Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN sáng kiến kinh nghiệm tiểu học thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình tiếng việt tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.27 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện cổ tích là một thể loại văn học dân gian luôn có sức hấp dẫn với
mọi đối tượng trong mọi thời điểm. Làm nên sức sống lâu bền và tầm ảnh hưởng
rộng lớn này cũng chính bởi sự độc đáo phong phú của truyện cổ tích. Truyện cổ
tích là một loài hình nghệ thuật ngôn từ chứa đầy thơ, chất trí tuệ, sự lãng mạn
bay bổng nhưng vẫn mang một vẻ đẹp bình dị, rất đời thường. Mỗi câu chuyện
là sự kết tinh giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là lòng nhân ái và bản
lĩnh kiên cường, hiện thực và ước mơ, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ
đau. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam vốn rất phong phú và đa dạng. Mỗi câu
chuyện được lưu truyền là một bài học quý của ông cha để lại cho thế hệ sau.
Hầu hết các câu chuyện đều thể hiện quan niệm sống của ông cha ta thông qua
việc xây dựng các hình tượng nhân vật với các mối quan hệ của nó trong gia
đình cũng như ngoài xã hội.
Như chúng ta đều biết, trẻ em luôn có nhu cầu tìm hiểu và khám phá môi
trường xung quanh, trong đó thế giới nhân vật truyện cổ tích vô cùng phong
phú, chứa đựng nhiều điều hấp dẫn đối với các em. Từ đây, các em biết được
nhiều điều kì thú, học thêm được nhiều kiến thức quan trọng trong cuộc sống.
Lứa tuổi học sinh tiểu học đang ở độ tuổi ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên, các
em như trang giấy trắng, người dạy phải biết khơi dậy những cảm xúc thẫm mĩ
cho các em, các em chỉ mới tiếp cận được với thế giới xung quanh thông qua
những gì gần gũi, thân thuộc nhất như cây cối, các đồ vật, con vật. Qua đó, học
sinh có thêm hiểu biết về thế giới nhân vật, nhận thức được cái đúng, cái sai, cái
tốt, cái xấu, cách xử sự, hành vi phù hợp với quy tắc, chuẩn mực chung của xã
hội. Từ đó, hình thành những nền tảng ban đầu về mặt đạo đức, giúp các em có
cái nhìn đúng đắn qua các mối quan hệ trong việc giao tiếp hàng ngày, có lý
tưởng sống cao đẹp, là công dân tốt, có ích cho xã hội, điều này thấy được thông
qua thái độ ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột trong gia đình, với thầy
cô giáo, bạn bè…
1



Trong chương trình Tiểu học, mục tiêu của môn Tiếng Việt không chỉ
nhằm hình thành cho các em những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt như nghe, nói,
đọc viết, các thao tác tư duy để học tập và giao tiếp mà còn cung cấp cho các em
một lượng thông tin và kiến thức lớn về tự nhiên, xã hội, con người, văn hóa…
Qua đó hình thành nhân cách con người Việt Nam thời đại mới. Việc giáo dục
đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng đối với giáo viên Tiểu học bởi đây là một cấp học quan trọng, làm nền cho
các cấp học sau này.
Là một giáo viên tiểu học tương lai, chúng tôi muốn các em có những hiểu
biết về thế giới xung quanh, về các nhân vật trong truyện cổ tích, cảm nhận
được những tư tưởng tình cảm để các em có ý thức yêu quý, bảo vệ. Mặt khác
giúp các em làm giàu thêm vốn sống, đạo lí làm người và cách ứng xử trong
giao tiếp với mọi người xung quanh thông qua truyện cổ tích. Vì vậy chúng tôi
đã chọn đề tài: “Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng
Việt Tiểu học”.
2. Lịch sử vấn đề
Nói đến văn học dân gian cùng với những giá trị vĩnh hằng của nó, chúng ta
không thể không nhắc đến truyện cổ tích. Để khai thác hết những nét độc đáo về
thế giới nhân vật trong truyện cổ tích đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
văn học dân gian nói chung và các thể loại truyện nói riêng dưới cách nhìn nhận
của thi pháp học. Nhiều nhà nghiên cứu về truyện cổ tích trên quy mô lớn như
Nguyễn Thái Hòa (Những vấn đề thi pháp của truyện), Hà Bình Trị (Những đặc
điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian), Phan Chu Diện (Văn học dân
gian – Mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại), Chu Xuân Diên –
Lê Chí Quế (Tuyển tập Truyện cổ tích Việt Nam – phần truyện cổ tích người
Việt)…và một số chuyên đề khác. Trong tầm bao quát tư liệu cửa mình, chúng
tôi nhận thấy có một số công trình đáng chú ý sau đây:

2



2.1. Các công trình nghiên cứu chung về truyện cổ tích
Tác giả Nguyễn Tất Phát, Bùi Mạnh Nhị trong bài Nhân vật lý tưởng và cốt
truyện của cổ tích thần kỳ báo văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 316 ở mục
“Những phần thưởng dành cho nhân vật” có viết “Trong truyện cổ tích thần kỳ,
nhân dân luôn chăm chú theo dõi nhân vật lý tưởng của mình và dành cho họ
những phần thưởng xứng đáng”. Bên cạnh những phần thưởng mà nhân dân
dành cho nhân vật lý tưởng bao giờ cũng kèm theo đòn trừng phạt đối với kẻ
thù.
Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”, cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi
đã có phần khảo dị, nó tạo điều kiện cho sự nghiệp nghiên cứu, so sánh truyện
cổ tích ở các địa phương trong nước, của Việt Nam với các nước khác trên thế
giới.
Việc nghiên cứu trực tiếp thi pháp truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn có thể
kể đến Hà Bình Trị. Trong cuốn “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn
học dân gian”, ông đã cho người đọc hiểu được những khái niệm về một số yếu
tố của thi pháp các thể loại văn học dân gian, yếu tố ngôn ngữ, kết cấu, nhân vật
chính, không gian và thời gian nghệ thuật…
Tác giả Tăng Kim Ngân trong Cổ tích thần kì Người Việt – Đặc điểm cấu
tạo cốt truyện, NXB KHXH,1994 đã đề cập đến các truyện cổ tích thần kì, đặc
điểm cấu tạo cốt truyện của các truyện cổ tích.
Văn học dân gian và những tác phẩm chọn lọc, NXBGD 2004. Tác giả Bùi
Mạnh Nhi đã sưu tầm những tác phẩm văn học dân gian thuộc các thể loại khác
nhau như truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích.
2.2. Các công trình nghiên cứu về thế giới nhân vật trong truyện cổ tích
Tác giả Nguyễn Bích Hà trong cuốn Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sỹ
trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, khi bàn tới vấn đề “ Về cái chết và
sự hóa thân của nhân vật Lí Thông đã nhận xét: “Cái chết và sự hóa thân của
những kẻ ác thành con vật xấu xa chính là thắng lợi tuyệt đối của cái thiện, của

công lí”.
3


Năm 2002, Phạm Thu Yến trên tạp chí văn học số 4 có bài viết kiểu nhân
vật “chàng ngốc” trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam đã khẳng định: kiểu
nhân vật chàng ngốc có thể được coi như kiểu nhân vật người em, nhân vật dũng
sĩ, nhân vật người mang lốt trong truyện cổ tích thần kì.[15;235]
Năm 2011, Phạm Thị Thu Huyền lại quan tâm tới đề tài kiểu truyện nhân
vật thông minh trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt người Việt. Đây là công
trình đi sâu nghiên cứu một kiểu nhân vật trong hệ thống nhân vật của truyện cổ
tích sinh hoạt với các biểu hiện: nhân vật nhỏ tuổi dùng mưu mẹo giải đố, nhân
vật dùng mưu mẹo tham gia kén rể, nhân vật dùng mưu mẹo xét xử. Trong quá
trình khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy nhân vật thông minh còn là những
người vợ, người chồng hay người cha…trong gia đình.
Chúng tôi nhận thấy các công trình kể trên đã đề cập đến những vấn đề lý
luận về thế giới nhân vật một cách khái quát. Đó là nguồn tài liệu tham khảo
quan trọng giúp chúng tôi có cơ sở lý luận chung cho việc nghiên cứu đề tài
“Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt Tiểu học” .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới nhân vật trong truyện cổ
tích ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát về thế giới nhân vật trong
truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt lớp 1, 2, 3, 4, 5 NXB GD,2010 và một số
truyện cổ tích.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về thế giới nhân vật trong Truyện cổ
tích, từ đó thấy được sự khác nhau giữa nhân vật loài vật, nhân vật thần kỳ và
nhân vật thế tục.
- Khảo sát các Truyện cổ tích trong chương trình Tiểu học, chỉ ra những

đặc điểm của thế giới nhân vật.
- Tìm hiểu thế giới nhân vật trong các tác phẩm trong chương trình Tiếng
Việt, rút ra ý nghĩa và bài học góp phần giáo dục học sinh Tiểu học.
4


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: Thống kê các truyện cổ tích ở chương
trình Tiếng Việt Tiểu học có nhân vật loài vật, nhân vật thần kỳ, nhân vật sinh
hoạt từ đó phân loại các kiểu nhân vật với từng đặc điểm cụ thể
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích các kiểu nhân vật trong
truyện cổ tích để thấy được đặc điểm của từng kiểu nhân vật từ đó tổng hợp,
khái quát và đưa ra kết luận chung.
- Phương pháp so sánh: So sánh để thấy được điểm khác biệt giữa nhân vật
loài vật, nhân vật thần kỳ và nhân vật sinh hoạt.
-Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện cổ tích ở
chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học phải dựa trên hệ thống đặc điểm, nội dung,
nghệ thuật truyện. Phương pháp hệ thống giúp người viết hệ thống hóa thế giới
nhân vật ở chương trình Tiểu học.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lí luận là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về các kiểu
nhân vật đặc trưng của truyện cổ tích Việt Nam trong chương trình Tiếng Việt ở
bậc Tiểu học, đề tài nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện cổ tích ở chương
trình Tiếng Việt Tiểu học. Từ đó phân loại làm rõ các vấn đề về đặc điểm của
từng nhân vật. Góp thêm tiếng nói mới vào vấn đề nghiên cứu thế giới nhân vật.
Ngoài ra đề tài cũng làm nổi bật được vai trò, ý nghĩa giáo dục chân – thiện –
mỹ cho học sinh Tiểu học. Khẳng định những đóng góp trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật của truyện cổ tích trong hệ thống các thể loại văn học dân gian

Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên học tập,
nghiên cứu, giúp cho các giáo viên vận dụng vào giảng dạy truyện cổ tích trong
chương trình Tiếng Việt Tiểu học.

5


7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong truyện cổ tích ở chương trình Tiếng việt
Tiểu học.
Chương 3: Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện cổ
tích ở chương trình Tiếng việt Tiểu học.

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhân vật văn học
Nhân vật văn học là chủ thể phản ánh của tác phẩm văn học. Nhân vật văn
học được xem là linh hồn của tác giả gửi gắm trong đó những ý tưởng để truyền
đạt bức thông điệp vui, buồn, mãn nguyện, bất lực, giả tạo...để nói lên lăng kính
của tác giả với đời thường. Nhân vật văn học có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội và là chủ thể nhận thức của tác giả đưa đến cho người đọc những
cảm nhận nhận thức lý tính và mang tính hình tượng cao. Trong bất cứ một tác
phẩm văn học nào cũng đi với nó ít nhất một nhân vật để tác giả gửi gắm bức

thông điệp mang tính xã hội vào trong cuộc sống để mỗi người có những điều
chỉnh về nhận thức của mỗi cá thể trong cộng đồng. Ở đây, nhân vật văn học
được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi
người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người
hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó. Nhân vật văn học là một đơn vị
nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật.
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người,
ý nghĩa của nhân vật chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể. Gắn với
sáng tác ngôn ngữ của những thời đại khác nhau, nhân vật văn học in dấu những
xu hướng tiến hóa của tư duy nghệ thuật. Thực tiễn sáng tác đã nêu lên nhiều
kiểu nhân vật văn học, dựa vào vai trò của từng nhân vật mà người ta chia ra
thành nhiều kiểu nhân vật khác nhau như: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân
vật chính diện, nhân vật phản diện… Như vậy, các nhà nghiên cứu lí luận văn
học bằng cách này hay cách khác khi định nghĩa về nhân vật văn học vẫn căn
bản gặp nhau ở những nội dung sau:
Thứ nhất, đó là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng phương tiện
văn học.
Thứ hai, đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự vật, hiện
tượng mang linh hồn con người, đó là hình ẩn dụ về con người.
7


Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống
hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của con người nghệ sĩ
tài năng.
1.2. Truyện cổ tích
Từ điển văn học định nghĩa truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là loại
truyện dân gian có tính phổ biến, hình thành từ thời cổ đại, phát triển, tồn tại qua
nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn chặt với quá trình tan rã của công xã nguyên
thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó

hướng vào những vấn đề cơ bản, những số phận, những quan hệ và xung đột có
tính chất riêng tư và phổ biến trong xã hội có giai cấp. Nó dùng một kiểu tưởng
tượng và hư cấu riêng kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh
đời sống, và khát vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục thẫm
mĩ và tiêu khiển của nhân dân, sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của
nhân dân, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc trưng nổi bật trong
phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ” (Từ điển văn học, T2, Nxb
KHXH,1984,tr452).
Bản chất của truyện cổ tích là xây dựng một thế giới nghệ thuật trong trí
tưởng tượng, kì ảo, phi hiện thực để thực hiện lí tưởng về xã hội công bằng, một
thế giới nên có và cần có cho con người.
Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo. Tính chất kì ảo, hư
cấu của truyện cổ tích là đặc trưng nổi bật. Thế giới cổ tích hấp dẫn cũng chính
ở sự sáng tạo kì ảo đó. Qua truyện cổ tích, người lao động muốn vẽ nên một thế
giới cần có và nên có cho con người chứ không phải là cái thế giới vốn có với
những nỗi đau khổ và bất công.
Vì vậy, truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính phổ biến, hình thành
từ thời cổ đại, tồn tại, phát triển qua nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn liền với
quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và
phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những số
phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến trong xã hội
8


có giai cấp. Nó dùng một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng kết hợp với các thủ
pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống và khát vọng của nhân dân, đáp
ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và tiêu khiển của nhân dân.
1.3. Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích
Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ thống nhân vật được xây dựng
theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy

cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn có tổ chức và sự
sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ
thuật, thế giới nhân vật cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quả của trí tưởng
tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện trong các tác phẩm văn học, trong
sáng tác nghệ thuật. Thế giới nhân vật là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn diện
và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác phẩm,
mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩa tư tưởng, tình cảm của họ
trong cách đối nhân xử thế trong giao lưu với xã hội, với gia đình.
Trong thế giới cổ tích, nhân vật hết sức phong phú và đa dạng, nó góp phần
làm cho câu chuyện thêm sinh động và là cầu nối đi tới tâm hồn của các em.
Nhân vật xuất hiện trong cổ tích bao giờ cũng nêu lên những mâu thuẫn trong
quan hệ xã hội, quan hệ gia đình.
1.4. Truyện cổ tích trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học
1.4.1. Khảo sát hệ thống truyện cổ tích trong chương trình Tiểu học
Qua khảo sát truyện cổ tích trong chương trình Tiếng việt tiểu học, truyện
được sắp xếp khá hợp lí trong SGK từ lớp 1 đến lớp 5. Lớp 1 gồm 7 truyện, lớp
2 gồm 8 truyện, lớp 3 gồm 8 truyện, lớp 4 gồm 10 truyện và lớp 5 có 1 truyện.
Nội dung của các truyện cổ tích được dùng làm ngữ liệu để dạy Tiếng Việt từ đó
rèn luyện các kỹ năng phát triển ngôn ngữ, tư duy cho học sinh.
Những câu chuyện cổ tích được đưa vào chương trình Tiếng Việt tiểu học
nhằm mục đích cung cấp những kinh nghiệm về cách sống, cách ứng xử cho các
em. Theo từng câu chuyện các em sẽ thấy được từ những phong tục tập quán
đến cảnh sắc thiên nhiên qua đó làm tăng thêm vốn hiểu biết cho học sinh tiểu
9


học.
1.4.2. Vị trí, ý nghĩa của việc dạy truyện cổ tích đối với học sinh Tiểu học
1.4.2.1. Vị trí
Ở trường Tiểu học, học sinh lĩnh hội truyện cổ tích qua phân môn kể

chuyện (thuộc môn Tiếng Việt). Đây là một phân môn dạy học lí thú, hấp dẫn ở
các lớp trong trường Tiểu học. Tiết kể chuyện thường được các em học sinh chờ
đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng vui thích. Hầu hết các trường Tiểu
học đều xếp tiết kể chuyện vào cuối tuần nên vô hình chung tiết kể chuyện trở
thành một ấn tượng không quên của mỗi tuần đi qua. Ở những tiết kể chuyện
giáo viên và học sinh dường như thoát li khỏi sách vở mà giao hòa tình cảm một
cách hồn nhiên thông qua nội dung từng câu chuyện được kể, thông qua lời kể
của cô và lời kể lại của các bạn
Phân môn kể chuyện có một vị trí quan trọng, được xếp ngay sau phân môn
Tập đọc – học thuộc lòng của bộ môn Tiếng Việt, trong đó truyện cổ tích chiếm
tới 1/3 số truyện kể đã được đưa vào chương trình để giảng dạy cho học sinh.
Truyện cổ tích có một vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ thơ.
1.4.2.2. Ý nghĩa
Truyện cổ tích góp phần giải quyết về mặt kiến thức, kỹ năng hình thành tư
tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của
nhà trường tiểu học. Không những thế, truyện cổ tích giúp các em nhận thức
một cách đúng đắn, toàn diện lịch sử của nhân dân mình, đất nước mình để tìm
hiểu thêm đất nước trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh đó, còn giúp các em
cảm nhận được vẻ đẹp của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc thông qua ngôn
ngữ được sử dụng trong từng câu chuyện sẽ giúp các em có được cách ứng xử
hợp lý, có văn hóa, những câu chuyện đó còn góp phần giúp các em có lối sống
đẹp, đó là lối sống nhân ái, thẳng thắn, biết bênh vực đấu tranh cho cái đúng,
loại trừ những điều xấu xa. Trên cơ sở đó góp phần xây dựng nhân cách cho các
em, nhân cách của con người xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nó có vai trò, ý nghĩa hết
sức quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học.
10


CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH Ở

CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
2.1. Nhân vật loài vật
Những truyện kể về loài vật chắc hẳn đã nảy sinh từ nhu cầu của người thời
cổ, đặc biệt là người săn bắt, muốn đúc kết những kinh nghiệm và hiểu biết về
đời sống và tập tính của một số các con vật ít nhiều có liên quan đến cuộc sinh
tồn của họ để truyền dạy cho lớp người trẻ. Về sau, những truyện kể ấy mất dần
tính chất thần thoại, trở thành truyện cổ tích về loài vật. Trong thế giới cổ tích,
nhân vật loài vật hết sức phong phú và đa dạng. Bước vào thế giới nhân vật này,
chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều con vật gần gũi xung quanh cuộc sống.
2.1.1. Nhân vật loài thú
Ta thấy loài vật cũng có mối quan hệ gia đình, bạn bè, thù địch. Tác giả dân
gian đã biến những loài vật bình thường trở nên sinh động, mượn thế giới loài
vật ấy để nói lên cuộc sống, những điều gặp phải trong xã hội và muốn thông
qua đây răn dạy cho con người những điều hay, lẽ phải. Quan hệ bạn bè giúp đỡ
lẫn nhau, thể hiện được mối quan hệ tương trợ. Thế giới loài vật đa dạng, phong
phú. Chúng sống với nhau và có mối quan hệ tương quan. Với câu chuyện Cóc
kiện trời, những nhân vật đã tạo nên một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống và
mối quan hệ của chúng. Với các đại từ xưng hô tôi, bác, chú, anh, chị…cho ta
thấy một điều, các con vật sống với nhau rất hòa thuận, tình cảm và rất đoàn kết.
Vì thế ở truyện cổ tích loài vật vừa có nội dung sinh hoạt vừa có nội dung
mang ý nghĩa xã hội với những mức độ khác nhau, và hai mặt nội dung đó gắn
bó hòa quyện với nhau rất chặt nhiều khi rất khó tách bạch. Truyện cổ tích loài
vật ngoài việc phản ánh sự ra đời, đặc điểm của các loài vật, những con vật nuôi
hoang dã hoặc trong nhà con gián tiếp phản ánh mối quan hệ giữa con người với
con người. Những con vật trong cổ tích loài vật hầu hết đều được nhân cách hóa
biết nói năng, suy nghĩ, và hành động như con người.

11



2.1.2. Nhân vật loài Chim
Thế giới loài Chim muôn màu muôn vẻ với đầy đủ màu sắc. Là bạn bè với
nhau, các con vật luôn muốn giúp đỡ bạn mình trở nên tốt hơn, đẹp hơn. Đó mới
là tình bạn chân chính thật sự. Tuy là những loài vật nhưng qua trí tưởng tượng
và óc sáng tạo của tác giả dân gian chúng lại trở nên sinh động, có tình cảm, có
cuộc sống và các mối quan hệ với cộng đồng loài như của con người.
Truyện cổ tích là sáng tạo của nhân dân, đó là trí tưởng tượng của con
người để giải thích cho sự hình thành thế giới nhân vật loài vật một cách đơn
giản, và có những câu chuyện hết sức cảm động và ý nghĩa. Nó thể hiện mối
quan hệ của các loài vật như của con người với mong ước một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc trong đó tình yêu thương của những người trong gia đình, sự quan
tâm của bạn bè dành cho nhau và những người xung quanh giúp đỡ nhau lúc gặp
khó khăn. Đây là những câu chuyện mang tính giáo dục cao, cung cấp cho các
em nhiều kiến thức bổ ích và nhiều điều đáng để các em học tập.
2.2. Nhân vật thần kì
Nhân vật của truyện cổ tích thần kì là con người thường bé nhỏ mà chủ yếu
là những nhân vật bất hạnh như người mồ côi, người đi ở, người con riêng. Các
nhân vật này luôn đại diện cho cái thiện. Đối lập với những nhân vật đại diện
cho cái thiện là những nhân vật đại diện cho cái ác. Chính thế giới thần kì, màu
nhiệm này khiến cho truyện cổ tích thần kì mang đậm yếu tố kì ảo và đề cao trí
tưởng tượng phong phú lãng mạn của các tác giả dân gian. Kết thúc truyện cổ
tích thần kì thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc quan, thỏa mãn mơ ước của
nhân dân. Những kết thúc có hậu như nhân vật bất hạnh được đổi đời và sống
thật hạnh phúc, còn nhân vật ác thì trừng phạt một cách chính đáng là sự biểu
hiện của khát vọng, ước mơ về sự công bằng, cuộc sống hạnh phúc, sung túc của
nhân dân lao động.
Lực lượng thần kì trong truyện cổ tích là kết quả sáng tạo kì ảo của tác giả
dân gian. Đó là một thế giới bao hàm những nhân vật siêu nhiên, những phép
màu nhiệm, sự biến hóa thần thánh kì ảo. Trong truyện cổ tích, lực lượng thần kì
12



giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên yếu tố hấp dẫn li kì của kiểu truyện.
Yếu tố thần kì xuất hiện trong thế giới của lực lượng thần kì có thể coi là một
phương tiện nghệ thuật giúp cho tác giả dân gian giải quyết những mâu thuẫn
xung đột của con người trong đời sống thường ngày.
2.2.1. Nhân vật tài giỏi, dũng sĩ
Nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật chính lập công, diệt trừ cái ác, bảo vệ
cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người.
Trong truyện Bốn anh tài (TV 4/ tập 2). Nội dung ngày xưa, bản kia có một
chú bé tuy nhỏ nhưng ăn một lúc hết chín chõ xôi. Dân bản đặt tên cho chú là
Cẩu Khây. Cẩu Khây lên mười tuổi, sức đã bằng trai mười tám, mươi lăm tuổi
đã tinh thông võ nghệ. Hồi ấy, trong vùng xuất hiện một con yêu tinh chuyên bắt
người và súc vật. Chẳng mấy chốc làng bản tan hoang, nhiều nơi không còn ai
sống sót. Thương dân bản Cẩu Khây quyết chí lên đường diệt trừ yêu tinh. Đến
một cánh đồng khô cạn, Cẩu Khây thấy một cậu bé vạm vỡ đang dùng tay làm
vồ đóng cọc để đắp đập dẫn nước vào ruộng. Mỗi quả đấm của cậu giáng xuống,
cọc tre thụt sâu hàng gang tay. Hỏi chuyện, Cẩu Khây biết tên cậu là Nắm Tay
Đóng Cọc. Nắm Tay Đóng Cọc sốt sắng xin được cùng Cẩu Khây đi diệt trừ yêu
tinh. Đến một vùng khác, hai người nghe thấy tiếng tát nước ầm ầm. Họ ngạc
nhiên thấy một cậu bé đang lấy vành tai tát nước suối lên một thửa ruộng cao
bằng mái nhà. Nghe Cẩu Khây nói chuyện, Lấy Tai Tát Nước hăm hở cùng hai
bạn lên đường. Đi được ít lâu, ba người lại gặp một cậu bé đang ngồi dưới gốc
cây, lấy móng tay đục gỗ thành lòng máng dẫn nước vào ruộng. Cẩu Khây cùng
các bạn đến làm quen và nói rõ chí hướng của ba người. Móng Tay Đúc Máng
hăng hái xin được làm em út đi theo. Bốn anh tài: Cẩu Khây, Nắm Tay Đóng
Cọc, Lấy Tai Tát Nước, Móng Tay Đúc Máng lên đường. Câu chuyện ca ngợi
sức khỏe, tài năng lòng nhiệt thành làm việc nghĩa của bốn anh em Cẩu Khây.
2.2.2. Nhân vật siêu nhiên
Đây là những lực lượng không có trong thực tế mà chỉ được biểu hiện rõ

nhất, sống động nhất ở trong niềm tin và trí tưởng tượng của nhân dân lao động.
13


Họ là những hình tượng được khái quát hóa, hình tượng hóa và thần thánh hóa
các lực lượng xã hội theo quan niệm và lý tưởng của nhân dân trong xã hội có
giai cấp mà chủ yếu là xã hội phong kiến.
Ngoài lực lượng siêu nhiên như Ngọc Hoàng, Diêm Vương còn có các thần
thánh cõi thủy phủ, long cung là vua thủy tề trong các truyện như Thạch Sanh…
Các lực lượng như Tiên, Bụt, Phật là những lực lượng thần thánh rất gần gũi với
những con người nghèo khổ, bất hạnh trong truyện cổ tích. Những nhân vật thần
kì này, xuất hiện cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ gian ác.
Con vật thần kì bao gồm Chim thần, rắn thần, rùa thần, khỉ, trăn tinh, hồ
tinh, ma quỷ yêu quái…Lực lượng thần kì này rất đa dạng và phong phú, có thể
chia thành hai kiểu: Đó là những con vật thần đứng về phe thiện hoặc mang tính
chất trung lập, vô tư, không thiên vị phía nào.
Đây là một trong những yếu tố thần kì rất quan trọng trong thế giới nhân
vật cổ tích. Sự biến hóa kì ảo này được biểu hiện qua rất nhiều phương diện như
từ vật biến hóa thành người, đầu thai, người biến hóa thành các loài động vật,
thực vật, đồ vật…Sự biến hóa ấy được gọi chung là mô típ hóa thân – đây là một
mô típ góp phần thể hiện tư tưởng, quan niệm sống của nhân dân lao động. Đọc
truyện cổ tích Việt Nam, ta thấy xuất hiện rất nhiều yếu tố biến hóa kì ảo.
Thực chất các nhân vật trong truyện cổ tích không tự biến hóa một cách
ngẫu nhiên mà đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian. Tác giả đã sáng
tạo vào những câu chuyện cổ tích của mình nhằm giải thích những hiện tượng,
nguồn gốc của các con vật, loài vật, địa danh, phong tục tập quán, quan trọng
hơn cả là thể hiện ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc thông qua việc kéo dài sự
sống cho con người, hóa giải bi kịch và trừng phạt kẻ ác.
2.3. Nhân vật sinh hoạt
Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích sinh hoạt Việt Nam khá phong phú

và đa dạng. Việc đưa ra các kiểu loại nhân vật chính trong tiểu loại truyện cổ
tích sinh hoạt đã được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian đề cập đến
trong các bài viết hoặc các công trình nghiên cứu. Truyện cổ tích sinh hoạt ngoài
14


lối kết thúc có hậu, nhiều truyện còn có lối kết thúc bi kịch, các nhân vật chính
đều phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh thần lạc quan vẫn tỏa sáng, vì
những cái chết ấy hay sự ra đi biệt tích của các nhân vật chính diện làm tăng
thêm niềm tin và sự khẳng định đối với phẩm chất cao đẹp của con người chân
chính.
2.3.1. Nhân vật đức hạnh
Nhân vật đức hạnh là nhân vật mang trong mình những phẩm chất đáng
trân trọng như giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, là người hết lòng vì người khác
khi khó khăn…Khảo sát trong truyện cổ tích sinh hoạt thì có rất nhiều truyện
xuất hiện nhân vật đức hạnh. Nhân vật đức hạnh được thể hiện rất đa dạng như:
tình cảm bà cháu, người vợ đức hạnh, người chồng chung thủy, người cha –
người mẹ hết lòng yêu thương con cái, người con nuôi hiếu thảo, người bạn
trọng tình, trọng nghĩa.
Kiểu nhân vật đức hạnh chiếm số lượng lớn trong tiểu loại cổ tích sinh
hoạt. Điều này thể hiện sự nhìn nhận khách quan về cuộc sống của tác giả dân
gian. Nó cho thấy trong cuộc sống có rất nhiều người tốt, rất nhiều người tình
nghĩa. Người tốt thường gặp nhiều thử thách, khó khăn. Họ có thể vượt qua hay
không vượt qua được. Qua những thử thách khó khăn đó phẩm chất của họ được
bộc lộ, tỏa sáng. Với việc tạo dựng nhiều nhân vật tốt đẹp, nhân dân ta muốn họ
là những tấm gương về đạo đức và cách cư xử để từ đó chúng ta học tập và noi
theo.
2.3.2. Nhân vật xấu xa
Trong xã hội luôn có người tốt và kẻ xấu. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả
dân gian đã xây dựng nhiều kiểu nhân vật xấu xa. Nếu như nhân vật tốt đẹp

mang trong mình những phẩm chất cao quý, tốt đẹp thì nhân vật xấu xa hoàn
toàn ngược lại. Nhân vật xấu xa là những nhân vật có những thói hư, tật xấu như
tham lam, ích kỷ, độc ác, bất nhân bất nghĩa, lẳng lơ, lười biếng, ghen tuông…
Họ vì lợi ích, vì hạnh phúc của cá nhân mình quên hết gia đình, người thân và
bạn bè.
15


Như vậy, xây dựng nhân vật xấu xa, tác giả dân gian chú ý đến phẩm chất,
tính cách, hành động của họ. Đây là tiêu chí đánh giá người xấu xa. Hầu hết,
những người xấu xa đều không chiến thắng được chính bản thân mình trước
những cám dỗ của cuộc đời. Họ bị vàng bạc, nhung lụa, danh tiếng, dục vọng
làm mờ mắt, không còn tỉnh táo để nhìn ra phải trái. Họ sẵn sàng làm những
việc bất nhân bất nghĩa để đạt được dục vọng, vinh hoa phú quý. Xây dựng nhân
vật người xấu xa, tác giả dân gian muốn phê phán họ, muốn họ phải trả giá cho
những hành động sai lầm của mình.
2.3.3. Nhân vật thông minh
Truyện cổ tích sinh hoạt khi xây dựng kiểu nhân vật thông minh, mưu trí đã
rất chú ý đến một đối tượng mới mà các thể loại khác ít đề cập đó là những em
bé thông minh. Các em bé thông minh này đều là những đứa con có hiếu, chúng
luôn tìm mọi cách giúp cha mẹ, gia đình vượt qua khó khăn, thử thách.
Ước mơ về cuộc sống tốt đẹp công bằng của nhân dân được gửi gắm vào trí
tuệ. Sự công tâm của những ông quan thanh liêm. Xuất phát từ chính hiện thực
cuộc sống còn nhiều bất công, ngang trái, các tác giả dân gian đã xây dựng
thành công nhân vật thông minh mưu trí là các ông quan. Đặc điểm nổi bật của
các ông quan mưu trí được thể hiện rõ nét khi xử kiện, các ông quan đã kết hợp
giữa lý và tình, giữa trí tuệ bản thân và kinh nghiệm dân gian trong công việc
xét xử.
Việc xây dựng nhân vật thông minh mưu trí đã làm cho thế giới nhân vật
trong truyện cổ tích trở nên đa dạng, phong phú. Con người bằng trí tuệ, tài

năng, sự nhanh nhẹn và và mưu trí của mình đã giành được thắng lợi, giành
được hạnh phúc. Thông qua kiểu nhân vật thông minh, tác giả dân gian muốn đề
cao sức mạnh trí tuệ của con người. Chính trí tuệ của con người, đã giúp họ làm
chủ được số phận của chính mình, chiến thắng được những thế lực đàn áp.
2.3.4. Nhân vật ngốc nghếch
Truyện cổ tích sinh hoạt ra đời khi tư duy con người đã chiếm ưu thế hơn
hẳn so với lối tư duy cảm tính có yếu tố ảo tưởng trong truyện cổ tích thần kỳ.
16


Với lối tư duy “hiện thực tỉnh táo” đã giúp tác giả dân gian phát hiện ra một đối
tượng mới đó là nhân vật ngốc nghếch. Những nhân vật ngốc nghếch ấy này đã
đối lập hoàn toàn với kiểu nhân vật thông minh.
Xây dựng kiểu nhân vật Ngốc, tác giả dân gian muốn thể hiện rõ quan niệm
sự ngốc nghếch, thiếu hiểu biết là không thể chấp nhận được trong cuộc sống
nhưng cũng không phải là cái khiến cho nhân dân căm phẫn cao độ. Tác giả dân
gian để nhân vật Ngốc phải chịu hậu quả của sự ngu dốt, ngốc nghếch của mình
là cái chết, chỉ để nhấn mạnh, khắc họa sâu sắc bài học thất bại của những con
người không nắm được quy luật của tự nhiên, của cuộc sống để có cách ứng xử
hợp lý. Vì vậy, con người cần phải linh hoạt trong hành động sao cho phù hợp
với hoàn cảnh sống. Nếu con người cứ máy móc, không làm chủ được suy nghĩ
và hành động của mình thì sẽ gặp thất bại.
Qua kiểu nhân vật ngốc nghếch, tác giả dân gian muốn gửi vào đó mục đích
giáo dục, răn dạy con người phải biết ứng xử hợp lí với hoàn cảnh, đừng rập
khuôn, máy móc, phải biệt trang bị cho mình những kiến thức cơ bản. Ngoài ra,
với kiểu nhân vật này làm cho thế giới nhân vật trong truyện cổ tích sinh hoạt đa
dạng hơn, tạo thêm tiếng cười, niềm vui trong cuộc sống vất vả của người lao
động.
Với sự hiện diện của bốn kiểu nhân vật: đức hạnh, xấu xa, thông minh,
ngốc nghếch, truyện cổ tích sinh hoạt đã góp phần làm cho hệ thống nhân vật

trong truyện cổ tích Việt Nam phong phú, đa dạng hơn. Mỗi kiểu loại nhân vật
có đặc điểm riêng, thậm chí có sự đối lập hoàn toàn nhưng nó có khái quát toàn
bộ hạng người trong xã hội. Với việc xây dựng thành công bốn kiểu loại nhân
vật đó, tác giả dân gian đã khái quát được hiện thực cuộc sống vốn đa dạng,
phức tạp của nó. Thông qua bốn kiểu nhân vật này, tác giả dân gian muốn gửi
gắm khát vọng hạnh phúc, công bằng trong mỗi câu chuyện.
Truyện cổ tích là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của những con
người lao động hiền lành, chân thật, sống với lòng hiếu thảo, tình yêu tha thiết
và sự chung thuỷ qua các kiểu nhân vật người em, người mồ côi, người xấu xí,
17


người con dâu, nhân vật con thú, loài chim, nhân vật siêu nhiên, tài giỏi, dũng
sĩ… Đồng thời, truyện cổ tích còn là những giấc mơ đẹp của người thời xưa về
một xã hội công bằng, con người được sống khoẻ mạnh, no ấm và hạnh phúc.
Truyện cổ tích hấp dẫn người đọc bởi truyện đã chiếu rọi ánh sáng lạc quan tin
tưởng vào cuộc sống. Ở đây, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác rất quyết liệt
nhưng bao giờ cái thiện cũng chiến thắng.

18


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN CỔ TÍCH Ở CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
3.1. Nhân hóa
Biện pháp nhân hóa được sử dụng để xây dựng nhân vật trong truyện cổ
tích rất phong phú và đa dạng. Qua sự nhân hoá này, chúng ta thấy chủ nghĩa cá
nhân vốn có tài ẩn náu, nay hiện ra rất cụ thể, như một con người, tưởng như
cũng hành động, cũng nói năng khôn khéo, cũng biết len lõi vào chỗ yếu của con
người để tìm nơi dung thân... Sự liên tưởng rút ra nét giống nhau giữa người và

đối tượng không phải người thường gắn với cách nhìn, với thái độ của người
nói. Cho nên, bằng nhân hoá người ta có thể bộc lộ tâm tư của mình một cách
kín đáo.
Với nghệ thuật nhân hóa đó, tác giả dân gian đã gửi gắm những ước mơ, lí
tưởng, khát vọng của mình vào một cuộc sống tốt đẹp, ấm no và hạnh phúc.
3.2. Xung đột
Trong thế giới văn học dân gian, nếu như thần thoại phản ánh quan niệm và
sự nhận thức của người Việt cổ về thế giới, truyền thuyết là sự nhận thức, lí giải
về lịch sử thì truyện cổ tích lại gần gũi hơn với con người trong cách phản ánh
những vấn đề cơ bản trong xã hội có giai cấp. Đó là những mâu thuẫn xảy ra
trong cuộc sống mà con người không thể tránh khỏi, nó trở thành vấn đề của
mọi giai cấp.
Nhìn chung, xung đột nổi bật trong truyện cổ tích loài vật là xung đột giữa
kẻ yếu và kẻ mạnh. Ở đây, những con vật nhỏ nhưng gan dạ, mưu trí, lại biết
hợp quần luôn luôn thắng những con vật chỉ biết ỷ vào sức mạnh hung bạo. Các
con vật đóng vai trò chính trong kết cấu cốt truyện nhưng mối quan hệ giữa
chúng ít nhiều cũng thể hiện được mối quan hệ của con người với những suy
nghĩ, hành động như con người.
Trong truyện cổ tích thần kỳ nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và
xung đột giữa con người với những trở lực của thiên nhiên. Xung đột xã hội
trong truyện cổ tích, đặc biệt trong truyện cổ tích thần kỳ thường diễn ra trong
19


phạm vi gia đình. Đề tài về sự xung đột giữa con người với những trở lực của
thiên nhiên trong truyện cổ tích thần kỳ có thể coi là sự tiếp nối hợp quy luật đề
tài về cuộc đấu tranh của con người nhằm tìm hiểu và chế ngự những sức mạnh
tự nhiên trong thần thoại và sử thi cổ đại
Truyện cổ tích sinh hoạt của người Việt tập trung khai thác hai đề tài lớn.
Đó là đề tài đạo đức và đề tài trí khôn. Những truyện cổ tích sinh hoạt về đề tài

đạo đức, về đại thể, tương ứng với những truyện cổ tích thần kỳ về đề tài xung
đột gia đình; những truyện cổ tích về đề tài trí khôn, về đại thể tương ứng với
những truyện cổ tích thần kỳ về đề tài sức khỏe và tài lạ.
Có thể nói việc phản ánh những mâu thuẫn trong gia đình và xã hội, truyện
cổ tích Việt Nam đã cho thấy một cái nhìn thương cảm đối với những người lao
động nghèo khổ, nhỏ bé và khát vọng sống, triết lí sống của nhân dân lao động.
Nó cho thấy tư tưởng nhân văn của tác giả dân gian và niềm tin vào khả năng cải
tạo thực tế của con người.
3.3. Ngôn ngữ, hành động trong truyện cổ tích
3.3.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu của truyện cổ tích. Toàn bộ cốt truyện,
nhân vật, hình tượng của truyện đều được dệt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đây hết
sức linh hoạt, tùy theo người kể. Ngôn ngữ là một trong những biện pháp cơ bản
của tác phẩm tự sự. Qua ngôn ngữ, nhân vật dần dần được hiện lên một cách đầy
đủ sinh động từ ngoại hình đến hành động, tính cách. Điều đặc biệt, khi đi vào
xây dựng từng kiểu nhân vật khác nhau, các tác giả sử dụng ngôn ngữ để làm bật
phẩm chất, tính cách của họ.
Có thể nói, ngôn ngữ trong tác phẩm từ sự có vai trò vô cùng quan trọng và
nó càng quan trọng hơn trong tác phẩm tự sự dân gian. Truyện cổ dân gian nói
chung và truyện cổ tích nói riêng, các tác giả không chú ý đi vào miêu tả chi tiết
từ ngoại hình đến hành động, không đi sâu vào miêu tả thế giới nội tâm nhân vật
mà dùng lời kể làm phương tiện làm cho nhân vật hiện lên rõ nét. Với lối kể
chuyện hấp dẫn linh hoạt, các kiểu loại nhân vật trong truyện cổ tích vẫn hiện
20


lên một cách đầy đủ, sinh động và rất gần gũi với con người với cuộc sống bình
thường.
3.3.2. Hành động
Hành động của nhân vật là khái niệm dùng để chỉ những việc làm cụ thể

của nhân vật trong các tình huống đời sống và các quan hệ ứng xử. Đây là một
phương diện quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật. Chính hành động có tác
dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và giúp tiến trình câu chuyện được
đẩy tới, cốt truyện đạt được sự hoàn chỉnh.
Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật.
Ðây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc
làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí
tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của
người đó. Hơn nữa, trong các truyện cổ tích, tính cách nhân vật không phải ngay
từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá
trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt
truyện...Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong những
tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản chất
của nhân vật.
Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường kết hợp
với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ
cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành
động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến
trong việc miêu tả nhân vật.
3.4. Không gian, thời gian
Không gian trong truyện cổ tích loại vật là không gian sinh tồn và hoạt
động của loài vật, hợp nhất giữa không gian tự nhiên vốn tự nó như thể tự thuở
hồng hoang xa xưa với không gian sinh hoạt của những con vật và không gian
sinh hoạt xã hội của con người. Ở đây con vật biết nói, biết hoạt động và ứng xử

21


như người. Hai thứ không gian tự nhiên và không gian xã hội kết hợp với nhau
tạo nên một “thế giới cổ tích” độc đáo riêng của cổ tích loài vật.

Không gian và thời gian “cổ tích” trong truyện cổ tích sinh hoạt gần gũi
với người kể và người nghe truyện. Bối cảnh sinh hoạt của câu chuyện kể chẳng
những không mấy xa lạ, cách biệt với người nghe mà rất quen thuộc với họ. Đó
là khung cảnh nông thôn và gia đình nông dân; những chuyện áp bức bóc lột và
đời sống xã hội trong làng xã; người học trò và chuyện thi cử.
Như vậy, không gian nghệ thuật là khái niệm của thi pháp học chỉ hình thức
tồn tại của thế giới nghệ thuật, là sự mô hình hóa thế giới của tác giả, không gian
nghệ thuật trong tác phẩm mang tính biểu trưng và quan niệm. Do đó thông qua
việc tìm hiểu không gian nghệ thuật, chúng ta có thể hiểu được quan niệm thẩm
mỹ, trình độ tư duy cũng như tâm lí sáng tạo của con người ở những thời điểm
và địa điểm mà tác phẩm ra đời. Nó mang tính hai mặt là một trong những đặc
trưng thẩm mĩ quan trọng của thể loại truyện cổ tích.
Thời gian trong truyện cổ tích đó là thời gian nén chặt vì chỉ đo bằng sự
kiện. Thay vì thời gian không được miêu tả thành dòng chảy, thời gian truyện cổ
tích tạo thành từ các thời điểm khác nhau và các điểm quảng. Thời gian trong
truyện cổ tích là thời gian quá khứ vĩnh hằng, không bao giờ thay đổi. Bất cứ
thời điểm nào, cái thời gian quá khứ ấy vẫn duy trì. Thực tại đi vào cổ tích trở
thành quá khứ. Thời gian trong cổ tích không gián đoạn mà diễn biến theo hành
động của nhân vật.
Có thể nói, với sự khéo léo tài tình của mình, các tác giả dân gian đã đặt
nhân vật trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian để từ đó nhân vật hành
động bộc lộ bản chất, đức tính của mình. Mặt khác, qua không gian và thời gian
trong cuộc đời, số phận của nhân vật hiện lên chân thực, rõ nét.

22


C. KẾT LUẬN
Truyện cổ tích là một thể loại đặc sắc nhất và chiến số lượng khá lớn trong
kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nó nảy sinh từ xã hội nguyên thủy, song

phát triển chủ yếu trong xã hội giai cấp với chủ đề chủ yếu là chủ đề xã hội.
Qua những câu chuyện mang đậm yếu tố hoang đường kì ảo, tác giả dân gian đã
biểu hiện cách nhìn hiện thực đối với thực tại, đồng thời nói lên quan điểm đạo
đức, những quan niệm về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Mỗi câu chuyện lại là một số phận, một cuộc đời, một hoàn cảnh sống,
song tất cả đều là những mắt xích tạo nên một chuỗi nhân vật có những đặc
điểm chung nào đó về tính cách. Truyện cổ tích có ba thế giới nhân vật chính:
nhân vật loài vật, nhân vật thần kỳ, nhân vật sinh hoạt. Với mỗi thế giới nhân vật
đó, tác giả dân gian làm cho nhân vật hiện lên rõ nét qua những hành động, tính
cách, việc làm của họ.
Nhân vật loài vật là loại truyện cổ tích chủ yếu lấy các loài vật, làm đối
tượng phản ánh, tường thuật và lí giải. Vì thế ở truyện cổ tích loài vật vừa có nội
dung sinh hoạt vừa có nội dung mang ý nghĩa xã hội với những mức độ khác
nhau, và hai mặt nội dung đó gắn bó hòa quyện với nhau rất chặt nhiều khi rất
khó tách bạch. Những con vật trong thế giới loài vật hầu hết đều được nhân cách
hóa (biết nói năng, suy nghĩ, và hành động như con người) nhưng nhìn chung
đều mang tính chất “trần gian” thực tại chứ không siêu nhiên, kì ảo như các con
vật trong cổ tích thần kì.
Nhân vật thần kì là nhân vật quan trọng và tiêu biểu của thể loại truyện cổ
tích. Nó ra đời sớm hơn truyện cổ tích sinh hoạt và có những đặc trưng nổi bật
của truyện cổ tích đều có thể tìm thấy trong nhóm truyện này. Những xung đột
ấy trước hết thể hiện ở mối quan hệ giữa những con người trong gia đình với
nhau, sau đó là những con người trong xã hội. Chính thế giới thần kì, màu nhiệm
này khiến cho truyện cổ tích thần kì mang đậm yếu tố kì ảo và đề cao trí tưởng
tượng phong phú lãng mạn của tác giả dân gian. Kết thúc truyện cổ tích thần kì
thường là có hậu, mang lại sự vui vẻ lạc quan, thỏa mãn mơ ước của nhân dân.
23


Những kết thúc có hậu như nhân vật bất hạnh được đổi đời và sống hạnh phúc.

Còn nhân vật ác thì bị trừng phạt một cách thích đáng là sự biểu hiện của khát
vọng, ước mơ về công bằng, cuộc sống hạnh phúc sung túc của nhân dân lao
động.
Nhân vật sinh hoạt ra đời muộn hơn, khi mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai
cấp trở nên gay gắt. Nhân vật chính là con người trong mối quan hệ gia đình, xã
hội phức tạp. Với bốn kiểu nhân vật chính: Nhân vật đức hạnh, nhân vật xấu xa,
nhân vật thông minh, nhân vật ngốc nghếch. Truyện cổ tích sinh hoạt ngoài lối
kết thúc có hậu nhiều truyện còn có lối kết thúc bi kịch, các nhân vật chính đều
phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh thần lạc quan vẫn tỏa sáng, vì những cái
chết ấy hay sự ra đi biệt tích của các nhân vật chính diện chỉ làm tăng thêm niềm
tin và sự khẳng định đối với phẩm chất cao đẹp của con người chân chính.
Khi xây dựng các kiểu nhân vật, tác giả dân gian đã rất chú ý làm cho
nhân vật được hiện lên rõ nét thông qua lời kể, hành động qua việc đặt nhân vật
trong mối quan hệ với không gian và thời gian và đặc biệt đặt nhân vật trong cac
mối xung đột. Từ đó, nhân vật bộc lộ hết phẩm chất cao đẹp, cũng như những
thói hư, tật xấu. Truyện cổ tích đi vào lòng người bởi sự gần gũi ở nhân vật, họ
là những con người của cuộc sống thường ngày mà chúng đang diễn ra.
Kho tàng truyện cổ tích với nhiều những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật là báu vật vô giá mà chúng ta cần trân trọng và giữ gìn.

24



×