Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Phân tích tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản của C. Mac và Anghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.98 KB, 36 trang )

MỤC LỤC


Chương I. Khái quát về tác phẩm
1.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Vào những năm đầu thế kỷ thứ XIX, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa
đã phát triển ở một số nước Châu Âu, trước hết là Pháp, Đức. Cùng với sự phát
triển đó, giai cấp vô sản hiện đại ra đời, đội ngủ này bắt nguồn từ những nông
dân mất đất phải rời bỏ quê hương ra thành thị tìm đường sinh sống, làm thuê
trong các công xưởng, nhà máy; với những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản,
trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên
gay gắt, và giai cấp vô sản nhanh chóng bước lên vũ đài đấu tranh chóng lại giai
cấp tư sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã nổ ra ngay từ khi mới ra
đời và dâng cao vào những năm 30 - 40 của thế kỉ XIX, tiêu biểu là những cuộc
khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837, cuộc nổi dậy
của công nhân dệt Xilêdi (Đức) năm 1844, phong trào Hiến chương ở Anh kéo
dài 10 năm (1838-1848). Nhưng các cuộc khởi nghĩa này không mang lại kết
quả gì ngoài sự tăng cường sự đàn áp của giai cấp thống trị. Cuộc đấu tranh của
giai cấp tư sản chống giai cấp tư sản chưa giành thắng lợi cuối cùng do thiếu
chính đảng lãnh đạo và thiếu lý luận tư tưởng, đòi hỏi phải có một cương lĩnh để
dẫn đường và phải có một chính đảng để lãnh đạo.
Năm 1936 “Liên đoàn những người chính nghĩa” được lập ở Pari và nhằm
đoàn kết những người vô sản để tìm ra phương hướng giải phóng gia cấp mình.
Liên đoàn phát triển rất nhanh nhưng lúc bấy giờ mới chỉ là một bộ phận Đức
của “chủ nghĩa cộng sản công nhân Pháp”. C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn dõi
theo hoạt động của Liên đoàn, mặc dù không tán thành những quan điểm chính
trị - xã hội mơ hồ và những hành động lệch lạc trong thực tế hoạt động của họ.
Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa tháng 5-1839, một số lãnh tụ của Liên đoàn bị
bắt và trục xuất sang Anh, trung tâm của Liên đoàn lúc này đã chuyển từ Pari


2


sang Luân Đôn và phát triển rất nhiều chi bộ ở cả Anh, Pháp, Đức… Liên đoàn
đã trở thành một tổ chức quốc tế.
Trước năm 1847, tuy không tham gia Liên đoàn những người cộng sản
nhưng hai ông tích cực tìm cách làm cho những quan điểm của mình về chủ
nghĩa cộng sản thâm nhập vào tổ chức đó, làm cho nó đi đúng hướng. mùa xuân
năm 1847, G.Môn - một trong những người lãnh đạo của Liên đoàn đã đến
Brucxen gặp C.Mác sau đó đến Pari gặp Ph.Ăngghen để mời hai ông gia nhập
Liên đoàn. Những người lãnh đạo Liên đoàn muốn cải tổ và cho rằng: “cần phải
đưa Liên đoàn thoát khỏi những hình thức và truyền thống hoạt động âm u cũ”.
Đến đầu tháng 6/1847 khi Ăng-ghen tham gia tích cực vào công việc của
đại hội lần thứ nhất của liên đoàn (lúc này đã đổi tên thành Liên đoàn những
người cộng sản). khẩu hiệu cũ của liên minh “tất cả mọi người đều là anh em”
được thay bằng “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Đây là sự kiện quan trọng
trong lịch sử đấu tranh nhằm thành lập một đảng vô sản. Và lúc này, Liên đoàn
của những người cộng sản cần phải có một cương lĩnh mang hình thức một bản
tuyên ngôn có tính chiến đấu của một đảng cộng sản.
Tháng 11/1847 tại đại hội lần hai của Liên đoàn C.Mác và Ph.Ăngghen
được đại hội giao cho nhiệm vụ soạn thảo cương lĩnh của Liên đoàn dưới hình
thức một tuyên ngôn. Hai ông đã hoàn thành việc biên soạn trong hơn một tháng
(1/1948), bản thảo được gởi đi Anh. Đến cuối thàng 2/1848, bản tuyên ngôn
được xuất bản lần đầu tiên tại Luôn Đôn, sau đó được tái bản nhiều lần và dịch
ra các thứ tiếng.
Bản Tuyên ngôn được ra đời không phải do Mác hay Ăng-ghen cũng không
phải do một Đảng, một tổ chức nào, mà đó là do nhu cầu khách quan của cuộc
sống hiện thực. đây là bản cương lĩnh đầu tiên cách mạng và khoa học nhất về
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Cấu trúc:

Tác phẩm gồm phần mở đầu, với 4 chương và lời tựa cho các lần tái bản.

1.2

bốn chương gồm: phần I: Tư sản và vô sản; phần II: Những người vô sản và

3


những người cộng sản; phần III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa; phần IV: Thái độ của đảng cộng sản đối với cá đảng đối lập.
1.3 Tư tưởng cơ bản của tác phẩm:
Cơ sở lịch sử chính trị là lịch sử tư tưởng trong mỗi thời đại do sản xuất
kinh tế và cơ cấu xã hội của thời đại đó quyết định. Khẳng định rằng lịch sử phát
triển của xã hội có giai cấp chính là lịch sử đấu tranh giai cấp và giai cấp vô sản
không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng xã hội; và giai cấp
vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu không tổ chức thành
chính đảng của giai cấp, đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ xứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử,
về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây
dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăng-ghen trình bày rõ
trong tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản.
1.4

Mục đích

Lời mở đầu nêu lên mục đích, nguyện vọng của những người cộng sản.
“Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn
thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn
của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.

Vì mục đích đó, những người cộng sản thuộc các dân tộc khác nhau đã họp
ở Luân Đôn và thảo ra bản "Tuyên ngôn" dưới đây, công bố bằng tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng I-ta-li-a, tiếng Phla-măng và tiếng Đan Mạch”
1.5

Nhiệm vụ
Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định rằng,

giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn
xã hội.
Có nhiệm vụ tuyên bố sự diệt vong không thể tránh khỏi và sắp xảy ra của
chế độ sở hữu tư sản hiện đại.

4


Chương II. Nội dung cơ bản của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
1 Các lời tựa
Mỗi lần tái bản Mac và Anghen đều bổ sung cho tác phẩm của mình bằng
lời tựa, bởi vì Tuyên ngôn Đảng cộng sản là tài liệu lịch sử không có quyền
chỉnh sửa.
1.1 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872
Lý do viết Tuyên ngôn: “Liên đoàn những người cộng sản, - một tổ chức
công nhân quốc tế, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, tất nhiên chỉ có thể là một tổ
chức bí mật, - đã ủy cho những người kí tên dưới đây, là đại biểu dự đại hội ở
Luân Đôn tháng Mười một 1847, khởi thảo ra một cương lĩnh của Đảng có đầy
đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn, để đưa ra công bố. Đó là
nguyên do vì đâu có bản “Tuyên ngôn” này”

1


C.Mác và Ph.Ăngghen viết cách vận dụng tuyên ngôn: “Mặc đầu hoàn cảnh
đã thay đổi nhiều trong mười lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể,
những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn
đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn”
cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những
nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không
nên quá câu nệ những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II...Và cũng
hiển nhiên là những nhận định về thái độ của người cộng sản đối với các đảng
đối lập (chương IV) nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ bản thì
trong chi tiết, những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn
thay đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra
trong đó.”

2

1.2 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Nga xuất bản năm 1882:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra, nếu Tuyên ngôn được xuất bản bằng tiếng
Nga vào đầu những năm 60 giỏi lắm chỉ là một của lạ về văn chương mà thôi,
thì tình hình ngày nay không còn như thế nữa. Bởi lẽ, “Trong cuộc cách mạng
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 661
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 662

5


1848-1849, bọn vua chúa ở châu Âu cũng hệt như giai cấp tư sản châu Âu, đều
coi sự can thiệp của nước Nga là phương tiện duy nhất để cứu thoát chúng thoát
khỏi tay giai cấp vô sản vừa mới bắt đầu giác ngộ về lực lượng của mình. Chúng
tôn Nga Hoàng làm trùm phe phản động châu Âu. Hiện nay Nga Hoàng, ở Gatsi-na, đã là tù binh của cách mạng, và nước Nga đang đi tiên phong trong phong

trào cách mạng châu Âu”

1

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ngày nay ở Nga “có nhiệm vụ tuyên bố
diệt vong không tránh khỏi và sắp xảy ra của chế độ sở hữu tư sản.”

2

Sau khi phân tích những thay đổi cơ bản của xã hội Nga, C.Mác và
Ph.Ăngghen tiên đoán tài tình rằng “nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách
mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau
thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một
3

sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa.” .
1.3 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883
Ph.Ăngghen chỉ ra, do C.Mác đã mất nên không thể nói đến việc sửa lai
hay bổ sung Tuyên ngôn nữa. Ph.Ăngghen khẳng định tư tưởng cơ bản của
Tuyên ngôn: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại
lịch sử sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất
kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ cấu của lịch sử chính trị và lịch sử tư
tưởng của thời đại ấy: do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan
rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những
giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và
những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ;
nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và
giai cấp bị áp bức (tức giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay
giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng
thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi

1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 665
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 665
3 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 666

6


những cuộc đấu tranh giai cấp.Tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn và tuyệt đối là
1

của C.Mác” .
Như vậy có thể tóm tắt tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn như
sau:
+ Cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng trong mỗi thời đại do sản
xuất kinh tế và cơ cấu xã hội của thời đại ấy quyết định
+ Lịch sử xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.
+ Giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh viễn
giải phóng cho toàn xã hội.
Và Anghen khẳng định những tư tưởng trên là “hoàn toàn và tuyệt đối là
của Mac”
1.4 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888
Anghen khẳng định:
Tuyên ngôn là cương lĩnh hành động của “Liên đoàn những người cộng
2

sản.

Sự khác nhau căn bản giữa tổ chức và lý luận của Liên đoàn những người
cộng sản với những tổ chức, những lý luận mang danh chủ nghĩa xã hội đương
thời.

Không có một thế lực nào có thể thay người lao động giải phóng cho họ mà
“việc giải phóng những người lao động phải là sự nghiệp của bản thân những
người lao động”
Ăng-ghen khằng định ông và Mác không thể gọi “tuyên ngôn đảng cộng
sản” là “tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa” được vì:
Năm 1847 người ta thường dùng từ XHCN để chỉ những người theo hệ
thống không tưởng như phái ô-oen (anh), phu-ri-ê ở pháp, là những phái thoái
hóa, bè phái. Mặt khác để gọi những tên lang băm trong xã hội.
 Những người sống ngoài phong trào công nhân và muốn dựa vào các
giai cấp có học vấn.
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 66667-668
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 669

7


Còn bộ phận công nhân do nhận thấy nếu chỉ làm những cuộc đảo lộn chính
trị thì không đủ nên tuyên bố cần phải cải tạo xã hội, tự mệnh danh là những
người cộng sản; điều này hoàn toàn theo bản năng, nhưng nó cảm thấy được cái
gì căn bản và đang tỏ ra khá mạnh trong giai cấp công nhân, nên mới sinh ra chủ
nghĩa cộng sản không tưởng.
Năm 1947, chủ nghỉa xã hội có nghĩa là 1 phong trào tư sản, còn chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào công nhân.
1.5 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1890
Ph.Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Chỉ có một vài
tiếng đáp lại chúng tôi, khi chúng tôi tung lời kêu gọi ấy với thế giới, cách đây
bốn mươi hai năm, ngay trước ngày cuộc cách mạng đầu tiên nổ ra ở Pa Ri,
trong đó giai cấp vô sản đã xuất hiện với những yêu sách của chính mình.
Nhưng ngày 28 tháng 9 năm1864, những người vô sản trong phần lớn các nước
Tây Âu đã liên hợp lại để lập ra Hiệp hội lao động quốc tế, một hội mà tên tuổi

vẻ vang được ghi nhớ mãi mãi. Thật ra bản thân Quốc tế chỉ sống có Chín năm.
Nhưng sự đoàn kết bất diệt do Quốc tế đã xây dựng được giữa những người vô
sản tất cả các nước vẫn tồn tại và càng mạnh hơn bao giờ hết. Bởi vì ngày hôm
nay, khi tôi viết những dòng này, giai cấp vô sản châu Âu và châu Mỹ đang điểm
lại lực lượng chiến đấu của mình, lực lượng lần đầu tiên được huy động thành
một đạo quân duy nhất, dưới cùng một ngọn cờ và nhằm cùng một mục đích
trước mắt là đòi pháp luật quy định ngày làm việc bình thường là tám giờ, yêu
sách đã được tuyên bố từ 1866 tại Đại hội của Quốc tế ở Giơ-ne-vơ và sau này
lại được tuyên bố lần nữa tại Đại hội công nhân ở Pa ri năm 1889. Cảnh tượng
ngày hôm nay sẽ chỉ cho bọn tư bản và bọn địa chủ tất cả các nước thấy rằng
những người vô sản tất cả các nước đã thật sự đoàn kết với nhau.”

1

1.6 Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ba Lan xuất bản năm 1892
Ph.Ăngghen chỉ ra ảnh hưởng to lớn và rộng rãi của Tuyên ngôn trong
công nhân châu Âu và sự in mới của Tuyên ngôn bằng tiếng Ba lan là bằng
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 686-687

8


chứng chứng tỏ yêu cầu ngày càng tăng sự phổ biến về Tuyên ngôn trong công
nhân công nghiệp Ba lan. Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ: “Chỉ có thể có được sự hợp
tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc châu Âu khi nào mỗi dân tộc đó là người
chủ tuyệt đối trong nhà mình... Chỉ có giai cấp vô sản Ba Lan trẻ tuổi mới có thể
giành được nền độc lập đó, và nắm trong tay họ, nền độc lập đó sẽ được bảo vệ
chắc chắn.”

1


1.7 Trong lời tựa viết cho bản tiếng I-ta-li-a xuất bản năm 1893
Ph.Ăngghen viết: “nếu cách mạng 1848 không phải là một cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa thì ít ra nó cũng dọn đường, chuẩn bị địa bàn cho cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Chế độ tư sản đã làm cho đại công nghiệp phát triển ở tất cả các
nước thì đồng thời cũng tạo ra ở khắp nơi, trong bốn mươi lăm năm gần đây,
một giai cấp vô sản đông đảo, đoàn kết chặt chẽ và mạnh; do đó nó đã sinh ra,
như Tuyên ngôn đã nói, những người đào huyệt chôn nó... Tuyên ngôn hoàn
toàn thừa nhận vai trò cách mạng mà chủ nghĩa tư bản đã đóng trong quá
khứ...Hiện nay, cũng như năm 1300, đang mở ra một kỷ nguyên lịch sử mới. Để
đời đời truyền tụng sự nảy sinh của kỷ nguyên mới này, kỷ nguyên vô sản, liệu
nước Ý có cung cấp được cho chúng ta một Đan-tơ mới chăng?”

2

Như vậy, các lời tựa không chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu tác phẩm mà
qua lời tựa Mac và Anghen đã đề cập, đến nhiều vấn đề phản ánh nhiều quan
điểm mới của các ông mà trước đó Tuyên ngôn chưa đề cập được.
2 Mở đầu
Chỉ với 26 dòng, lời mở đầu đã thể hiện tính khoa học và tính chiến đấu của
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng
định Chủ nghĩa Cộng Sản đã được tất cả các thế lực Giáo hoàng, Nga hoàng,
bọn cấp tiến Pháp, bọn cảnh sát Đức.. ở châu Âu thừa nhận là một thế lực, chứ
không còn là một bóng ma đang ám ảnh châu Âu. Do đó đã đến lúc những người
cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục
đích và ý đồ của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 691-692
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1, nhà xuất bản chính trị quốc gia,2004, tr 694-695

9



3 Chương I: Tư sản và vô sản
Ở chương này, Tuyên ngôn trình bày những quy luật cơ bản của sự phát triển xã
hội, qua đó luận chứng cho “sụp đỗ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản là tất yếu..”
3.1 Sự phát triển của xã hội loài người:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan
rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức
bóc lột và giai cấp bóc lột.
Từ những thời đại trước, chúng ta điều thấy xã hội toàn chia những đẳng cấp
khác nhau. Và xã hội tư sản hiện đại cũng vậy, nó chỉ đem những giai cấp mới,
những điều kiện áp bức mới. Từ đó cho thấy các giai cấp điều có lợi ích khác
nhau, cho bản thân giai cấp của họ, lợi ích của giai cấp này nó sẽ ảnh hưởng đến
lợi ích của giai cấp khác, và dẫn đến sự đấu tranh là tất yếu.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với
nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và hai giai cấp này có sự mâu
thuẩn rất lớn với nhau. Nội dung cơ bản của sự vận động của lịch sử xã hội hiện
đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó
đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa
cộng sản.
3.2 Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản
Giai cấp tư sản hình thành là do từ thời kỳ hậu kỳ trung đại, trong lòng xã
hội phong kiến Tây Âu đã xuất hiện mầm mống phương thức sản xuất TBCN.
Sau phát kiến địa lý phương thức sản xuất mới ngày càng phát triển dẫn đến sự
ra đời của giai cấp tư sản. “ việc tìm ra Châu Mỹ, và con đường vòng Châu Phi
đã đem lại một địa bàn hoạt động cho giai cấp tư sản mới ra đời….”
Giai cấp tư sản lên đã thay thế lối tổ chức phân công lao động lại. lấy
công trường thủ công thay đổi tổ chức củ ấy (lối tự cung tự cấp). từ đó dẫn đến
thị trường ngày càng lơn lên, nhu cầu luôn tang lên “ngay cả công trường thủ

công không thỏa mản được nữa. lúc này máy hơi nước và máy móc dẫn đến
cuộc cách mạng công nghiệp và đại công nghiệp thay cho công trường thủ công,
10


và từ đó những tầng lớp khinh danh công nghiệp tầm trung phải nhường chổ
cho các nhà công nghiệp lớn, “những kẻ cần đầu hàng loạt đạo quân công
nghiệp đây là những tên tư sản hiện đại”.
Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất là
cuộc cách mạng công nghiệp giữa thế kỷ 18-19, những công trường thủ công
được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ công trường thủ công
đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà tư sản hiện đại.
Khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một vai trò hết
sức to lớn trong lịch sử:
+ Giai cấp tư sản ra đời đã xóa bỏ các những tập quán hà khắc và sự độc
đoán xã hội cũ của phong kiến, nó cũng như một sợi dây vô hình để trói buộc
con người “Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì nó
đã đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên. Tất cả những mối
quan hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với
"những bề trên tự nhiên" của mình, đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ,
không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần
trụi và lối "tiền trao cháo múc" không tình không nghĩa. Giai cấp tư sản đã dìm
những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo, của nhiệt tình hiệp sĩ, của tính
đa cảm tiểu tư sản xuống dòng nước giá lạnh của sự tính toán ích kỷ. Nó đã biến
phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi; nó đã đem tự do buôn bán duy
nhất và vô sỉ thay cho biết bao quyền tự do đã được ban cho và đã giành được
một cách chính đáng. Tóm lại, giai cấp tư sản đã đem lại sự bóc lột công nhiên,
vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng
tôn giáo và chính trị. Giai cấp tư sản tước hết hào quang thần thánh của tất cả
những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và tôn sùng”1 .

+ Từ giữa thế kỉ 15-16 cùng với sự xuất hiện thành thị tầng lớp thị dân
ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội phá vỡ dần nền
kinh tế phong kiến (tự cung tự cấp) dẫn đến phát triển nền kinh tế hàng hải, thị
trường., nó không chỉ là đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang
1 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 704.

11


lên, mà còn tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp ở giữa thế kỷ 18-19, đã tạo điều
kiện cho khoa học kỹ thuật phát triển. Chính vì thế giai cấp tư sản lúc bấy giờ
còn tạo ra một lực lượng đồ sộ, nhiều hơn các thế hệ trước kia gọp lại. Cho thấy
sự phát triển mạnh me của giai cấp tư sản. “Giai cấp tư sản, trong quá trình
thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1 .
+Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã thẳng tay
xóa bỏ tình trạng cát cứ, phong kiến “Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục
tùng thành thị. Nó lập ra những đô thị đồ sộ; nó làm cho dân số thành thị tăng
lên phi thường so với dân số nông thôn, và do đó, nó kéo một bộ phận lớn dân
cư thoát khỏi vòng ngu muội của đời sống thôn dã” 2. Trên cơ sở đó, đưa đến sự
tập trung về kinh tế chính trị, hình thành một quốc gia dân tộc thống nhất, phục
vụ cho lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập thị trường
thế giới. Đồng thời, chúng buộc các dân tộc chậm phát triển phải du nhập cái gọi
là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn hóa thế giới. Giai cấp tư sản đã thiết lập
nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân chủ cắt xén, nhưng so với chế độ quân chủ
chuyên chế thì đó là một tiến bộ trong lịch sử.
Như vậy giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa
học- kỹ thuật. Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích của
bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong
lịch sử. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy rõ loài

người có khả năng làm được những gì “Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên
đã cho chúng ta thấy hoạt động của loài người có khả năng làm được những gì.
Nó đã tạo ra những kỳ quan khác hẳn những kim tự tháp Ai-cập, những cầu dẫn
ở nước La-mã, những nhà thờ kiểu Gô-tích; nó đã tiến hành những cuộc viễn
chinh khác hẳn những cuộc di cư của các dân tộc và những cuộc chiến tranh
thập tự”3.

1 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 707.
2 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 707.
3 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 705.

12


Đánh giá rất khách quan công lao của giai cấp tư sản đối với sự phát triển
của xã hội loài người, Tuyên ngôn cũng đã vạch ra những hạn chế của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch ra những mâu thuẩn không thể giải quyết
nổi của phương thức sản xuất này để tắt yếu dẫn đến sự hình thành của phương
thức sản xuất (Phương thức sản xuất :là một khái niệm trong học thuyết duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Marx. Nó có nghĩa nôm na là "cách thức của sản xuất")
khác:
+ Trước tiên khi hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì
giai cấp tư sản phải lấy hết tư liệu của người lao động “Giai cấp tư sản tước hết
hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng
và tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành
những người làm thuê được trả lương của nó” 1 . Như vậy giai cấp tư sản đã cột
chặt những người lao động vào các công xưởng của mình, cột chặt những thành
phần khác vào guồng máy chính trị của nó. Ở đây đồng thời với việc giải phóng
con người khỏi những ràng buộc của xã hội phong kiến, giai cấp tư sản đã cho
họ sợi xích khắc nghiệt hơn- sợi xích nối liền giữa máy móc của nhà tư bản là dạ

dày của người lao động.
+ Trong tuyên ngôn nói “Do sự phát triển của việc dùng máy móc và sự
phân công, nên lao động của người vô sản mất hết tính chất độc lập, do đó họ
mất hết hứng thú. Người công nhân trở thành một vật phụ thuộc giản đơn của
máy móc, người ta chỉ đòi hỏi người công nhân làm được một công việc đơn
giản nhất, đơn điệu nhất, dễ học nhất mà thôi. Do đó, chi phí một công nhân hầu
như chỉ là còn là số tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống và nòi giống
của anh ta mà thôi”2 từ đó cho thấy phương thức sản xuất của giai cấp tư sản nó
làm cho người lao động thụ động đi, và trở thành công cụ của máy móc, và
người lao động sẽ làm những công việc đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn làm cho
việc trả công cho người lao động rất thấp, đủ để nuôi sống mình mà thôi. Chính
vì vậy do tính chất của làm việc và mức thu nhập , đã ảnh hưởng đời sống vật
1 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 704.
2 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 708.

13


chất và tinh thần của người lao động, đã dẫn đến việc phát triển què quặt của
người lao động.
Trong tuyên ngôn có viết: “Tất cả những mối quan hệ phức tạp và muôn
màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với "những bề trên tự nhiên" của
mình, đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người
một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối "tiền trao cháo múc"
không tình không nghĩa”1 . Nói về mục đích của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa là họ không cần biết vấn đề gì, không cần đến tình nghĩa con người
với con người, họ chỉ biết một điều là lợi nhuận, nên tất cả trở thành hàng hóa,
tất cả điều có thể mua được.
Cuộc cách mạng hóa công cụ sản xuất đã giúp cho giai cấp tư sản đánh
bại chế độ phong kiến. với nền sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến không

bao giờ đánh bại giai cấp tư sản. Để duy trì sự tồn tại của giai cấp tư sản, thì giai
cấp này phải tiếp tục phát triển cuộc cach mạng hóa công cụ để phát triển lực
lượng sản xuất. Cũng chính vì thế mà làm mâu thuẫn giữa quá trình sản xuất
mang tính xã hội với chế độ sở hữu mang tính tư nhân nên khi nó đạt đến mức
độ nhất định thì, cũng như xảy ra đối với phương thức trước đây, những quan
hệ sản xuất (bao gồm các quan hệ sở hữu, các quan hệ kiểm soát và phân chia
các tài sản đã được sản xuất trong xã hội, thông thường được đưa ra trong các
hình thức của luật, lệ và các quan hệ giữa các giai cấp xã hội) không còn tương
ứng với lực lượng sản xuất (bao gồm lực lượng lao động, công cụ và thiết bị
lao động, nhà xưởng, công nghệ, nguyên vật liệu và đất đai được sử dụng.) đã
lớn mạnh nữa. Chúng trở nên cảng trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi
sự đối phó, điều chỉnh trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản không thể giải
quyết được mâu thuẩn này và tắt yếu dẫn đến diệt vong của quan hệ sở hữu tư
sản.
Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng
của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa
giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội ra làm hai phe thù
1 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 704.

14


địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản đấu tranh nảy sinh ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời.
Giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô
sản.
3.3 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là điều mà C.Mác và

Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong
lịch sử quy định.
Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát
triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hóa, suy
tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát triển của
công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong tất cả các giai cấp trong dân
cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy từng bộ phận trong giai cấp thống trị
vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản
những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa, khi đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp
tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, và do đó, đã lôi cuốn
giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp
vô sản những yếu tố tri thức chính trị phổ thông, những vũ khí mà sau này giai
cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triền khác nhau. Cuộc đấu
tranh của họ bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời:
+ Lúc đầu cuộc đấu tranh của công nhân còn mang tính riêng lẻ, do cá
nhân hay một số công dân tụ tập lại, lúc này một số công nhân tụ tập lại cùng
một xưởng làm, hay cùng một địa phương. Những cuộc đấu tranh của họ nhầm
vào quan hệ sản xuất tư bản, và cả công cụ sản xuất vì sau họ muốn nhầm vào
đó vì họ tưởng máy móc như mọt thứ bóc lột họ “Họ không phải chỉ đả kích vào
quan hệ sản xuất tư sản mà còn đánh ngay vào cả công cụ sản xuất nữa; họ phá
15


huỷ hàng ngoại hoá cạnh tranh với họ, đập phá máy móc, đốt các công xưởng và
ra sức giành lại địa vị đã mất của người thợ thủ công thời trung cổ” 1 . Giai cấp
vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi
sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường. Những người vô sản
chẳng có cái gì là của mình để bảo vệ, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ

trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư hữu
Trong giai đoạn chống phong kiến thì giai cấp vô sản cũng đấu tranh họ
đánh kẻ thù của mình, và lúc này tổ chức của họ không phải là sự kết hợp của
chính họ mà là kết quả của sự liên hiệp của giai cấp tư sản “Nếu có lúc quần
chúng công nhân tập hợp nhau lại thì đó cũng chưa phải là kết quả của sự liên
hợp của chính họ, mà là kết quả của sự liên hợp của giai cấp tư sản, nó muốn đạt
những mục đích chính trị cả nó, nên phải huy động toàn thể giai cấp vô sản và
tạm thời có khả năng huy động được như vậy”
+Sau đó sự phát triển của đại công nghiệp đã làm tăng thêm số lượng giai
cấp vô sản mà còn tậ hợp lại thành một khối lớn. Sự xung đột giữa hai giai cấp
ngày càng gây gắt, dẫn đến sự r đời của chính đảng cộng sản.
 Như vậy, quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản đi từ lẻ tẻ đến có tổ chức, từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh thuần túy về
kinh tế đến đấu tranh hướng về một lý tưởng xã hội .
Giai cấp vô sản có thể hình thành sứ mệnh của mình vì:
+ Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp trong khi
các giai cấp khác suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp, thì ngược lại giai cấp vô sản lớn mạnh hơn. Giai cấp vô sản là đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến trong nền sản xuất xã hội
+ Giai cấp công nhân khi đấu tranh là đấu tranh mưu cầu lợi ích cho khối
đại đa số, một lợi ích không chỉ riêng cho giai cấp vô sản mà còn tất cả các tầng
lớp khác nên được sự ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp khác.
+ Giai cấp vô sản là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao “Giai cấp công
nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất mang
1 C. Mác và Ph. Ăng –ghen tuyển tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2004. Tr 712.

16


tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải

tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã
tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân”1 .
Giai cấp vô sản có ý thứ chính trị vì:
+ Khi đấu tranh chống phong kiến của tầng lớp quý tộc, chồng lại các giai
cấp khác có quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp giai cấp tư sản
phải hợp tác và kêu gọi giai cấp vô sản giúp sức. chính vì thế giai cấp tư sản đã
giúp cho giai cấp vô sản có them tri thức về chính trị. Và những tri thức ấy đã
trở thành vũ khí giúp chó tư sản thắng tầng lớp quý tộc, và bây giờ chính vũ khí
ấy đã chống lại chính bản thân giai cấp tư sản.
+ Do các tầng lớp khác cạnh tranh không lại và bị phá sản, do không theo
kịp sự phát triển nền đại công nghiệp nên bị đẩy vào hàng ngũ giai cấp vô sản.
Những bộ phận này đem lại cho giai cấp vô sản những tri thức cần thiết.
+ Một bộ phận những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản do nhận thức được
quá trình vận động của lịch sử đã đứng sang hàn ngũ của người vô sản. Lực
lượng này cũng đóng góp không nhỏ vào hoạt động chính trị của giai cấp vô sản.
4 Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Phần này, tuyên ngôn đã trình bày mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai
cấp vô sản,chỉ rõ mục đích của đảng cộng sản và các vấn đề có liên quan đến
mục đích ấy.
Về mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và đảng cộng sản:
Mác – Ăng-ghen đã nêu lên mối quan hệ khắng khít giữa giai cấp vô sản
và đội tiên phong của nó, tức là đảng của giai cấp vô sản. muốn hoàn thành sứ
mệnh lịch sử loại bỏ giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới, giai cấp vô sản phải
có chính đảng của mình, phải thiết lập chính quyền chuyên chính vô sản và tiến
hành những biện pháp cách mạng.
Những người cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất, kiên quyết nhất của giai
cấp vô sản: sự ra đời của đảng cộng sản đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp
vô sản. sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản hoàn
1 Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lê nin (2010), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr. 365


17


thành sứ mệnh lịch sử của mình; đảng cộng sản luôn là một bộ phận gắn liền với
giai cấp, đó không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân
khác. Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản, mục đích của
đảng cũng chính là mục đích của giai cấp, lợi ích của đảng luôn gắn liền, thống
nhất với lợi ích giai cấp “họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của toàn thể giai cấp vô sản”1.
Đảng có tính tiên phong, tính tiên phong của đảng được tuyên ngôn nhận
định: “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong
các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào
tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ
hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”2.
Ở đây không có nghĩa là đảng cộng sản không quan tâm đến vấn đề dân
tộc. vì “trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản
ở nước mình”3 và giai cấp vô sản cũng cần phải vươn lên thành giai cấp dân tộc,
phải tự mình trở thành dân tộc” 4. Trong mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc thì:
khi “xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bốc lột dân
tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”5, “khi mà sự đối kháng các giai cấp trong nội bộ dân
tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”6.
Vậy khi giải quyết được mâu thuẫn giai cấp thì tất yếu sẽ giải quyết được
mâu thuẫn dân tộc.
Về mục đích của Đảng cộng sản:
Mục đích trước mắt của những người cộng sản, cũng như các đảng vô
sản khác đó là: “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 7, tự xây dựng thành
giai cấp thống trị. Con đường duy nhất để làm được việc này là phải sử dụng
bạo lực cách mạng.
Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mỗi cuộc cách mạng. Trong

Tuyên ngôn, Mác và Ăng-ghen chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính vô sản
1 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
2 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
3 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
4 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
5 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
6 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,
7 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận,

Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.718.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.718-719.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.611.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.612.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.684.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.684.
Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.719.

18


nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông diễn đạt một cách rõ
ràng như: “giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”, “giai cấp vô sản được tổ
chức thành giai cấp thống trị”. Điều này cũng đã được Mác và Ăng-ghen không
ngừng phát triển thành học thuyết để xây dựng chính quyền của giai cấp vô sản.
Cuộc cách mạng chính trị giành chính quyền chỉ là tiền đề để giai cấp vô sản
thực hiện cuộc cách mạng về kinh tế: xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản, thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nhà nước quản lý tất cả tư liệu
sản xuất, không còn tư liệu sản xuất nào của tư nhân cả .
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các

thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ
thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó
quan trọng nhất là công cụ lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao
động và các đối tượng lao động.
Tuyên ngôn một lần nữa chỉ rõ nguyên nhân sâu xa dẫn đến hiện tượng
người bốc lột người là nguyên nhân về kinh tế, còn nguyên nhân trực tiếp là do
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất mà “chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu
hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm
dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những
người kia”1.
Mục đích cuối cùng của những người cộng sản: xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản.
Tuyên ngôn khẳng định: “lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên
không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào
phát minh hay phát hiện ra”2. Mà “những nguyên lý ấy chỉ biểu hiện khái quát
của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự
vận động lịch sử đang diễn ra”3.
Tuyên ngôn cũng đã bác bỏ những luận điểm xuyên tạc của giai cấp tư
sản cho rằng người cộng sản chủ trương xóa bỏ sở hữu, xóa bỏ gia đình, dân tộc,

1 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.615.
2 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.719
3 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.719

19


tổ quốc, tân giáo và đạo đức; đồng thời cũng vạch trần tội ác của sở hữu tư sản
-


dẫn đến sự tha hóa trong mọi quan hệ xã hội của giai cấp tư sản.
Về vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu:
Giai cấp tư sản nói những người cộng sản muốn xóa bỏ sở hữu do cá nhân
mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân,…họ cho rằng đó là cơ sở của
mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân và khi xóa bỏ chế độ tư
hữu thì mọi hoạt động sẽ dừng lại, bệnh lười biến sẽ ngự trị. Nhưng tư bản
không phải là lực lượng cá nhân, mà là một lực lượng xã hội chỉ có thể vận động
được là do sự hoạt động chung của toàn xã hội. Trong xã hội đó, “những người
lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động” 1
và tất yếu là phải xóa bỏ được chế độ này thì giải quyết được sự đối lập trong xã

-

hội.
Về vấn đề tư do cá nhân:
Mác – Ăng-ghen khẳng định “trong xã hội tư sản, tư bản có tính độc lập và
cá tính, còn cá nhân người lao độnglại mất tính độc lập và cá tính” 2. Do đó phải
hình thành một xã hội mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều

-

kiện cho sự phát triển tư do của tất cả mọi người.
Về chế độ gia đình:
Gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân. dưới hình thái hoàn toàn
phát triển, nó chỉ tồn tại đối với giai cấ tư sản, và kèm theo đó là sự bắt buộc
phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kem theo nạn mại dâm công
khai. Tư sản đã chà đạp mối liên hệ gắn bó người vô sản với gia đình. Người
cộng sản chủ trương xóa bỏ gia đình tư sản, khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì quan
hệ gia đình tư sản cũng tiêu tan.
- Về vấn đề giáo dục:

“Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục vì nó là
cái vốn sẵn có mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra
khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi”3.
- Vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế:
1 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.723.
2 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.721.
3 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.724.

20


Dưới chế độ tư bản, người công nhân không có tổ quốc, giai cấp vô sản nắm
tất cả quyền và lợi ích của dân tộc, tổ quốc. vì vậy, giai cấp vô sản ở mỗi nước
trước hết hải giành lấy chính quyền, tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự
mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản
hiểu.
- Vấn đề tôn giáo:
Giai cấp nào thống trị xã hội thì quan điểm, ý thức tư tưởng của xã hội là của
giai cấp đó. dưới chủ nghĩa tư bản, “những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức
mà thôi”1. “Cách mạng cộng sản chủ nghỉa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với
những quan hệ sở hữ kế thừa cùa quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy
rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với
những tư tưởng kế thừa của quá khứ”2.
Tuyên ngôn cũng đã nêu lên 10 biện pháp cụ thể nhằm thủ tiêu chế độ tư
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu của toàn xã hội. mác
cũng khẳng định: “trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ
khác nhau rất nhiều”3.
Cuối phần này, Mác – Ăng-ghen đã phát thảo mô hình về xã hội cộng sản
tương lai, đó là xã hội không còn giai cấp, không còn nhà nước, một liên hiệp

của người lao động phát triển toàn diện xuất hiện, trong đó “sự phát triển tư do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 4. mô
hình này vừa hiện đại vừa nhân văn được xây dựng trên nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa và phát triển trên sự tự do của mọi người.
5 Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Khái niệm xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa:
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là “một hệ thống những quan niệm phản ánh
những nhu cầu, những ước mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị về con
1 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.727.
2 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tận, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.728.
3 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.728.
4 C.Mác và PH.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr.728.

21


đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm thực hiện một chế độ xã hội
mà ở đó, tư liệu sản xuất là thuộc về toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột.
trên cơ sở đó, mọi người đều bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, văn minh”.
Chủ nghĩa cộng sản là một cấu trúc kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị
ủng hộ việc thiết lập một xã hội phi nhà nước, không giai cấp, bình đẳng, dựa
trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói
chung.
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tập trung phân tích,
phê phán những trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản.
Mac và Anghen chia các trào lưu tư tưởng này thành ba loại:
-

Thứ nhất: Chủ nghĩa xã hội phản động, gồm chủ nghĩa xã hội phong kiến và chủ

nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội Đức hay chủ nghĩa xã hội chân chính.

-

Thứ hai: Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản.
Thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán và chủ nghĩa cộng sản không
tưởng – phê phán.
Tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản này đều là trở ngại cho việc
ra đời của chính Đảng. Tuyên ngôn phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm
thắng lợi cho việc truyền bá học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học vào
phong trào công nhân.
Tinh thần, thái độ, phương pháp phân tích, phê phán của hai ông đối với các trào
lưu văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa phi mac-xít luôn là cơ sở
khoa học giúp chúng ta phân biệt ranh giới giữa chủ nghĩa cộng sản khoa học
với các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động, phản bội, cải lương, xét lại, không
tưởng hiện nay.
5.1 Chủ nghĩa xã hội phản động
Trong chủ nghĩa xã hội phản động Mac và Anghen muốn nói đến những
trào lưu mang danh chủ nghĩa xã hội nhưng thực chất nó mang tính chất phản
động muốn kéo lùi lịch sử, chống lại phong trào cộng sản.
22


5.1.1 Chủ nghĩa xã hội phong kiến
Là thứ văn học của bọn quý tộc phong kiến bị gạt khỏi địa vị thống trị bởi
giai cấp tư sản. Chủ nghĩa xã hội phong kiến nuối tiếc, biện minh và muốn khôi
phục lại chế độ phong kiến, chế độ đã bị tư sản tiêu diệt.
Thành phần của chủ nghĩa xã hội này là tầng lớp quý tộc phong kiến và
sát cánh với nó là chủ nghĩa thầy tu (chủ nghĩa xã hội Cơ Đốc).
Tuyên ngôn chỉ ra rằng:

+ Giai cấp quí tộc phong kiến “không thể còn đấu tranh bằng chính trị
thực sự được nữa, họ chỉ có cách đấu tranh bằng văn học mà thôi.” 1 Bởi vì chế
độ phong kiến đã dần bị tiêu diệt, Mac và Anghen dẫn chứng trong cuộc cách
mạng Pháp hồi tháng 7-1830 với sự thành lập chế độ mới nền Quân chủ tháng
Bảy đã cũng cố địa vị của giai cấp tư sản, cùng với phong trào cải cách ở Anh
một lần nữa giai cấp phong kiến lại thất bại trong tay tư sản. Do vậy giờ đây họ
chỉ còn có thể phản kháng bằng ngồi bút mà thôi.
+ Tuyên ngôn chỉ ra chủ nghĩa xã hội phong kiến “Nó hoàn toàn bất lực
không thể hiểu được tiến trình của lịch sử hiện đại”2.
+ Mac và Anghen phê phán “Khi những người bênh vực chế độ phong
kiến chứng minh rằng phương thức bóc lột phong kiến không giống phương
thức bóc lột của giai cấp tư sản thì họ chỉ quên có một điều là chế độ phong kiến
bóc lột trong hoàn cảnh và những điều kiện khác hẳn và hiện đã lỗi thời. Khi họ
vạch ra rằng dưới chế độ phong kiến, không có giai cấp vô sản hiện đại thì họ
chỉ quên có một điều là giai cấp tư sản chính là một sản phẩm tất nhiên của chế
độ xã hội của họ.”3
 Điều này có nghĩa là chủ nghĩa xã hội phong kiến muốn khôi phục lại xã hội

phong kiến nhưng cả phương thức sản xuất phong kiến và phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đều là phương thức người bóc lột người. Chỉ có hòan cảnh và
điều kiện xã hội nay đã khác và chế độ phong kiến không còn phù hợp nữa. Đây
cũng chính là tính phản động của chủ nghĩa xã hội phong kiến.
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 731.
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 732.
3 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 732.

23


 Chủ nghĩa xã hội phong kiến buộc tội giai cấp tư sản nhưng giai cấp tư sản lại


chính là sản phẩm của xã hội phong kiến.
+ Văn học của họ là những thứ giả dối, những lời nói và hành động của chúng
hoàn toàn trái ngược nhau. Bọn quí tộc “làm ra vẻ không quan tâm đến lợi ích
riêng mình và lập bản cáo trạng lên án giai cấp tư sản, chỉ vì lợi ích cua giai cấp
công nhân mà thôi”1. Một mặt “giương cái bị ăn mày của kẻ vô sản lên làm cớ
để lôi kéo nhân dân theo họ”2, nhưng mặt khác chủ nghĩa xã hội phong kiến
buộc tội giai cấp tư sản đã hy sinh ra một giai cấp vô sản cách mạng, giai cấp tư
sản đảm bảo sự phát triển cho giai cấp vô sản sẽ làm nổ tung toàn bộ trật tự xã
hội cũ. “trong hoạt động chính trị, họ tích cực tham gia vào tất cả những biện
pháp bạo lực chống giai cấp công nhân” 3. Và mặc dù lên án giai cấp tư sản
nhưng họ trong thực tế lại “đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi
lấy việc buôn bán len, củ cải đường và rượu mạnh”4.
+ Mac và Anghen phê phán những lý lẽ của chủ nghĩa xã hội phong kiến chỉ
“là một mớ hỗn hợp những lời ai oán với những lời mỉa mai dư âm của dĩ vãng
và tiếng đe doạ cuả tương lai”5 “những lời hoa mỹ trống rỗng”6
+ Mac cũng chỉ ra “cũng hệt như thầy tu và chúa phong kiến luôn luôn tay
nắm tay cùng đi với nhau”7 Chủ nghĩa xã hội của Cơ đốc giáo là thứ chủ nghĩa
xã hội đi sát với chủ nghĩa xã hội phong kiến, nhưng chúng tinh vi hơn. Lý luận
chủ chủ nghĩa xã hội Cơ Đốc chẳng qua chi là thứ nước thánh mà bọn thầy tu
dùng để xức cho nỗi giận hờn của bọn quý tộc phong kiến và phủ lên chủ nghĩa
khổ hạnh một lớp sơn xã hội chủ nghĩa.
5.1.2 Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản
Thành phần: đại diện cho chủ nghĩa xã hội này là giai cấp tiểu tư sản. Mac
chỉ ra trong chủ nghĩa xã hội này gồm có “Những người thị dân và tiểu nông
1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),
3 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),
4 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),
5 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),

6 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),
7 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004),

tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 731.
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 732.
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 733.
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 733.
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 732.
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 733
tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 733.

24


thời trung cổ …tiếp tục sống lay lắt bên cạnh giai cấp tư sản thịnh vượng” 1. Còn
giai cấp tiểu tư sản “ngả nghiêng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; là bộ
phận bổ sung của xã hội tư sản, nó cứ luôn luôn được hình thành trở lại; nhưng
vì sự cạnh tranh, những cá nhân hợp thành giai cấp ấy cứ luôn luôn bị đẩy xuống
hàng ngũ của giai cấp vô sản và hơn nữa là sự phát triển tiến lên của đại công
nghiệp, họ thấy rằng đã gần như đến lúc họ sẽ hoàn toàn biến mất với tính cách
và bộ phận độc lập của xã hội hiện đại, và trong thương nghiệp, trong công
nghiệp và trong nông nghiệp, họ sẽ nhường chỗ cho những đốc công và nhân
viên làm thuê”2. Quá trình cạnh tranh luôn tước đi quyền sở hữu và đẩy những
cá nhân hợp thành giai cấp tiểu tư sản xuống hàng ngũ giai cấp vô sản. Nuối tiếc
quyền sở hữu của mình, giai cấp tiểu tư sản phê phán những ung nhọt của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tuyên ngôn viết chù nghĩa xã hội tiểu tư sản hình thành khi “nông dân
chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên đã xuất hiện những nhà văn đứng về giai cấp
vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước đo tiểu tư sản và tiểu
nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát từ những quan điểm tiểu

tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân.” Xi-xmôn-đi là đại biểu của loại
chủ nghĩa xã hội này…
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản phân tích sâu những mâu thuẫn của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, nhưng nó có tính chất không tưởng và có tính chất phản động.
Tính chất phản động tiêu biểu của nó là muốn khôi phục lại toàn bộ xã hội cũ và
đặc biệt quan trọng là quan hệ sỡ hữu cũ quan hệ gắn liền với lợi ích của giai
cấp tiểu tư sản – hoặc là muốn đem nền sản xuất đại công nghiệp đặt vào trong
khuôn khổ chật hẹp của chủ nghĩa phường hội. Không tưởng vì lịch sử không
thể đi ngược lại, điều mà giai cấp tiểu tư sản mong muốn không bao giờ có thể
trở thành hiện thực. Và về sau trào lưu này chỉ còn là những lời oán thán hèn
nhát.

1 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 734.
2 C.Mac và Ph.Ăng-ghen (2004), tuyển tập, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 734.

25


×