đã trở thành
nguồn cảm xúc chủ đạo ngự trị trong tâm hồn thi sĩ và ở đó ông đã tạo ra thế

giới nghệ thuật rất riêng cho mình.
Xuất phát từ con tim khao khát giao cảm với đời, Xuân Diệu luôn cảm
nhận cuộc đời bằng đôi mắt xanh non mới lạ, bằng đôi tai thính nhạy, bằng xúc
giác mạnh mẽ, bằng cả sức sống của tuổi trẻ. Trong thế giới thơ của ông, không
có khoảng không gian ngút ngàn mây nước với ý thơ muốn chiếm lĩnh cả vũ trụ
như Huy Cận, không có không gian thiên đường bồng lai, những cảnh sơn lâm
bong cả cây già như Thế Lữ, không siêu thoát, mờ ảo như Hàn Mặc Tử…
Không gian nghệ thuật của Xuân Diệu chỉ là thiên nhiên ở giữa cuộc đời, suy
rộng ra chính là vẻ đẹp nơi trần thế, nơi ông sinh ra và lớn lên. Bởi vậy các từ
ngữ, hình ảnh mang tính ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu, cũng là các từ gần gũi
với thế giới xung quanh ta, theo như tôi khảo sát thường xuất hiện những từ ngữ
chỉ các hiện tượng tự nhiên như: mây, gió, trăng, sao, nắng, mưa… chỉ các loài
động thực vật: ong, bướm, cỏ, hoa… Có xa lạ gì đâu những hình ảnh quen thuộc
ấy, mà sao khi đi vào những trang thơ trữ tình ấy, Xuân Diệu đã tạo nên những
trang thơ mới lạ, có lúc làm người đọc phải suy ngẫm, liên tưởng. triết lý sống
của mỗi con người “ sống là yêu và chết đi rồi vẫn còn yêu” thì cảnh sắc thiên
nhiên đã được nhân hoá, gắn vào các trạng thái tình cảm cuả con người:
Đường rất lặng với hang cây hay nhớ
Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn!
( Tình mai sau )
Nhà thơ còn mang cảm xúc trẻ trung sôi nổi của mình trải vào cảnh vật.
đem những ước mơ, khát vọng của mình phủ lên thiên nhiên. Ông bắt thiên
nhiên phải hiểu ý mình, để biến những cái vốn vô tri vô giác thành những cái
trĩu nặng tâm tư hoắc tưng bừng sự sống. chẳng hạn chỉ với một từ “ gió ” mà
Xuân Diệu đã tạo cho đời biết bao sắc thái:
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát cành đào.
( Nụ cười xuân )
SV: Hà Thị Hồng


15

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Những tiếng ân tình hoa bảo gió
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân
( Với bàn tay ấy )
Bên cạnh lòng say mê hưởng thụ hết tất cả những gì mà tạo hoá đã ban tặng
thì ẩn đằng sau đó là một tâm hồn luôn nhạy cảm. Thơ ông thể hiện tình yêu
thiên nhiên, cuộc sống của con người cuồng nhiệt. những vần thơ thuộc dòng
văn chương bác học, và ở thời mà cái tôi thể hiện rõ. Ông muốn hoà mình với
đời nhưng tự thấy mình là kẻ cô đơn, lạc loài nên lại như người bị giam lỏng.
ước vọng không thành, không thoả mản với thực tại, cho nên ông càng thêm ảo
tưởng. phải chăng vì vậy mà trong thơ ông ít thấy có sự hoà hợp, xứng lứa vừa
đôi, khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ ở việc các từ ngữ mang
nghĩa ẩn dụ biểu hiện những cung bậc tình cảm cuả thi sĩ thể hiện ở dạng đơn lẻ.
Theo nhà thơ, không có gì là vĩnh cửu, tất cả đều có thể biến đổi, từ thiên
nhiên đến lòng người. ông cũng có những hoài bảo và khát vọng cháy bỏng
trong trái tim khao khát tự do, được sống đúng với bản chất và nhân cách của
mình. Nhưng thực tại mà tác giả gặp không phù hợp với ước mơ nó phủ phàng
và đầy đau xót. Rồi những ước mơ mà nhà thơ khao khát như một lẽ sống, như
một cứu cánh về tinh thần thật mỏng manh, mờ mịt. Đó là nguyên nhân đưa đến
nhiều liên tưởng mới của thơ ông.
Đúng là đọc nhưng trang thơ tình chảy theo dòng cảm xúc, ta mới nhận
được tình yêu của ông hoàng thơ tình cũng là một tình yêu của một con người
sống giữa loài người trần tục chứ không phải là tình yêu cao đạo, xa xôi nào.
Cũng vẫn là những cung bậc, những trạng thái: yêu, buồn, ghét, nhớ nhung, đau
khổ nhưng ở ông lại tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng tràn đầy cảm xúc, cảm

giác.
Các ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu góp phần giải bày mọi bí mật của cõi lòng,
từ nỗi buồn, nỗi cô đơn,những khát khao phi chuẩn mực, những giây phút yếu
đuối, thất vọng chán chường, đến ghen tuông, them khát trần tục.
2.2.Khảo sát cách sử dụng từ ngữ liên tưởng ẩn dụ
Từ ngữ được dùng để tạo nên ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu rất phong phú và
kết hợp có khi 2 từ hoặc 3 từ hay 4 từ. có cách kết hợp như: danh từ + danh từ,
danh từ + tính từ, danh từ + động từ, động từ + động từ.
Danh từ là các từ chỉ hiện tượng tự nhiên ( mây, gió, trăng, sương, nắng…),
các từ chỉ thời gian ( xuân, chiều, thời gian, ngày, tháng ), chỉ thực vật ( hoa, lá,
cành…), chỉ con người ( răng, mắt, lòng, đời…). trong đó danh từ kết hợp với
danh từ như; trận lòng, nhịp lòng, môi hoa, nhuỵ đời, hoa xuân…; danh từ kết

SV: Hà Thị Hồng

16

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
hợp với tính từ như: gió thơm, xuân tươi, biển đắng… hay danh từ kết hợp với
động từ: nắng cười, cành thẹn, cành thương….
Bên cạnh đó có rất nhiều động từ. Hầu hết là các động từ chỉ hoạt động,
trạng thái mạnh: tuôn, lùa, trải, ôm, riết…những động từ này kết hợp với các
danh từ mang nghĩa trừu tượng như: tuôn âu yếm, lùa mơn mớn, trải yêu
thương… Cảnh vật có khi được nhân hoá lên hiểu cả nỗi lòng con người.
Điều đáng nói ở đây là trong thơ tình Xuân Diệu, ta bắt gặp nhiều kết hợp
mới lạ, tạo ra được liên tưởng bất ngờ như: đoá hoa lòng, môi hoa, người hoa,
nhuỵ đời…Chính cách kết hợp tinh tế này đã tạo nên những liên tưởng thi vị

trong thơ Xuân Diệu.
2.3. Khảo sát hình ảnh làm cơ sở liên tưởng theo phương thức ẩn dụ
2.3.1. Một hình ảnh làm cơ sở cho sự liên tưởng
Xuân Diệu dùng phép ẩn dụ như một phương thức thể hiện những cung bậc
cảm xúc của con người, thiên nhiên cuộc sống trong thơ. Ẩ dụ là sự kết hợp của
hai hay nhiều từ ngữ để tạo thành những tường liên tưởng độc đáo. Có thể nói,
đây là một biện pháp tu từ được sử dụng linh hoạt, mang màu sắc cá nhân và tạo
sức biểu cảm cho thơ.
Xuân Diệu luôn đem đến những ý thơ mang tính táo bạo và cảm xúc bằng
khao khát giao cảm, vồ vập trong những ham muốn tận hưởng vẻ đẹp của cuộc
sống. Có được điều đó là nhờ sự nhanh nhạy, sự cảm nhận kì diệu trong giác
quan của người nghệ sĩ, bởi nhà thơ không đến với cuộc sống theo lối mòn quen
thuộc mà họ luôn tạo ra các hình ảnh mới lạ trong mỗi cung bậc cảm xúc riêng
bằng phương thức ẩn dụ. Chẳng haojn như với một hình tượng “ Tháng giêng”
riêng lẽ như Xuân Diệu đã có những liên tưởng độc đáo, mang đến cho người
đọc những khám phá thi vị.
Tháng giêng cười không e lệ chút nào
Bằng trăm của cánh bướm chim rối rắm
( Mời yêu )
Hay hình tượng “ Mây” một hình tượng thuộc tự nhiên nhưng khi đi vào
thơ Xuân Diệu không còn là mây của đất trời nữa, mà đã nâng lên thành con
người, cũng đa tình đa cảm. phải chăng dựa vào đặc điểm mây lang thang trên
bầu trời, Xuân Diệu đã liên tưởng tới kẻ đa tình và so sánh với thi sĩ:
Những hoa quý toả hương vương giả…
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa…
( Tình mai sau )
Nếu Mây viễn du đa tình thì như thi sĩ thì Liễu lại là cô gái yếu đuối, mong
manh trong thơ. Liễu vốn có dáng vẻ yếu ớt, cành mềm thân mảnh mai gần với
SV: Hà Thị Hồng


17

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
dáng vẻ người con gái nên trong mắt Xuân Diệu, liễu gợi đến hình ảnh cô gái
thướt tha, mĩ miều:
Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu;
( Nụ cười xuân )
Xuân Diệu như một sứ giả của thi ca, mang theo tình yêu và niềm khao
khát hạnh phúc vào thơ. Bởi thế cuộc đời trong mắt Xuân Diệu có biết bao tươi
đẹp, ông ngợi ca tuổi trẻ mãnh liệt với thiên nhiên đầy sức sống:
Trăm ba mươi đoá thời gian,
Chim muông tiếng nhạc, gió ngàn lời ca.
Máu xuân đã cạn đâu mà
Nếu càn tưới nưa cho hoa rực hồng
( Trăm ba mươi đoá )
Những câu thơ tràn trề nhựa sống, tràn trề nhiệt huyết. Máu là thứ quý giá
nhất đối với sinh mạng con người, máu được biểu hiện cho sức sống tuổi trẻ.
Ông quý trọng tuổi trẻ vì tuổi trẻ là thanh xuân, là sức mạnh để gắn bó đời với
đời. Xuân Diệu xây lầu thơ ở giữa vườn trần vì ông hiểu rõ không có nơi nào sự
sống lại hội tụ tất cả mọi thứ như giữa cuộc đời này. Có thể nói Xuân Diệu đã
khai thác triệt để phương thức ẩn dụ để tạo sự sinh đông cho khu vườn thơ của
mình. Chẳng hạn như dưới con mắt đa tình của thi sĩ thì lá, cành cũng biết bang
khuâng, thẹn thùng khao khát tình yêu:
Đây lá bâng khuâng run trước gió;
Đây em cành thẹn lẫn cành thương.
( Thơ Dâng)

Với con tim yêu thương mãnh liệt, biết yêu từ khi chưa có tuổi và chết rồi
sẽ yêu ma thì hình ản chim và bướm trong thơ Xuân Diệu là hình ảnh của một
con người mơ mộng trong tình yêu, khao khát, say đắm yêu và được yêu trong
vườn tình ái.
Ông tạo nên một không gian thơ thẩn đẫm ái tình để gửi gắm niềm khao
khát về tình yêu vô biên và tuyệt đích:
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự
Nhặt nụ cười của thiên hạ, than ôi,
Để tự chủ “ Ta được yêu đấy chứ”
( Giục giã )
Ông hoàng thơ tình cũng đã dùng hình ảnh gai nhọn để liên tưởng đến kết
cuộc của một tình yêu cay đắng, nhức nhối. một sự ví von thật độc đáo mà đầy ý
SV: Hà Thị Hồng

18

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
nghĩa. Hình ảnh đứt ruột tằm cũng biểu hiện nỗi đau xót khi người yêu mất
trong một giả thuyết tình yêu của nhà thơ:
Nếu anh chêt thử vài năm
Để xem em đứt ruột tằm ra sao.
( Nói tào lao )
Hình ảnh ẩn dụ khiến thơ ông không cần nhiều lời để nói về nỗi đau, về sự
mất mát, bởi khả năng liên tưởng của nó đã mang đến cho người đọc đầy đầy
những cảm xúc mag nhà thơ gửi gắm. và phương thức ẩn dụ không chỉ thể hiện
ở hình ảnh mềm mại của thiên nhiên mà có những hình ảnh thô mộc, gai góc,

nhưng gợi được liên tưởng đặc sắc cho người đọc. Như ở bài thơ “ Vội gì vội”
Xuân Diệu vốn biết rằng tình yêu mình thật sự mỏng manh, chợt đến rồi chợt đi.
Ông nghĩ ở đời hạnh phúc chỉ thoảng giây lát, khác nào cánh chim bay:
Dầu chiếm tay em anh vẫn hay
Rằng anh chỉ nắm cánh chim bay.
Nên Xuân Diệu đã dùng hình ảnh cưa để than thở cho tình đời:
Ai lấy cưa ngàn răng, vạn răng
Cưa đôi lòng ta thành hai mảnh
Cưa tan nát anh thành vạn mảnh
Để trong đời một ảng đau thương.
( Vội gì vội )
Ngoài ra những đồ vật bình thường trong cuộc sống hằng ngày như: dây,
đàn, chỉ.. cũng được nhà thơ đặt vào mối liên tưởng với nỗi niềm sâu kín trong
tâm tư của mình.
Đây giây thơ e ấp đã lâu rồi,
Chìm trong cỏ một vườn hoa bỏ vắng
Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng
Xin lòng người mở của ngó lòng tôi.
( Tặng thơ )
Hay:
Áo em say đắm một màu trầm hương
Nghìn buổi sang bình minh xe chỉ thắm.
Đó là chiếc áo ẩn dụ cho tình yêu dệt từ những sợi chỉ thắm màu yêu
đương, hay đây chính là chiếc áo đang mặc của cô gái được nhìn qua lăng kính
tình yêu của chàng trai.
Những cặp hình ảnh đôi, khi đi vào thơ tình Xuân Diệu thường là cặp từ
thuộc về tự nhiên và có sự đối xứng với nhau. Thông qua phương thức ẩn dụ,

SV: Hà Thị Hồng


19

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Xuân Diệu đã làm các hình ảnh sóng đôi này mang những cảm xúc của tình yêu
và tâm trạng của con người, thể hiện được tâm hồn tinh tế của bài thơ.
Không những thế, ông coi ngày – đêm như những vật cụ thể làm ngăn cách
tình yêu. Vì khao khát yêu đương cuồng nhiệt, nên ông muốn “ bóp vụn ngày và
xé nát đêm” để cho những con người yêu nhau không bị rời xa. Ngày và đêm đã
được ẩn dụ như những chướng ngại của tình yêu, cặp hình ảnh này đã gợi cho
người đọc liên tưởng về sự xa cách nhớ nhung trong tình yêu. Trở lại với cặp
hình ảnh liên tưởng ta còn bắt gặp Trời – đất trong thơ ông, nó được Xuân Diệu
xem như người vì cũng biết chia sẻ niềm vui:
Bữa tiệc đôi ta sang nước mây
Ta mời trời dự đất vui lây
( Bữa tiệc đôi ta sang nước mây )
Hơn thế nữa Xuân Diệu còn ví trời xanh như thiếu nữ tuổi mười sáu, náo
nức trao tình và hồi hộp với tình:
Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt mắt long lanh.
( Rạo rực )
Bởi thế Xuân Diệu còn ví người trai trẻ như sông, như bể, còn người con
gái như cát như gành. Họ yêu nhau muốn hoà quyện vào nhau, quấn quýt gắn bó
không rời như những cái hôn không dứt, như tình yêu dào dạt bất tận và mãi mãi
– một tình yêu không có điểm dừng.
Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em…
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành…
( Biển )
Một cặp hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm về tình yêu thật đẹp, nó làm
người ta liên tưởng đến sự vĩnh cữu trong tự nhiên như tình yêu bất tận của
những con người yêu nhau. Gió và hoa cũng được Xuân Diệu biểu trưng cho
tình yêu lứa đôi với nhiều cảm xúc dạt dào: chờ đợi, buồn đau, tiếc nuối:
Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ,
Những nàng hoa chờ đợi gió phong
( Hoa đêm )

SV: Hà Thị Hồng

20

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Có thể nói các cặp hình ảnh thiên nhiên trong thơ tình Xuân Diệu thong
qua phương thức ẩn dụ đã góp phần tạo nên những trường liên tưởng mới lạ,
sinh động, giàu giá trị biểu cảm làm nên hong cách nghệ thuật riêng của ông
hoàng thơ tình.
2.3.2. Một hình ảnh làm cơ sở cho hai liên tưởng
Như đã nói ở trên thiên nhiên là một phần không thể thiếu trong thơ tình
Xuân Diệu. Với tình yêu thiên nhiên trong thơ ông càng đặc biệt bởi nó cũng có
những rung cảm thiết tha như con người. Ngôn ngữ mà nhà thơ dành cho thiên
nhiên cũng là ngôn ngữ của nhưng cung bậc tình yêu, ông đã gởi vào thiên nhiên

những cảm xú mang hơi thở của tình cảm lứa đôi thông qua những hình ảnh
liên tưởng có được từ phương thức ẩn dụ. chính vì vậy có rất nhiều hình ảnh
thuộc thế giới tự nhiên và con người đi vào trong thơ tình Xuân Diệu, chúng tạo
cơ sở để người đọc liên tưởng tời nhiều điều.
Nắng, mưa vốn là hiện tượng tự nhiên gắn liền với đời sống. từ nghìn xưa
ca dao sử dụng hình ảnh hạt mưa để biểu trưng cho thân phận người phụ nữ “
thân em như hạt mưa sa. Hạt vào gác tía, hạt ra vũng lầy.” nếu hình ảnh hạt mưa
biểu tương cho thân phận người phụ nữa thì đến với Xuân Diệu ta bắt gặp hình
ảnh mưa với sự liên tưởng mới, đó là mưa của sứ giả tình yêu lứa đôi.
Hơn là nhắn cá gửi chim
Nhờ mưa đưa bức chăn êm tới người.
( Mưa )
Mưa trong thơ tình Xuân Diệu, còn biểu trưng cho tình yêu dào dạt của thi
sĩ:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
( Nước đổ lá khoai )
Rồi khi hoàng hôn buông xuống, nững ánh nắng cuối ngày le lói, dường
như sự sống lúc đó nhạt dần.phải chăng dựa vào đặc điểm này mà Xuân Diệu
liên tưởng tới sự sống cũng như nỗi cô đơn của mình.
Chiều goá không em lạnh lẽo sao
Một mình anh lạc dưới thu cao
( Hết ngày hết tháng )
Cái chiều đã cuốn trôi đi tất cả những gì đẹp nhất, vàng son nhất của thi sĩ,
kể cả lâu đài hạnh phúc ái ân.

SV: Hà Thị Hồng


21

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.
( Giục giã )
Chỉ với một hình ảnh nhưng thơ Xuân Diệu có thể tạo ra đến hai liên tưởng
khác nhau. Chẳng hạn như thời gian có khi là con người biết hối thúc cuộc sống,
biết lắng nghe, và có khi là một bong hoa có thể cầm nắm được… Điều này
khiến thế giới thơ ông trở nên sinh động và đa dạng với những dạng thức biểu
hiện khác nhau thông qua phương thức ẩn dụ. chính vì vậy ta càng thấy rõ tài
cảm thụ và sức sáng tạo sinh động của Xuân Diệu.
2.3.3. Một hình ảnh làm cơ sở cho nhiều liên tưởng
Tư duy của Xuân Diệu chủ yếu là hướng nội, tự khai thác bản thân mình,
tâm sự với chính mình. Ta bắt gặp hang loạt từ chỉ thế giớ nội tâm xuất hiện
trong thơ ông: long, tim, hồn, lệ…
Từ lòng trong tiếng việt là tên gọi để chỉ toàn bộ những bộ phận trên cơ thể
con người. Từ này thường được chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ để chỉ
con người ( hoán dụ từ vựng học). Nói một cách khác, hình ảnh “lòng” tựơng
trưng cho con người. Khi muốn nói về những cảm xúc sâu lắng, những tâm tư
tình cảm bằng mỹ từ, người ta thường dùng từ lòng theo nghĩa nêu trên, chẳng
hạn lòng cô đơn, lòng e thẹn. Nhưng trong thơ Xuân Diệu, ông không chỉ dùng
từ lòng với nghĩa chuyển như trên , mà còn dùng với nghĩa ẩn dụ, và là ẩn dụ tu
từ học, theo nhiều chiều liên tưởng khác nhau, khi ông tạo ra những kết hợp độc
đáo: nhịp lòng, trận lòng, sắc lòng, nhuỵ lòng. Hình ảnh lòng ở đây không
nằm trong mối liên tưởng đến hình ảnh con người chung nữa. Từ lòng ở đây lại
được gọi cho một cảm xúc rất cụ thể. Hình ảnh “ lòng” xuất hiện trong thơ Xuân

Diệu như một cách làm nhà thơ phơi bày tình cảm, “ phơi trải cái tôi”. Nối đến
lòng là nói đến nhiều trạng thái tình cảm khác nhau, đan xen, hoà quyện vào
nhau. Đoi o khi là sự hồi hộp, đợi chờ cái cảm giác được yêu:
Cho dư âm vang đọng của lời tình,
Làm êm ấm bao ngày xuân trống trải.
Tôi lặng đợi! Nhịp lòng tôi đứng lại!
Yêu và được yêu quả là một điều hạnh phúc nhất trên đời, nhưng chuyện
tình cảm phải đâu dễ dàng như vậy, với trái tim si của thi sĩ thì khi trái yêu trao
đi mong chờ cái cảm giác được nhận lái biết chừng nào, nhà thơ đã dùng hình
ảnh “ nhịp lòng” để biểu trưng cho những nhịp tim đang mong mỏi, khắc khoải,
để được yêu. Nhưng khi ước vọng không thành nhà thơ đau đớn:
Ta trút bang quơ một trận lòng
Biết rằng đau khổ giữa hư không…
( Nước đổ lá khoai )
SV: Hà Thị Hồng

22

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Lòng còn là nhuỵ, là linh hồn, là phần tinh tuý nhất, nếu kẻ si tình là hoa:
Người si muôn kiếp là hoa núi,
Uống nhuỵ lòng tươi tặng khách hờ.
( Gửi hương cho gió )
Nhờ những kết hợp rất riêng như vậy của Xuân Diệu mà khái niệm lòng,
theo chuyển nghĩa hoán dụ, rất trừu tượng, mơ hồ, khó nắm bắt lại trở nên cụ
thể, có thể hình dung ra được ( nhịp lòng, trận lòng ), có thể nhìn thấy được ( sắc
lòng ), có thể sờ nắm được ( nhuỵ lòng, đoá hoa lòng ). Đây là những ẩn dụ

phức tạp tạo nên một nét thơ mới ở thơ Xuân Diệu.
Bên cạnh đó Xuân Diệu kết hợp từ trái tim, thong thường cũng được
chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ để chỉ người:
Tôi sẽ trốn thẩn thơ ngơ ngác,
Trái tim buồn như một kẻ tha ma;
Sao em không viết thư không gửi,
Tim cứ quay về mãi hướng trong.
( Dối trá )
Nhưng ở đây, Xuân Diệu còn dùng kết hợp từ này theo nghĩa ẩn dụ trong
văn cảnh:
Một buổi chiều anh lắng tai nghe
Cả trái tim đựng tràn trề nhựa đất;
( Một buổi chiều )
Trái tim chiều than thở giữa lau cao;
………..
Máu vu vơ theo giữa trái tim đời.
( Tình mai sau )
Xuân Diệu quan niệm tình yêu như là “ Phần ngon nhất của cuộc đời” mà
con nguời không thể thiếu được. Nên nhà thơ viết về tình yêu với một sự khao
khát mảnh liệt nhưng cũng rất chân thành và mới mẻ. Khái niệm tình yêu trong
thơ tình Xuân Diệu được ẩn dụ dưới các dạng vật thể khác nhau. Có lúc như cây
trái với đặc điểm hết non rồi đến già:
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi.
( giục giã )
Có lúc như vật thể hữu hình có màu sắc:
Tình thổi gió, màu yêu lên phất phới
Lại còn lúc rõ rang là tặng vật:
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt.
( Xa cách )
SV: Hà Thị Hồng


23

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
Song Xuân Diệu còn dùng từ hồn theo một kiểu khác, theo phương ẩn dụ,
và là ẩn dụ tu từ học, khi ông nói về thân phận của cô kĩ nữ với một cuộc sống
lênh đênh. Ông đã vật chất hoá hồn thành vật thể hữu hình, cũng bị tác động của
lực:
“ Chớ đạp hồn em!... Đẩy hộ hồn em triền mien trên sóng”
Với con mắt đa tình của Xuân Diệu, cây, lá, cành… nói chung, mọi cảnh
vật xung quanh, như đều rạo rực, ngấm ngầm trao duyên, tha thiết tỏ tình, vật
này đang chờ đợi vật kia, vật kia đang say đắm vật khác:
Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây nghiêng cuống nhánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy.
( Với bàn tay ấy )
Tất cả đều ở buổi xuân đầu của tình yêu:
Trời xanh thế! Hang cây thơ biết mấy!
Vườn non sao! Đường có mộng bao nhiêu
Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thửơ ấy
Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều
( Xuân đầu )
Nói về một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng có thể kể đến hình ảnh “ trời”, có
khi trời còn mang lại hạnh phúc cho con người:
Một trời mơ đang cầu nguyện cho tôi
Chờ một tiếng để bừng lên hạnh phúc.

( Mới yêu )
Nếu mặt trời được ví là hoa thì mùa xuân như trái quả:
Mùa xuân chin ửng trên đôi má
Xui khiến lòng ai thấy nặng nề
( Nụ cười xuân )
Với ông xuân còn là tình yêu, và thi sĩ tin vào tình yêu bất diệt đó:
Xuân của đất trời nay mới đến;
Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
( Nguyên đán )
Tình yêu là sự sống là mùa xuân, mà mùa xuân là tuổi trẻ - nên lòng ham
sống của Xuân Diệu đồng nghĩa với tuổi trẻ và mùa xuân. Thơ Xuân Diệu đã trở
SV: Hà Thị Hồng

24

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


Phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình của Xuân Diệu
thành thế giới của cái tôi rộng lớn luôn đón nhận tình yêu. Ông yêu cuộc sống,
sống hết mình cho sự sống và tình yêu. Yêu và sống, sống và yêu đã làm nên
những trang thơ đầy màu sắc, mang sự độc đáo rất riêng của Xuân Diệu. thông
qua phương thức ẩn dụ ta càng nhận ra sự độc đáo tái tạo hình ảnh tài hoa của
người nghệ sĩ, từ một hình ảnh nhà thơ gợi cho ta những trường liên tưởng khác
nhau.

TIỂU KẾT
Có rất niều hình ảnh thuộc thế giới tự nhiên và con người đi vào thơ tình

Xuân Diệu chúng tạo cơ sở để người đọc liên tưởng tới nhiều điều.
Các hình ảnh được chọn làm cơ sở liên tưởng theo phương thức ẩn dụ trong
thơ tình Xuân Diệu có thể phân chia thành các nhóm khác nhau:
Các hiện tượng tự nhiên: Mây, gió, trăng, sao, trời, đất, nắng, mưa, ngày,
đêm…
- Các đồ dùng như: Thuyền, ghe, gương, chỉ, đàn…
- Các loài thực vật: Hoa, cỏ, cây, cành, lá…
- Các động vật như: Chim, cá, ong, bướm…
- Các bộ phận cơ thể người: Răng, tóc, chân, mặt, ngực, lòng, tim…
- Các hiện tương thuộc thế giới tinh thần của con người như: Hồn, tình, ân
ái, yêu thương
Trong đó một hình ảnh biểu thị một liên tưởng chiếm đa số với những hình
ảnh liên tưởng mới lạ. Các hình ảnh biểu thị hai, ba liên tưởng tuy ít nhưng rất
độc đáo và giàu giá trị biểu cảm. điều đó vẫn chứng tỏ hình ảnh ẩn dụ trong thơ
Xuân Diệu đa dạng, phong phú và khả năng liên tưởng cao.
Những hình ảnh sóng đôi với nhau, theo tìm hiểu, ta bắt gặp các hình ảnh:
ngày – đêm, tháng – năm, sóng – cát, hoa – gió,…các cặp hình ảnh này làm cơ
sở cho một, hai liên tưởng. trong đó liên tưởng tới tình yêu lứa đôi là phổ biến
nhất. Đặc biệt có nhiều hình ảnh lạ: người hoa, chim hoa, nhuỵ lòng, hoa lòng…
Một số hình ảnh làm nên nét riêng trong thơ tình Xuân Diệu là những hình ảnh
ẩn dụ phức hợp.
Từ cơ sở lựa chọn hình ảnh, đến cách sử dụng hình ảnh linh hoạt, sinh
động, mới lạ, ta thấy được tư duy uyên bác của nhà thơ thuộc dòng văn chương
bác học. Mọi tư tưởng, tình cảm, cảm nghĩ của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ
tình của nhà thơ đều được cảm nhận và biểu hiện bằng cảm xúc, cảm giác, bằng
sự thúc đẩy hoạt động của các giác quan. Mọi trạng thái cung bậc của tình yêu
được biểu hiện như là cảm xúc, cảm giác rất tinh tế trong cõi vô thức của con
người. Hệ thống hình tượng ẩn dụ về tình yêu trong thơ tình Xuân Diệu thể hiện
được tài năng của nhà thơ. Ông dùng nhiều từ ngữ chỉ thế giới nội tâm làm hình
SV: Hà Thị Hồng


25

Lớp: ĐHSP Ngữ Văn K55


×