Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Lịch sử hình thành Sài Gòn - Gia Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 32 trang )

LỊCH SU HÌNH SÀI GÒN – GIA ĐỊNH
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIA ĐỊNH
I.

LỊCH SỬ

Chân Lạp-Phù Nam, vào năm 600

Đất Gia Định xưa thuộc nước Phù Nam (tồn tại khoảng đầu thế kỷ 1 đến khoảng
nửa thế kỷ 7), sau đó thuộc vương quốc Chân Lạp (nay là Campuchia). Tuy nhiên,
"thuộc" một cách lỏng lẻo: "các dân tộc vẫn sống tự trị, và mấy sóc Khrmer lẻ tẻ


chưa hợp thành đơn vị hành chánh thuộc triều đình La Bích (Chân Lạp). Trong khi
đó triều đình ấy phải tập trung lực lượng ở phía nam Biển Hồ (sau khi bỏ Ăngco ở
phía bắc) để đối đầu với Xiêm La (nay là Thái Lan) đang tiếp tục lấn đất Chân Lạp
ở phía tây. Đất Gia Định vẫn là đất tự do của các dân tộc và hầu như vô chủ, là đất
hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa".
Theo sử liệu, lưu dân Việt đã đến đây khai hoang và làm ăn sinh sống vào đầu thế
kỷ 17, nhờ có cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta
II vào năm 1620. Vì mưu sinh, có thể lưu dân Việt đã có mặt ở đây trước khi có cuộc
hôn nhân ấy. Song, chính nhờ mối quan hệ đó, mà Đại Việt (nay là Việt Nam) và
Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống, tạo điều
kiện cho lưu dân Việt ngày càng đông đảo hơn ở khu vực Đồng Nai, Sài Gòn...
Và căn cứ đoạn chép trong Gia Định thành thông chí, thì lúc bấy giờ lưu dân Việt "ở
lẫn với người Cao Mên" (tức Chân Lạp), trích:
"Năm Mậu Tuất (1658)...vua (chúa Nguyễn Phúc Tần) sai Phó tướng Yến Vũ hầu
(Nguyễn Phước Yến)...đem 2000 quân, đi tuần đến thành Mỗi Xoài nước Cao Mên,
đánh phá được, bắt vua nước ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở
dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội...Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài,
Đồng Nai đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai


khẩn đất"
1.

Trong công cuộc Nam tiến

Năm Kỷ Mùi (1679), vì không theo nhà Thanh, các tướng nhà Minh là Dương Ngạn
Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình đã đem hơn 3.000 quân cùng
50 chiếc thuyền từ Quảng Đông (Trung Quốc) vào hai cửa biển là Tư Dung (cửa Tư
Hiền) và Đà Nẵng xin qui phụ. Nghe theo lời bàn của triều thần, chúa Nguyễn Phúc
Tần bèn cho họ vào ở xứ Đồng Nai (nhóm Trần Thượng Xuyên) và xứ Mỹ Tho
(nhóm Dương Ngạn Địch). Từ đó, họ vỡ đất phá hoang, cày ruộng, dựng nhà và phố
chợ, buôn bán giao thông với người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản, Đồ
Bàn...khiến phong tục văn minh dần dần phổ biến...

Đến đầu năm Mậu Dần (1698), nhận lệnh của chúa Nguyễn Phúc Chu, Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược nước Chân Lạp. Sau đó, ông "lấy đất Nông Nại đặt
làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai (Lộc Dã) làm huyện Phước Long, dựng dinh
Trấn Biên (vùng Biên Hòa); xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn
(vùng Gia Định). Các nơi đều đặt quan lưu giữ. Mở đất ngàn dặm, được trên 4 vạn
hộ. Chiêu mộ dân xiêu tán từ Bố Chánh trở vào Nam cho đến ở, thành lập xã thôn,
khai khẩn ruộng đồng, làm sổ đinh, sổ điền. Lại lấy những lái buôn người Hoa sống


ở Trấn Biên lập nên xã Thanh Hà, những người ở Phiên Trấn lập nên xã Minh
Hương"...

Vậy, kể từ năm đó (1698), dinh Phiên Trấn gồm một phủ (Gia Định) và một huyện
(Tân Bình). Về mặt hành chính, chúa Nguyễn Phúc Chu đặt chức Giám quân, Cai bộ
và Ký lục để cai trị.


Dần dần, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, vùng đất phía Nam nới rộng thêm ra,
theo chính sách "tàm thực" (lối xâm lấn dần dần như tằm ăn lá dâu) của tướng
Nguyễn Cư Trinh. Sau khi con đường Nam tiến thành công, toàn lãnh thổ miền Nam
được phân ra thành ba dinh lớn là: Trấn Biên dinh (trấn lỵ ở Biên Hòa), Phiên Trấn
dinh (trấn lỵ ở Gia Định) và Long Hồ dinh (trấn lỵ ở Vĩnh Long).

2.

Dưới thời Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long)


Bản Đồ Xứ Gia Định, Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18. Vẽ lại một phần từ lược đồ
của tác giả Tạ Chí Đại Trường (Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch Sử Nội Chiến Việt
Nam 1771- 1802, Sài Gòn: Nhà xuất bản Văn Sử Học, tr. 95

Vị trí thành Bát Quái so với sông Sài Gòn năm 1795 do Le Brun vẽ


Năm Bính Thân (1776), Gia Định bị quân Tây Sơn vào chiếm cứ. Sau khi đánh lấy
lại, tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), chúa Nguyễn Phúc Ánh duyệt xem bản
đồ, chia toàn miền Nam lúc bấy giờ ra thành một trấn (Hà Tiên) và 4 dinh (Trấn
Biên, Phiên Trấn, Trường Đồn [nâng lên từ đạo], Long Hồ). Tất cả các dinh trấn này
đều chịu sự cai quản của phủ Gia Định. Khi ấy, dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân
Bình, gồm 4 tổng là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc.
Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai đắp thành Bát Quái, đồng thời chọn thành
phố Sài Gòn (thuộc tổng Bình Dương, huyện Tân Bình) [9] làm nơi đóng đô của
mình, và gọi là Gia Định kinh. Địa vị kinh đô này chỉ tồn tại được trên 10 năm (1790
- 1801), vì sau khi lấy được Phú Xuân (1801), chúa Nguyễn liền dời đô ra đấy

Năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long (tức chúa Nguyễn Phúc Ánh) cho đổi phủ Gia

Định thành trấn Gia Định, đồng thời cho các dinh cũng đổi thành các trấn, gồm:
Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tất cả các trấn này nằm
dưới sự cai quản của trấn Gia Định. Có thể coi đây là thời kỳ "Gia Định ngũ trấn”.

Đến năm Mậu Thìn (1808), nhà vua này định lại bờ cõi, phân địa giới toàn lãnh thổ
Việt Nam ra làm 4 dinh gồm 25 trấn, đồng thời lại chia làm hai miền Bắc Nam, gọi
là Bắc Thành và Gia Định Thành để tiện việc cai quản. Lúc bấy giờ, trấn Gia Định
được đổi thành Gia Định Thành, và cho cai quản 5 trấn, là: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh
Thanh, Định Tường và An Giang.

Theo Nguyễn Đình Đầu, sở dĩ trấn Gia Định được đổi tên là "Gia Định Thành" là vì
trước đây Gia Định và Phiên An cùng gọi là "trấn", rất dễ lẫn nhau, và dễ nhầm là
ngang bậc nhau. Và cũng theo nhà nghiên cứu này, mặc dù danh xưng thay đổi,
song Sài Gòn (thuộc trấn Phiên An) vẫn luôn là lỵ sở của các thời kỳ: phủ Gia Định,
trấn Gia Định và Gia Định Thành.
Về mặt hành chính của Gia Định Thành, đứng đầu là Tổng trấn, có hai phụ tá là
Hiệp Tổng trấn và Phó Tổng trấn. Các thuộc viên khác, gồm có Trấn thủ, Cai bộ và
Ký lục. Đây chính là các quan chức đại diện cho triều đình để thống quản các trấn ở
phía Nam.


Tổng trấn đầu tiên của Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân), và vị Tổng
trấn cuối cùng là Lê Văn Duyệt. Theo thống kê năm 1819, thì 5 trấn của Gia Định
Thành có khoảng 700.000 dân, riêng trấn Phiên An có khoảng 180.000 dân.
3.

Dưới thời Minh Mạng - Thiệu Trị

Nam Kỳ lục tỉnh giai đoạn (1832-1862)



Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832), sau khi Lê Văn Duyệt từ trần, nhà vua
bãi bỏ chức Tổng trấn, chia miền Nam Việt Nam ra làm 6 tỉnh là: Phiên An, Biên
Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (gọi chung là Nam Kỳ lục tỉnh),
và không đặt một viên quan nào cai trị chung cho cả lục tỉnh nữa. Đơn vị hành
chính Gia Định Thành kể như bị xóa sổ từ năm ấy (1832).
Lúc bấy giờ, tỉnh Phiên An gồm hai phủ là phủ Tân Bình (4 tổng lệ thuộc là Bình
Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc đều thăng làm huyện) và phủ Tân An
(lấy hai huyện Thuận An và Phước Lộc lập thành).

Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An.
Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia
Định[16]. Sau, nhà vua lại đặt thêm phủ Tây Ninh gồm hai huyện là Tân Ninh và
Quang Hóa.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đặt thêm phủ Hòa Thịnh (gồm hai huyện Tân
Hòa và Tân Thịnh), và phủ Tân Bình lại đặt thêm huyện Bình Long.

4.

Dưới thời Tự Đức

Năm Tự Đức thứ 5 (1852), bỏ bớt phủ Hòa Thịnh. Cử Tri huyện Tân Hòa kiêm công
việc của huyện Tân Thịnh, đồng thời lại cho thuộc vào phủ Tân An. Lại cho Tri phủ
Tân Bình kiêm công việc ở huyện Bình Long.

Sau trận Đại đồn Chí Hòa (tháng 2 năm 1861), 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên
Hòa, Định Tường) mất vào tay thực dân Pháp (theo Hòa ước Nhâm Tuất, 1862).
Lần hồi cả 6 tỉnh Nam Kỳ đều bị họ chiếm hết, rồi trở thành thuộc địa (theo Hòa
ước Giáp Tuất, 1874).


5.

Dưới thời Pháp thuộc

a)

Về Nam Kỳ lục tỉnh

Tính đến năm 1944, Nam Kỳ lục tỉnh thời Nguyễn đã được thực dân Pháp chia
thành 22 tỉnh như sau:


-Khu vực Sài Gòn cũ gồm các tỉnh: Gia Định, Tân Bình và Chợ Lớn.
-Khu vực miền Đông gồm các tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay),
Tây Ninh, Bà Rịa và Vũng Tàu.
-Khu vực miền Tây gồm các tỉnh: Bến Tre, Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa
Đéc, Cần Thơ, Trà Vinh, Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Hà Tiên.
Về việc hành chính, sau khi chiếm xong Gia Định, Đề đốc Charner cho thiết lập chế
độ cai trị tạm thời. Nhiều sĩ quan được lãnh trách nhiệm cai trị, gọi là "Quản đốc
bổn quốc sự vụ", vì lúc ấy các quan Nam triều đã bỏ đi hết...Đến thời Đô đốc Bonard
mới giao phó cho một số viên chức người Việt. Tuy nhiên, kể từ năm 1859, cấp lãnh
đạo tối cao lần lượt vẫn là các sĩ quan Hải quân cao cấp của Pháp, như Rigault de
Genouilly, Page, Charner, Bonard, De la Grandière...

Năm 1864, Đô đốc De la Grandière thay đổi chế độ cai trị. Ba tỉnh miền Đông bị chia
làm 7 khu vực: Bà Rịa, Biên Hòa, Cần Giuộc, Mỹ Tho, Sài Gòn, Tân An, Gò Công và
Tây Ninh. Đây vẫn còn là tổ chức quân sự. Để chuyển dần qua chế độ dân sự, ngày 9
tháng 11 năm đó (1864), De la Gradière lập một tòa Thượng thư cai quản các quan
Tham biện, sĩ quan và nhân viên công lực, v.v...Và trong năm 1865, riêng vùng Gia

Định có mấy sở Tham biện được đặt ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tây Ninh và
Tân An.

Năm 1867, thực dân Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau đó, họ chia Nam kỳ ra làm
6 tỉnh: Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên; đồng thời đặt ra
24 sở Tham biện để cai quản số tỉnh ấy. Riêng ở Sài Gòn có 7 tham biện...

Tuy vậy, đến ngày 13 tháng 5 năm 1879, do lệnh của Tổng thống Pháp, bên quan
văn mới được nắm quyền cai trị tối cao. Vị quan văn Pháp đầu tiên được cử làm
Thống đốc Nam Kỳ là Le Myre de Vilers. Từ đấy, việc quân sự và dân sự mới được
phân biệt hẳn hoi…

b)

Về tỉnh Gia Định


Sau khi thực dân Pháp chiếm lấy tỉnh Gia Định thời Nguyễn, lần lượt họ đã chia cắt
ra làm 6 tỉnh là: Gia Định, Chợ Lớn (lập năm 1876), Tân An (lập năm 1854), Tây
Ninh (lập năm 1900), Gò Công (lập năm 1900) và Tân Bình (lập năm 1944).

Năm 1956, tỉnh Chợ Lớn sáp nhập với tỉnh Tân An thành tỉnh Long An, tỉnh Gò Công
sáp nhập với tỉnh Mỹ Tho thành tỉnh Định Tường...

c)

Thời Việt Nam Cộng hòa


Phân chia hành chánh tỉnh Gia Định 1973. Đô thành Sài Gòn nằm giữa nhưng

không phụ thuộc tỉnh Gia Định

Năm 1956, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Gia Định là một trong 22 tỉnh của Nam
phần (tức Nam Kỳ lục tỉnh), không kể Đô thành Sài Gòn. Năm 1957, tỉnh Gia Định
gồm có 6 quận, 10 tổng và 61 xã:
Quận Gò Vấp có 1 tổng Bình Trị Thượng; quận lỵ: Hạnh Thông Xã.


Quận Tân Bình có 1 tổng Dương Hòa Thượng; quận lỵ: xã Phú Nhuận.
Quận Hóc Môn có 2 tổng: Bình Thạnh Trung, Long Bình; quận lỵ: Thới Tam Thôn.
Quận Thủ Đức có 2 tổng: An Bình, An Điền; quận lỵ: Linh Đông Xã.
Quận Nhà Bè có 1 tổng Bình Trị Hạ; quận lỵ: xã Phú Xuân Hội.
Quận Bình Chánh có 3 tổng: Long Hưng Thượng, Long Hưng Trung, Tân Phong Hạ;
quận lỵ: xã Bình Chánh.
Năm 1970, Gia Định chia thành 8 quận, ngoài các quận trên còn có thêm:
Quận Quảng Xuyên
Quận Cần Giờ
Năm 1974, tỉnh Gia Định có 8 quận, 74 xã, 351 ấp với 1.422.653 dân.

7.

Thời CHXHCN Việt Nam

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, tháng 5 năm đó, tỉnh Gia Định (ngoại trừ 2 quận:
Cần Giờ và Quảng Xuyên) được sáp nhập với Đô thành Sài Gòn, gộp thêm một phần
các tỉnh Long An, Bình Dương, Hậu Nghĩa để trở thành thành phố Sài Gòn - Gia
Định.

Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, thành phố Sài Gòn - Gia Định được chính thức đổi
tên thành thành phố Hồ Chí Minh


Ngày nay, địa danh Gia Định chỉ còn dùng để chỉ khu vực trung tâm quận Bình
Thạnh của Thành phố Hồ Chí Minh.
II. PHÂN CHIA HÀNH CHÁNH
Năm 1910
1. Tổng An Bình gồm 8 làng: An Phú, Bình Trưng, Bình Lợi, Bình Thạnh, Đông Phú,
Phú Thọ, Mỹ Thủy, Tân Lập;


2. Tổng An Điền gồm 9 làng: Linh Chiểu Đông, Linh Chiểu Tây, Linh Chiểu Trung,
Bình Qưới Đông, Bình Thới, Bình Thọ, Trường Thọ, Xuân Trường, Xuân Vinh;

3. Tổng An Thành gồm 9 làng: An Thạnh, Hưng Thạnh, Long Tân, Phước Khánh,
Phước Trường, Tân Điền, Trường Cửu, Trường Lộc, Tuy Thạnh;

4. Tổng An Thít gồm 5 làng: An Thạnh, Bình Khánh, Khánh Độ, Sài Tân, Vạng Phước;

5. Tổng An Thổ gồm 10 làng: Bình Chánh, Bình Chiểu, Bình Đức, Bình Đường, Bình
Phú, Bình Phước, Bình Thủy, Bình Triệu, Đông An, Dĩ An;

6. Tổng An Thủy gồm 14 làng: An Nhơn, Bình Thắng, Bình Thung, Đông Minh, Đông
Tác, Đông An, Mỹ Hòa, Ngãi Hòa, Phong Phú, Tân Long, Tăng Phú, Tân Nhơn, Tân
Ninh, Tân Qưới;

7. Tổng Bình Thạnh Hạ gồm 16 làng: Mỹ Hòa, Tân Đông Thượng, Tân Đông Trung,
Tân Hội, Tân Hưng, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Thượng, Thới An, Thới Hòa, Thuận
Kiều, Trung Chánh, Trung Chánh Tây, Tân Hưng, Xuân Hòa, Xuân Thới Tây, Vinh
Lộc;

8. Tổng Bình Thạnh Trung gồm 17 làng: An Hòa, Bình Lý, Bình Lý Đông, Bình Nhan,

Bình Xuân, Hội Thạnh, Mỹ Thạnh, Phú Lợi, Tân Đông, Tân Mỹ Đông, Tân Thạnh
Đông, Tân Thạnh Tây, Thạnh Hòa, Thạnh Phú, Thạnh Yên, Thới Thạnh, Thới Thuận;

9. Tổng Bình Trị Hạ gồm 9 làng: Phú Hội, Phú Mỹ Tây, Phước Hải, Phước Long
Đông, Phước Thành, Phước Thới, Phú Xuân Đông, Tân Qui Đông, Tân Thuận Đông;

10. Tổng Bình Trị Thượng gồm 15 làng: An Hội, An Lộc, An Lộc Đông, An Nhơn, An
Phước, An Thạnh Trung, An Xuân, Bình Hòa, Bình Lợi Trung, Bình Qưới Tây, Hanh
Phú, Hanh Thông, Hanh Thông Tây, Qưới An, Thạnh Đa;


11. Tổng Bình Trị Trung gồm 5 làng: An Lợi, An Lợi Đông, Bình Khánh, Phú An, Phú
Mỹ;

12. Tổng Cần Giờ gồm 6 làng: Cần Thạnh, Đông Hòa, Long Thạnh, Lý Nhơn, Tân
Thạnh, Thạnh Thới;

13. Tổng Dương Hòa Hạ gồm 12 làng: Đức Hưng, Long Kiểng, Long Phước, Long
Thạnh Tây, Long Thới, Mỹ Đức, Nhơn Mỹ, Nhơn Ngãi, Phong Lộc, Phú Lễ, Phước
Thạnh, Thới Hiệp;

14. Tổng Dương Hòa Thượng gồm 13 làng: Bình Hưng, Bình Hưng Đông, Bình Thới,
Hòa Hưng, Phú Nhuận, Phú Thọ, Tân Hòa, Tân Hòa Tây, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Nhứt,
Tân Thới, Tân Trụ, Thạnh Hòa;

15. Tổng Long Tuy Hạ gồm 11 làng: Mỹ Khánh, Phước An, Phước Mỹ, Tân Thông,
Tân Thông Đông, Tân Thông Tây, Tân Thông Trung, Thái Bình Hạ, Thái Bình
Thượng, Trung Lập, Vĩnh An Tây;

16. Tổng Long Tuy Thượng gồm 14 làng: Phước Ninh, Tân Phú Trung, Tân Thới

Đông, Tân Thới Nhì, Tân Thới Tam, Tân Thới Tây, Tân Thới Trung, Tân Thới Tứ,
Thới Sơn, Thới Tam Đông, Vĩnh Cư, Vĩnh Phước, Xuân Thới, Xuân Thới Đông;

17. Tổng Long Tuy Trung gồm 6 làng: An Nhơn Tây, Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phú Đức,
Phú Hòa Đông, Phú Thạnh;

18. Tổng Long Vĩnh Hạ gồm 11 làng: Chí Thạnh, Ích Thạnh, Long Đại, Long Hậu,
Long Sơn, Long Tuy, Mỹ Thạnh, Phước Hậu, Phước Thiện, Phước Thới, Vĩnh Thuận.

Năm 1940


1. Quận THỦ ĐỨC có 19 làng:

Tổng An Bình có 05 làng: Bình Trưng (sáp nhập Tân Lập vào Bình Trung), Thạnh
Mỹ Lợi (hợp nhất Hưng Thạnh, Bình Thạnh, Mỹ Thủy và Bình Lợi), Phú Hữu (hợp
nhất Tân Điền, An Thạnh và Tuy Thạnh), An Phú (sáp nhập Đông Phú vào An Phú)
và An Khánh Xã (hợp nhất An Lợi Xã, An Lợi Đông và Bình Khánh);
Tổng An Điền có 04 làng: Linh Xuân Thôn (hợp nhất Linh Chiểu Trung, Xuân Vinh xà
Xuân Trường), Phước Long Xã (hợp nhất Phú Thọ và Bình Thái) và Linh Đông Xã
(hợp nhất Linh Chiểu Đông, Linh Chiẻu Tây, Trường Thọ, Bình Thọ và Bình Qưới
Đông);
Tổng An Thổ có 03 làng: An Bình Xã (hợp nhất Dĩ An và Bình Đường), Hiệp Bình Xã
(hợp nhất Bình Thủy, Bình Chánh, Bình Phước và Bình Triệu) và Tam Bình Xã (hợp
nhất Bình Đức, Bình Phú và Bình Chiểu);
Tổng An Thủy có 04 làng: Bình An, Đông Hòa Xã (hợp nhất Đông Minh và Mỹ Hòa),
Tăng Nhơn Phú (hợp nhất Tăng Phú, Tân Nhơn và Phong Phú) và Tân Đông Hiệp
(hợp nhất An Nhơn, Tân Ninh, Tân Long, Đông An và Đông Tác);
Tổng Long Vĩnh Hạ có 04 làng: Long Thạnh Mỹ (hợp nhất Long Hậu, Chí Thạnh, Ít
Thạnh và Mỹ Thạnh), Long Trường (hợp nhất Long Tân, Phước Trường và Trường

Lộc), Long Phước Thôn (hợp nhất Trường Cửu, Long Đại, Phước Thới, Phước
Khánh và Phước Hậu) và Long Bình (hợp nhất Long Sơn, Long Tuy, Vĩnh Thuận và
Phước Thiện);
2. Quận NHÀ BÈ có 19 làng:

Tổng Bình Trị Hạ có 05 làng: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội (hợp nhất Phú Xuân Đông,
Phú Hội và Phước Hải), Phước Long Đông (sáp nhập Phước Thành và Phước Thới
vào Phước Long Đông), Tân Quy Đông và Tân Thuận Đông;
Tổng Dương Hòa Hạ có 06 làng: Long Kiểng (sáp nhập Long Thạnh Tây vào Long
Kiểng), Phước Lộc Thôn (hợp nhất Phước Thạnh và Phong Lộc), Nhơn Đức (hợp
nhất Nhơn Ngãi và Mỹ Đức), Long Đức (hợp nhất Long Thới và Đức Hưng), Hiệp
Phước (hợp nhất Thới Hiệp và Long Phước) và Phú Lễ;
Tổng An Thít có 03 làng: Bình Khánh, An Thới Đông và Tam Thôn Hiệp (hợp nhất
An Thạnh, Khánh Độ, Sài Tân và Vạng Phước);


Tổng Cần Giờ có 05 làng: Lý Nhơn, Tân Thạnh, Cần Thạnh, Đông Hòa và Long
Thạnh;
3. Quận HÓC MÔN có 28 làng:

Tổng Bình Thạnh Hạ có 07 làng: Xuân Thới Thượng (hợp nhất Xuân Thới Tây và
Tân Thới Thượng), Xuân Thới Sơn (hợp nhất Xuân Thới, Xuân Thới Đông và Thái
Sơn), Tân Hòa (hợp nhất Xuân Hòa và Thới Hòa), Trung Mỹ Tây (hợp nhất Trung
Chánh, Trung Chánh Tây và Mỹ Hòa), Tân Thới Nhứt, Đông Hưng Thuận (hợp nhất
Tân Đông Trung, Tân Hội, Trung Hưng và Thuận Kiều) và Tân Thới Hiệp (hợp nhất
Tân Hưng và Thới An);
Tổng Bình Thạnh Trung có 07 làng: An Phú (hợp nhất An Hòa và Phú Lợi), Tân Hòa
Thôn (hợp nhất Tân Thạnh Tây, Hội Thạnh, Thạnh An, Thạnh Phú và Thạnh Hòa),
Tân Thạnh Đông, Mỹ Bình (hợp nhất Mỹ Thạnh và Bình Lý Đông), Bình Tân (hợp
nhất Bình Lý và Tân Mỹ Đông), Nhị Bình (hợp nhất Bình Nhan và Bình Xuân) và

Đông Thạnh (hợp nhất Tân Đông, Thới Thuận và Thới Thạnh);
Tổng Long Tuy Thượng có 06 làng: Phước Vĩnh Ninh (hợp nhất Phước Ninh, Vĩnh
Phước và Vĩnh Cư), Tân Phú Trung, Tân Hiệp (hợp nhất Tân Thới Đông và Tân Thới
Tây), Tân Thới Nhì, Thới Hiệp và Thới Tam Thôn (hợp nhất Thới Tam Đông, Tân
Thới Tam và Tân Thới Tứ);
Tổng Long Tuy Trung có 04 làng: An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông (sáp
nhập Phú Qưới vào Phú Hòa Đông) và Phú Mỹ Hưng (hợp nhất Phú Thạnh và Mỹ
Hưng);
Tổng Long Tuy Hạ có 04 làng: Tân An Hội (hợp nhất Tân Thông, Tân Thông Đông,
Tân Thông Tây, Tân Thông Trung và Vĩnh An Tây), Phước Hiệp (hợp nhất Phước An
và Phước Mỹ), Thái Mỹ (hợp nhất Thái Bình Hạ, Thái Bình Thượng và Mỹ Khánh)
và Trung Lập;
4. Quận GÒ VẤP có 14 làng:

Tổng Bình Trị Thượng có 08 làng: An Nhơn Xã, An Phú Đông (hợp nhất An Lộc
Đông và Hanh Phú), Bình Hòa Xã, Thạnh Lộc Thôn (hợp nhất An Phước, An Thạnh
Trung và An Lộc), Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây (hợp nhất Thạnh Đa, Bình Qưới
Tây, Phú Mỹ và Phú An), Thông Tây Hội (hợp nhất Hanh Thông Tây và An Hội) và
Quới Xuân (hợp nhất Qưới An và An Xuân);


Tổng Dương Hòa Thượng có 06 làng: Bình Hưng Hòa (hợp nhất Bình Hưng và Bình
Hưng Đông), Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa (hợp nhất Phú Thọ, Tân Hòa và Tân Hòa
Tây), Tân Sơn Hòa (hợp nhất Tân Sơn Nhứt và Thạnh Hòa), Tân Sơn Nhì (sáp nhập
Tân Thới và Tân Trụ vào Tân Sơn Nhì) và Vĩnh Lộc.
Năm 1955
1. Quận THỦ ĐỨC có 19 làng:

Tổng An Bình có 05 làng: Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Phú Hữu, An Phú và An Khánh
Xã;

Tổng An Điền có 04 làng: Linh Xuân Thôn, Phước Long Xã, Linh Đông Xã và Tăng
Nhơn Phú;
Tổng An Thổ có 03 làng: An Bình Xã, Hiệp Bình Xã và Tam Bình Xã;
Tổng An Thủy có 03 làng: Bình An, Đông Hòa Xã và Tân Đông Hiệp;
Tổng Long Vĩnh Hạ có 04 làng: Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Long Phước Thôn và
Long Bình;
2. Quận NHÀ BÈ có 11 làng:

Tổng Bình Trị Hạ có 05 làng: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội, Phước Long Đông, Tân Quy
Đông và Tân Thuận Đông;
Tổng Dương Hòa Hạ có 06 làng: Long Kiểng, Phước Lộc Thôn, Nhơn Đức, Long Đức,
Hiệp Phước và Phú Lễ;
3. Quận HÓC MÔN có 27 làng:

Tổng Bình Thạnh Trung có 07 làng: Đông Hưng Thuận, Tân Đông Thượng, Đông
Thạnh, Nhị Bình, Tân Thới Hiệp, Thới Tam Thôn và Trung Mỹ Tây;
Tổng Long Bình có 06 làng: Tân Hiệp, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Tân Thới
Trung, Xuân Thới Sơn và Xuân Thới Thượng;
Tổng Long Tuy Thượng có 06 làng: Phước Vĩnh Ninh, Tân Phú Trung, Bình Mỹ, Tân
Hòa, Tân Thạnh Đông và Trung An;


Tổng Long Tuy Trung có 04 làng: An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông và Phú
Mỹ Hưng;
Tổng Long Tuy Hạ có 04 làng: Tân An Hội, Phước Hiệp, Thái Mỹ và Trung Lập;
4. Quận GÒ VẤP có 15 làng:

Tổng Bình Trị Thượng có 08 làng: An Nhơn Xã, An Phú Đông, Bình Hòa Xã, Thạnh
Lộc Thôn, Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội và Quới Xuân;
Tổng Dương Hòa Thượng có 07 làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa,

Tân Hòa, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì và Vĩnh Lộc.
Năm 1974
1. Quận BÌNH CHÁNH gồm 15 xã: An Lạc, An Phú, An Phú Tây, Bình Chánh, Bình
Hưng, Bình Trị Đông, Đa Phước, Hưng Long, Phong Đước, Qui Đức, Tân Kiên, Tân
Nhựt, Tân Quý Tây, Tân Tạo, Tân Túc;

2. Quận CẦN GIỜ gồm 5 xã: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Thạnh An, Tân
Thạnh;

3. Quận GÒ VẤP gồm 7 xã: An Nhơn Xã, An Phú Đông, Bình Hòa Xã, Thạnh Lộc Thôn,
Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội;

4. Quận HÓC MÔN gồm 12 xã: Đông Hưng Tân, Đông Thạnh, Nhị Bình, Tân Hiệp,
Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Tân Thới Trung, Thới Tam Thôn,
Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Sơn, Xuân Thới Thượng;

5. Quận NHÀ BÈ gồm 9 xã: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội, Phước Long Đông, Tân Quy
Đông, Tân Thuận Đông, Long Kiểng, Phước Lộc Thôn, Nhơn Đức, Long Đức;

6. Quận QUẢNG XUYÊN gồm 4 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn, Tam Thôn
Hiệp;


7. Quận TÂN BÌNH gồm 7 xã: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Phú,
Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì, Vĩnh Lộc;

8. Quận THỦ ĐỨC gồm 15 xã: Tam Bình Xã, Long Bình, Long Phước Thôn, Long
Thạnh Mỹ, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Phú Hữu, An Phú, Linh Xuân Thôn, Phước
Long Xã, Linh Đông Xã, Long Trường, Tăng Nhơn Phú, Hiệp Bình Xã, Phước Bình


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH SÀI GÒN
Thành phố Hồ Chí Minh là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên từ Sài Gòn. Hiện nay tên gọi
Sài Gòn vẫn được nhắc đến như tên bán chính thức của thành phố này.
I.

TÊN GỌI SÀI GÒN
1. Những ghi chép đầu tiên về tên gọi Sài Gòn
Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm
- Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la
Mission Cochinchine, có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn
Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn Hạ).
- Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776.
- Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định,
Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành
phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao gồm cả vùng Sài
Gòn và Bến Nghé.
2. Các giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Sài Gòn


Đề Ngạn - Tây Cống
Củi và Bông gòn
Bến Củi
Prei Nokor
Những tên gọi khác: Thù Nại, Huyện Tân Bình.
LỊCH SỬ THIẾT LẬP HÀNH CHÍNH
1. Thời cổ đại
Vào thời kỳ cổ đại, khu vực nay là Thành phố Hồ Chí Minh thuộc đế
quốc Phù Nam. Đầu thế kỷ 17 trên một khu vực rộng lớn, dân cư thưa
thớt, nằm trong khu vực tranh chấp ảnh hưởng giữa Chân Lạp và

Chiêm Thành chỉ ghi nhận 2 ngôi làng nhỏ của người Chân Lạp. Một
tên Prei Nokor (nay là vùng Chợ Lớn), một mang tên Kas Krobei (nay
là khu vực quận 2).
2. Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn
Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha
II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến
Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua
lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Cao Miên và Xiêm La.
Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh
hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung tâm của
khu thị tứ trên bến dưới quyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm
uất.
-

II.

Vào khoảng năm 1658, Đế chế Chân Lạp đứng trên bờ vực khủng
hoảng đã cầu viện chúa Nguyễn nhằm chống lại người Thái. Năm
1679, chúa Nguyễn cho phép một nhóm người Hoa phản Thanh phục
Minh, gồm hơn 3.000 người tị nạn tại nơi nay là Biên Hòa (Đồng Nai).
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào
Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chính, chia đặt tỉnh lỵ v.v.,
chính thức xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất mới. Nguyễn
Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình (nghĩa là Quảng Bình mới), đặt ra hai dinh Trấn Biên
(Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định), cho quan vào cai trị. Từ đó, xứ
Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình và huyện sở đặt ở làng Tân Khai, là
trụ sở của dinh Phiên Trấn. Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là
xóm Hòa Mỹ (tức xóm Thủy Trại, gần đường Cường Để), xóm Tân Khai
(đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm Than, xóm

Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm Cây Củi, xóm Rẫy
Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một
vạn dân và là thủ phủ của dinh Phiên Trấn. Thanh Hà là xã đầu tiên


của người Hoa ở, vùng Đồng Nai và Minh Hương là xã đầu tiên của
người Hoa tại Tân Bình.
Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho đắp thành Gia Định [4] ở làng
Tân Khai, lập Gia Định Kinh, làm nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống
quân Tây Sơn. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1802, vua Gia Long
cho lập kinh đô ở Huế, đổi Gia Định Kinh lại thành Gia Định Trấn. Đây
là một đơn vị hành chính quản trị cả 5 trấn Phiên An, Biên Hòa, Định
Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Do dễ gây ra sự nhầm lẫn về danh
xưng Trấn, nên năm 1808, Gia Long cho thành lập Gia Định Thành,
một cơ quan hành chính cấp cao, thay mặt hoàng đế quản trị 5 trấn.
Tại Bắc Hà, Gia Long cũng cho thành lập một đơn vị hành chính tương
đương là Bắc Thành.
Năm 1832, Minh Mạng giải tán Gia Định Thành, chia lại 5 trấn do Gia
Định Thành quản lý lại thành 6 tỉnh, gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh.
Phiên An trấn trở thành tỉnh Phiên An.
Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Quy bị phá hủy. Một
thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này
không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp vài năm sau đó.
3. Thời Pháp xâm chiếm Nam Kỳ


Sài Gòn thời Pháp thuộc với xe ngựa và những cột Morris đặc trưng Pháp


Người Pháp đã xây dựng ở Sài Gòn một thành phố tao nhã và sôi động

được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" hay "Paris của Phương
Đông"
Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859, người Pháp đã gấp rút
quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng
(hành chính, quân sự, kinh tế, cảng, v.v.). Ngày 11 tháng 4 năm 1861,
Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố
Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) lúc đó: phía đông là sông Sài
Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây
từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km². Theo đó, ngày 30
tháng 4 năm 1862, trung tá công binh Coffyn đã cho soạn dự án mở
rộng thành phố Sài Gòn, và được thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ,
Chuẩn đô đốc Louis Bonard. Tuy nhiên, dự án này chỉ được triển khai
một thời gian ngắn thì bị bỏ dở. Ngày 14 tháng 8 năm 1862, Bonard
lại ký Quyết định số 145 về quy định tổ chức hành chính tỉnh Gia Định,
theo đó tỉnh Gia Định (tiếng Pháp: Province de Gia-dinh) gồm 3 phủ
(tiếng Pháp: département), mỗi phủ có ba huyện (tiếng Pháp:
arrondissement), dưới huyện có tổng, dưới tổng có xã, thôn, lý, ấp. Về
cơ bản vẫn giữ cách phân chia hành chính của triều Nguyễn. Địa bàn
thành phố Sài Gòn theo quy hoạch của Coffyn nằm trải rộng trên cả 2
huyện Bình Dương và Tân Long, đều cùng phủ Tân Bình.
Để điều chỉnh lại, ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam
Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của
thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 (nằm gọn trong khu vực quận 1 ngày
nay), đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville
de Cholon) trong một nghị định khác, với diện tích 1km2 (nằm gọn


trong quận 5 hiện nay). Giữa 2 thành phố là các thôn xã như Phú
Thạnh, Thái Bình, Tân Hòa, Phước Hưng, Nhơn Giang, Tân Kiểng, An
Bình, An Đông, Hòa Bình... vẫn thuộc 2 huyện Bình Dương và Tân Long

như cũ.
Sau khi chiếm được thêm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ, Phó Đô đốc de La
Grandière xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chính cũ của triều
Nguyễn, hủy bỏ cấp tỉnh và phủ, chia toàn cõi Nam Kỳ thành 25
arrondissement, lúc này được gọi là địa hạt hay quận thay cho các
huyện trước đây. Địa bàn của thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ
Lớn, cùng các xã thôn ở giữa đều thuộc địa hạt (hay Quận) Sài Gòn.
Trước đó, de La Grandière cũng đã ban hành nghị định số 53 ngày 4
tháng 4 năm 1867, quy định về việc "Tổ chức một ủy ban thành phố
Sài Gòn". Sau đó, ngày 8 tháng 7 năm 1869, Chuẩn đô đốc Gustave
Ohier đã ban hành nghị định số 131, cải danh Ủy hội thành phố (tiếng
Pháp: Commission municipale) thành Hội đồng thành phố (tiếng
Pháp: Conseil municipal), do một viên Thị trưởng (Maire) đứng đầu
Hội đồng và một số sửa đổi chi tiết về thành phần nhân sự của Hội
đồng.
Năm 1876, Chuẩn đô đốc Victor Auguste Duperré, Tổng chỉ huy quân
Pháp tại Nam Kỳ, ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu
vực hành chính lớn, gọi là circonscription administrative, mỗi khu vực
ấy lại gồm nhiều tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement
administratif). Sài Gòn là một trong 4 khu vực hành chính lớn và gồm
5 hạt Sài Gòn (đến năm 1885 mới đổi thành hạt Gia Định), Tây Ninh,
Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa.
Ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp Mac Mahon ra "Sắc lệnh
về tổ chức cấp thành phố của Thành phố Sài Gòn" (nguyên văn: Dercet
concernant l'organissation municipale de la Ville de Saigon), ban
hành ngày 16 tháng 5 năm 1877. Theo đó, thành phố Sài Gòn được
nâng cấp thành công xã (nguyên văn La Ville de Saigon est éigée en
commune). Thời kỳ này, địa giới của thành phố Sài Gòn đã được mở
rộng hơn: phía tây nam đến khu vực Cầu Ông Lãnh, phía đông bắc đến
khu công viên Lê Văn Tám hiện nay.

Ngày 20 tháng 10 năm 1879, thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ,
Le Myre de Vilers đã ký nghị định "thành lập một Hội đồng thành phố
Chợ Lớn" (nguyên văn: Institution d'un cóseil municipal à Cholon).


Ngày 17 tháng 12 năm 1894, một nghị định đã mở rộng địa giới
thành phố Sài Gòn về phía Bắc đến khu vực Hòa Hưng ngày nay. Diện
tích thành phố được mở rộng hơn 4km2, thuộc địa giới của quận 1 và
quận 3 ngày nay.
Năm 1899, Toàn quyền Joseph Athanase Paul Doume ra nghị định đổi
tên gọi "hạt" thành "tỉnh" (province) và chia Nam Kỳ thành 3 miền,
với 20 tỉnh và 3 thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, thành phố tự trị Cap
Saint Jacques và Côn Đảo không thuộc tỉnh nào. Thành phố Sài Gòn
nằm giữa địa giới của tỉnh Gia Định, còn thành phố Chợ Lớn nằm giữa
địa giới của tỉnh Chợ Lớn.


Đường phố Sài gòn năm 1979

Bản đồ du lịch Sài Gòn vào khoảng năm 1920.


×