Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ HOÀN THIỆN kế TOÁN HOẠT ĐỘNG đầu tư tài CHÍNH THEO HÌNH THỨC góp vốn LIÊN DOANH, LIÊN kết ở các DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.01 KB, 191 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã và đang đòi hỏi
sự biến đổi về chất của hạch toán kế toán. Với tư cách là bộ phận cấu thành
của hệ công cụ quản lý kinh tế, tài chính, hạch toán kế toán không chỉ cần thiết
cho các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước mà ngày càng cần thiết cho
các nhà quản lý kinh tế, các nhà đầu tư. Vì vậy, việc đổi mới hoàn thiện
không ngừng công tác kế toán để phù hợp và đáp ứng với yêu cầu và nội dung
của quá trình đổi mới cơ chế quản lý là một vấn đề thực sự bức xúc và cần
thiết.
Cùng với sự đổi mới chung của nền kinh tế, cơ chế quản lý tài chính
cũng có những biến đổi về chất, đã mở cho doanh nghiệp quyền chủ động
trong thực hiện các hoạt động đầu tư đặc biệt là các hoạt động đầu tư ra ngoài
doanh nghiệp (đầu tư tài chính). Các hình thức đầu tư cũng hết sức phong phú
và đa dạng nhằm theo đuổi mục tiêu "tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi
ro". Trong hàng loạt các hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp đang thực hiện,
có một hoạt động ngày càng trở nên phổ biến theo xu thế chung đó là hoạt
động đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết. Đây là một hoạt động mới nảy sinh
từ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, nên trong thực tế công tác kế
toán và quản lý hoạt động này ở các doanh nghiệp còn bộc lộ những tồn tại
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, chưa thực sự hòa nhập với các chuẩn
mực và thông lệ kế toán trên thế giới. Trong bản thân chế độ kế toán, việc
hướng dẫn kế toán hoạt động này còn chưa cụ thể, gây lúng túng cho người sử
dụng. Về nghiên cứu, từ trước tới nay chưa có một đề tài nghiên cứu riêng
độc lập nào về quản lý hoạt động đầu tư tài chính nói chung và hoạt động đầu tư
tài chính theo hình thức góp vốn liên doanh, liên kết nói riêng. Từ những nhận



2

thức về tầm quan trọng của hoạt động với các nhà đầu tư và yêu cầu kiểm soát
hoạt động tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện kế toán hoạt động đầu tư tài chính
theo hình thức góp vốn liên doanh, liên kết ở các doanh nghiệp Việt Nam"
làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa, khái quát và làm rõ bản chất của hoạt động đầu tư tài
chính nói chung và đầu tư tài chính theo hình thức góp vốn liên doanh, liên
kết về cơ cấu pháp lý, vai trò của người tham gia, ảnh hưởng đến phương pháp
kế toán của hoạt động như thế nào. Đồng thời, luận án đi sâu phân tích các mô
hình kế toán cơ bản trên thế giới để từ đó thấy sự tác động của các mô hình kế
toán đến phương pháp kế toán các khoản đầu tư tài chính và đầu tư theo hình
thức liên doanh, liên kết được trình bày trong các chuẩn mực kế toán quốc tế
về đầu tư. Ngoài ra, luận án còn phân tích sự lựa chọn mô hình kế toán cho
hoạt động đầu tư tài chính và phương thức hài hòa của các quốc gia trên thế
giới để từ đó tìm ra một hướng đi cho hệ thống kế toán Việt Nam.
- Làm rõ được thực trạng kế toán hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh,
liên kết ở Việt Nam về chế độ kế toán cũng như sự vận dụng chế độ kế toán
trên thực tế.
- Học tập, tiếp thu kinh nghiệm về kế toán hoạt động đầu tư góp vốn
liên doanh, liên kết theo một số mô hình kế toán tiên tiến của các quốc gia có
nền kinh tế thị trường phát triển và các quốc gia mới chuyển sang kinh tế thị
trường nhằm rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Đưa ra giải pháp hoàn thiện kế toán hoạt động đầu tư góp vốn liên
doanh, liên kết trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu xác định như trên, luận án tập trung trình bày
phân tích các vấn đề lý luận chung về hoạt động đầu tư tài chính nói chung và
đầu tư tài chính theo hình thức góp vốn liên doanh, liên kết được đề cập đến trong



3

chuẩn mực kế toán quốc tế. Ngoài ra, do tính chất hệ thống của đề tài nghiên
cứu, luận án trình bày cả những hình thức đầu tư góp vốn liên doanh không phải
là hoạt động đầu tư tài chính như đầu tư góp vốn liên doanh theo hình thức tài
sản đồng kiểm soát và đầu tư liên doanh theo hình thức các hoạt động sản xuất
kinh doanh đồng kiểm soát. Đồng thời, luận án cũng phân tích sự lựa chọn mô
hình kế toán và phương pháp kế toán hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn
liên doanh, liên kết của một số quốc gia trên thế giới để đưa ra định hướng và rút
ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Qua kết quả khảo sát quá trình xây dựng
phương pháp kế toán hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết từ năm 1989
đến nay và khảo sát thực trạng vận dụng chế độ kế toán tại các doanh nghiệp nhà
nước có hoạt động đầu tư liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài (theo
Luật đầu tư nước ngoài) để đánh giá những thành tựu đã đạt được, những mặt
tồn tại và những nguyên nhân chính nhằm đề xuất phương hướng và giải pháp
hoàn thiện phương pháp kế toán hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh, liên
kết.
Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu là một vấn đề rất phức tạp, phạm vi nghiên
cứu rộng. Hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết mới phát sinh nên có
những hình thức chưa tồn tại ở Việt Nam. Đòi hỏi nội dung hoàn thiện công
tác kế toán bao gồm nhiều vấn đề. Song để trình bày và giải quyết các vấn đề
đưa ra một cách triệt để, luận án chỉ tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Về kế toán tài chính: Luận án chủ yếu nghiên cứu đề xuất phương án
xây dựng chuẩn mực kế toán đầu tư góp vốn với liên doanh, liên kết. Đồng thời
xây dựng, sửa đổi bổ sung chế độ kế toán hiện hành về kế toán khoản đầu tư góp
vốn liên doanh, liên kết, trong đó trọng tâm là xây dựng các tài khoản kế toán
và đề xuất các phương pháp hạch toán phù hợp với đề xuất xây dựng chuẩn mực.
- Về kế toán quản trị: Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các

luận án về kế toán quản trị trong thời gian qua, luận án chỉ đề cập đến hai nội
dung chính là thẩm định các dự án (để phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư)


4

và đánh giá hiệu quả từ đầu tư (để phục vụ cho việc ra quyết định mua, bán...
các khoản đầu tư).
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Luận án đã trình bày một cách khái quát và hệ thống hóa được
những vấn đề cơ bản về quản lý và kế toán hoạt động đầu tư tài chính theo
hình thức đầu tư góp vốn liên doanh, phương pháp kế toán hoạt động này theo
thông lệ và chuẩn mực kế toán phổ biến trên thế giới.
- Luận án đã phân tích sự ảnh hưởng của mô hình và nguyên tắc kế
toán đến việc lựa chọn phương pháp kế toán các khoản đầu tư tài chính nói
chung và đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết nói riêng. Đồng thời, luận án còn
phân tích những hoàn cảnh lựa chọn của các quốc gia, từ đó làm cơ sở đề xuất
ra những định hướng cho Việt Nam.
- Luận án đã phân tích và khái quát thực trạng kế toán hoạt động đầu
tư góp vốn liên doanh, liên kết của hệ thống kế toán Việt Nam, chỉ rõ nguyên
nhân tồn tại về công tác kế toán.
- Nghiên cứu thực tiễn công tác kế toán hoạt động đầu tư góp vốn liên
doanh của một số quốc gia để hệ thống hóa những phương pháp kế toán được
sử dụng cho kế toán các khoản đầu tư tài chính. Đặc biệt là việc vận dụng kết
quả và kinh nghiệm của các quốc gia mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu chuẩn mực kế toán quốc tế, kinh nghiệm
kế toán của một số quốc gia trên thế giới và thực tế kế toán hoạt động đầu tư
góp vốn liên doanh ở Việt Nam, luận án đã đưa ra được những quan điểm
trong xây dựng chuẩn mực kế toán khoản đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết

và giải pháp cụ thể để hoàn thiện phương pháp kế toán hoạt động đầu tư góp
vốn liên doanh trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Kết cấu của luận án


5

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 3 chương, 10 mục.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
VÀ KẾ TOÁN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
THEO HÌNH THỨC GÓP VỐN LIÊN DOANH, LIÊN KẾT

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ TÀI CHÍNH THEO HÌNH THỨC GÓP VỐN LIÊN DOANH, LIÊN KẾT

1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư liên doanh, liên kết trong
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, tính chất phức tạp của môi
trường kinh doanh hiện đại đã làm cho việc tiến hành các hoạt động kinh
doanh giữa các tổ chức kinh doanh này với các tổ chức kinh doanh khác
thông qua mối liên kết, liên doanh trở thành một chiến lược kinh doanh đúng
đắn và được áp dụng rộng rãi. Từ vài năm trở lại đây, thông tin về việc thành
lập doanh nghiệp liên doanh không còn mới lạ đối với Việt Nam, chúng diễn
ra thường xuyên như là một tất yếu của nền kinh tế.

Nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có nhiều cơ
hội để lựa chọn, song rủi ro cũng rất lớn. Để đầu tư có hiệu quả, hạn chế rủi
ro ở mức thấp, thì đầu tư liên doanh, liên kết là hình thức tương đối phổ biến,
do chúng có những ưu điểm đáng kể:
Thứ nhất: Do nhu cầu vốn đầu tư
Do nhu cầu một số lượng vốn lớn để tiến hành một hoạt động kinh
doanh mà một doanh nghiệp độc lập không có khả năng đáp ứng. Sự tập trung
vốn dẫn đến cơ hội thực hiện những hoạt động mang lại lợi nhuận nhiều hơn,
đồng thời khả năng tài chính mạnh thì rủi ro sẽ giảm bớt. Việc dịch chuyển
vốn bây giờ không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà còn có xu hướng toàn
cầu hóa, vốn thường xuyên dịch chuyển đến những nơi có điều kiện kinh
doanh thuận lợi. Cho nên ở các nước đang phát triển hoạt động đầu tư liên


7

doanh, liên kết chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và hoạt động này
đã đem lại những hiệu quả rõ rệt là thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ hai: Do sự cần thiết hợp tác về chuyên môn tay nghề, công nghệ
và các nguồn lực kinh doanh khác
Một doanh nghiệp khi có dự án kinh doanh hấp dẫn nhưng đó là một
ngành nghề chưa từng kinh doanh, chưa có hiểu biết về chuyên môn cũng có thể
độc lập tiến hành công việc nhưng hiệu quả sẽ không cao. Trong lúc cố gắng tự
phát triển và tìm kiếm các nguồn lực kinh doanh, chi phí bỏ ra có thể lớn hơn
rất nhiều so với việc họ chia sẻ lợi ích tiềm tàng thu được trong kinh doanh
với một hay nhiều doanh nghiệp khác, sẵn sàng cung cấp chuyên môn, tay
nghề và các nguồn lực kinh doanh. Việc chia sẻ lợi ích trong kinh doanh sẽ
giúp họ đạt tới thành công nhanh hơn. Chuyên môn, tay nghề, những bí quyết
công nghệ là điều kiện cơ bản để thực hiện một hoạt động SXKD, nhất là
trong lĩnh vực mới. Sự hợp tác với nhau để tạo ra lợi ích tối đa cho các nhà

đầu tư là những điều mà họ muốn đạt tới. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản
xuất hàng công nghiệp không có hoạt động bán lẻ muốn phát triển một sản
phẩm chỉ phù hợp cho việc tiêu thụ thông qua một tổ chức phân phối bán lẻ,
có thể quan tâm tới việc thành lập liên doanh hoặc liên kết với một doanh
nghiệp đã thiết lập được hoạt động bán lẻ để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm
đó. Ngoài ra, điều này đặc biệt có ý nghĩa ở các nước đang phát triển. Ví dụ: ở
Việt Nam hoạt động liên doanh rất phát triển trong những lĩnh vực công nghiệp
mới và mũi nhọn như: dầu khí, bưu chính viễn thông, luyện kim, điện tử, ôtô...
Việc tham gia liên doanh ngoài vấn đề thu hút vốn đầu tư còn là việc sử dụng
chuyên môn, tay nghề... của đối tác để phát triển. Cho nên chỉ trong thời gian
ngắn các ngành công nghiệp này đã phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc.
Đồng thời đội ngũ nhân viên, công nhân kỹ thuật, kỹ sư... cũng nhanh chóng
nắm bắt được những công nghệ mới và đã có thể tự mình điều hành được hoạt
động sản xuất kinh doanh.


8

Thứ ba: Do sự gia tăng các rủi ro trong nền kinh tế thị trường phát triển
Rủi ro trong kinh doanh luôn luôn tiềm ẩn trong bất cứ một hoạt động
đầu tư nào, kể cả các khoản đầu tư được đánh giá là chắc chắn cũng không thể
tránh khỏi rủi ro. Tuy nhiên, một doanh nghiệp khi có cơ hội kinh doanh có
khả năng thu lợi nhuận cao, và rủi ro được đánh giá là thấp thì sẽ tìm mọi
cách để tự mình độc lập thực hiện mà không nghĩ đến việc chia sẻ lợi ích cho
doanh nghiệp khác. Nhưng khi cơ hội kinh doanh có khả năng thu lợi nhuận
cao và rủi ro được đánh giá là cao, thì họ cũng ít khi liều lĩnh độc lập thực
hiện và việc liên doanh, liên kết để chia sẻ là điều tất yếu. Bởi vì, liên doanh
ngoài việc chia sẻ lợi ích thì việc chia sẻ rủi ro cũng là một vấn đề quan trọng,
khi có nhiều thành viên tham gia thì vấn đề trở nên đơn giản hơn. Rủi ro được
chia sẻ cho nhiều người sẽ có lợi hơn khi một người gánh chịu.

Thứ tư: Động cơ ngăn chặn cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường
Việc tham gia liên doanh, liên kết với nhiều thành viên, thì các thành
viên sẽ tránh được cuộc cạnh tranh lẫn nhau và tránh được bên thứ ba xâm
nhập thị trường. Ngoài ra, việc cạnh tranh cũng giảm bớt qua việc chia sẻ thị
trường và cùng tham gia hoạt động marketing.
Thứ năm: Việc tạo vốn cho hoạt động kinh doanh nhờ việc trình bày
không đầy đủ các khoản nợ trong bảng cân đối kế toán.
Khi xem xét báo cáo tài chính của các bên liên doanh, liên kết thì phần
lớn các bên liên doanh lập các báo cáo tài chính trên cơ sở sử dụng phương
pháp "giá phí" hoặc phương pháp "vốn cổ phần". Theo phương pháp này thì
khoản đầu tư ban đầu được ghi theo giá phí và được thông báo như một khoản
mục tài sản một chiều trong bảng cân đối kế toán của bên liên doanh. Vì thế số
nợ của liên doanh sẽ không bị tính trong bảng cân đối kế toán của các thành
viên. Tuy nhiên, để liên doanh có thể dành được tín dụng thương mại và các
khoản tiền vay của các tổ chức tín dụng, thì bên liên doanh thường đứng ra đảm
bảo, có thể cả bằng vật đảm bảo có giá trị trong các hợp đồng này. Điều này cho


9

thấy nghĩa vụ của bên liên doanh đối với việc thực hiện cam kết các khoản nợ của
liên doanh. Nhưng vì khoản nợ của liên doanh không xuất hiện trong bảng cân
đối kế toán của một thành viên lại cải thiện địa vị tài chính của thành viên đó,
làm cho thông tin trong báo cáo tài chính rất có lợi cho bên liên doanh đồng
thời liên doanh lại có số vốn hoạt động từ các khoản nợ, mà số nợ này không
có bảo đảm của liên doanh không hợp nhất. Ở các nước khác nhau thì luật pháp
quy định về vấn đề này cũng khác nhau. Chẳng hạn, ở Mỹ thì "Ủy ban trao đổi
chứng khoán - SEC" có những quy tắc để hạn chế số lượng vốn được tạo ra từ
bảng cân đối kế toán không đầy đủ. Ngoài việc giới hạn lượng vốn, còn phải
công bố số tài sản và số nợ cũng như các thông tin về số vốn hoạt động của các

tổ chức không hợp nhất. Việc thông báo các thông tin này cũng cho phép người
đọc các báo cáo tài chính đánh giá được tổng số nợ có liên quan đến các hoạt
động kinh doanh riêng, cũng như các hoạt động kinh doanh thống nhất của bên
liên doanh.
Tóm lại, một doanh nghiệp khi quyết định tự mình tiến hành hoạt
động kinh doanh hay tiến hành thông qua mối liên doanh, liên kết với một tổ
chức khác, thì doanh nghiệp đó phải xác định và đánh giá đầy đủ khả năng
chuyên môn, tay nghề, khả năng tài chính và các nguồn vốn của công ty cần liên
doanh, liên kết. Đồng thời đánh giá các điểm yếu có liên quan tới khả năng tự
doanh nghiệp đó tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu khi điểm yếu
được đánh giá quá cao thì rủi ro khi tự mình tiến hành kinh doanh sẽ rất lớn, nên
việc tham gia liên doanh, liên kết là điều tất yếu. Tuy nhiên cũng có nhiều doanh
nghiệp không tham gia vào hoạt động liên doanh, bởi vì có thể họ là những
địch thủ cạnh tranh, hoặc họ không thích chia sẻ các bí mật thương mại và các
thông tin độc quyền hoặc họ không thích chia sẻ quyền ra quyết định trong
kinh doanh... Nên liên doanh, liên kết không phải dành cho tất cả mọi nhà đầu
tư.
1.1.2. Yêu cầu quản lý các hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư
theo hình thức góp vốn liên doanh, liên kết trong điều kiện hiện nay


10

1.1.2.1. Các hình thức đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính có thể hiểu một cách chung nhất trong chuẩn mực kế
toán quốc tế là một tài sản do một doanh nghiệp nắm giữ để làm tăng tài sản của
mình nhờ các khoản lợi tức, tiền bản quyền, cổ tức và tiền thuê, làm tăng vốn
đầu tư hoặc thu những lợi ích khác cho doanh nghiệp đầu tư như những lợi ích
thu được từ quan hệ thương mại nhưng không phải là tài sản tồn kho, tài sản máy
móc thiết bị [13]... Đầu tư tài chính là những khoản đầu tư ra bên ngoài doanh

nghiệp vào thị trường vốn, chứ không phải là các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong chức năng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp bỏ tiền ra để nắm giữ các công
cụ tài chính với mục đích kiểm soát nguồn lực kinh doanh ở một doanh nghiệp
khác hoặc để sinh lợi. Tuy nhiên các tài sản đầu tư tài chính có nhiều hình thức
khác nhau và mục đích nắm giữ các tài sản của nhà đầu tư cũng khác nhau, nên
việc phân biệt các khoản đầu tư là cần thiết. Tiêu chuẩn đầu tiên để phân biệt các
khoản đầu tư là thời gian đầu tư, bởi vì thời gian đầu tư sẽ ảnh hưởng đến tính
chất tài sản mà nhà đầu tư nắm giữ và từ đó ảnh hưởng tới phương pháp trình bày
tài sản đó trên báo cáo tài chính. Theo thời gian đầu tư, đầu tư tài chính được phân
chia như sau:

Tài
sản
đầu tư
tài
chính

Tài sản
đầu tư
tài
chính
ngắn
hạn

Tài sản
đầu tư
tài
chính
dài hạn


- Chứng khoán trao đổi trên thị
trường
- Các khoản cho vay ngắn hạn.
- Các khoản ứng trước có sinh lợi
- Các tài sản dự trữ vàng, đá
- Chứng khoán trao đổi.
- Các khoản cho vay hoặc ứng
trước.
- Các khoản đầu tư vào công ty
liên kết.
- Các khoản đầu tư vào liên
doanh: Các cơ sở kinh doanh


11

Đầu tư
góp
vốn
liên
doanh

Hoạt động SXKD được đồng kiểm
soát
Tài sản được đồng kiểm soát

Sơ đồđầu
1.1. tư
Phân
loại các

khoản
tư tàikhoản
chínhđầu tư có thể
Các khoản
tài chính
ngắn
hạnđầu
là những
thực hiện dễ dàng và dự tính được nắm giữ không quá 1 năm. Thông thường
các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn được xếp là một khoản mục tương đương
tiền vì chúng dễ dàng chuyển đổi thành tiền và luôn tồn tại một thị trường để
trao đổi các khoản đầu tư này (thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán).
Đồng thời doanh nghiệp không có ý định giữ chúng với thời gian lâu dài, vì
chúng được dùng cho mục đích thương mại hoặc lưu trữ tạm thời các nguồn
tiền mặt dư thừa. Các tài sản đầu tư được nắm giữ thường bao gồm chứng
khoán có thể trao đổi trên thị trường (tín phiếu kho bạc, trái phiếu, các cổ
phiếu...), các khoản cho vay với thời gian ngắn hạn, các khoản ứng trước có
sinh lời, hoặc hàng hóa tiêu dùng vàng, đá quý...
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn là những khoản đầu tư nắm giữ
với thời gian trên một năm để kiểm soát một cơ sở kinh doanh khác, nhằm
mục đích để sinh lời hoặc không phải là khoản đầu tư ngắn hạn.
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn được xếp vào khoản mục thuộc tài
sản cố định, do đó ảnh hưởng của thông tin về các khoản đầu tư này đối với
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ khác với các khoản đầu tư tài chính
ngắn hạn. Thông thường, tác động của chúng sẽ ảnh hưởng nhiều đến hiện
trạng tài chính của doanh nghiệp (vì mức độ rủi ro lớn), nên cần phải trình
bày trên báo cáo tài chính sự tác động này để cho người sử dụng thông tin có
thể biết được thực trạng kinh tế của các tài sản đầu tư.
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn bao gồm:



12

* Chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường với thời gian nắm giữ
trên một năm để nhận lãi suất, cổ tức... mà không phải với mục đích kiểm soát
người được đầu tư.
* Các khoản cho vay dài hạn để sinh lợi và các khoản ứng trước với
thời gian trên một năm được hưởng lãi như ký quỹ, ký cược dài hạn...
* Các khoản đầu tư thương mại như đầu tư vàng, đá quý, các công
trình nghệ thuật...
* Các khoản đầu tư vào công ty liên kết (hoặc doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng đáng kể) hoạt động dưới sự kiểm soát dài hạn. Công ty liên kết là một
doanh nghiệp trong đó nhà đầu tư có ảnh hưởng đáng kể nhưng không phải là
công ty con hay liên doanh của nhà đầu tư đó [11]. Sự ảnh hưởng đáng kể
được xác định là quyền tham gia vào các quyết định về chính sách tài chính
hay hoạt động của bên đầu tư nhưng không kiểm soát chính sách đó.
* Các khoản đầu tư vào một liên doanh hoạt động dưới sự kiểm soát dài
hạn và nghiêm ngặt. Liên doanh là hình thức hợp đồng hợp tác liên doanh
theo đó hai hoặc nhiều bên cùng kiểm soát và tiến hành một hoạt động kinh tế
[11]. Điều đó có thể hiểu, đây là một sự thỏa thuận cộng tác giữa hai bên hay
nhiều tổ chức riêng lẻ vừa là hợp tác vừa sử dụng vốn chung nhằm thực hiện các
mục tiêu mà từng bên đã nhất trí. Đặc trưng nổi bật của liên doanh so với các
hình thức đầu tư khác là mối quan hệ giữa các thành viên liên doanh bị chi phối
bởi một hiệp định (hợp đồng), thường bằng văn bản để thiết lập quyền kiểm soát
chung (hay đồng kiểm soát). Các bên tham gia liên doanh được xem là những
nhà đầu tư đích danh, họ có quyền đồng kiểm soát liên doanh. Đồng kiểm
soát là việc cùng nhau phân quyền kiểm soát đối với một hoạt động kinh tế
trên cơ sở hợp đồng [11, tr. 1]. Quyền được kiểm soát này cho thấy các quyết
định thuộc mọi lĩnh vực cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu của liên doanh
đều phải có sự ủy thác của các thành viên. Không một thành viên cá biệt nào



13

được quyền đơn phương điều hành liên doanh. Thành viên trong liên doanh
có hai loại:
- Thành viên - bên góp vốn liên doanh: là bên tham gia vào liên doanh
và có quyền đồng kiểm soát với liên doanh đó.
- Thành viên - nhà đầu tư: là bên đầu tư vào liên doanh nhưng không
có quyền đồng kiểm soát liên doanh đó.
Đặc trưng về quyền kiểm soát chung này giúp cho việc phân biệt giữa
đầu tư vào liên doanh với những khoản đầu tư tài chính khác như đầu tư
chứng khoán hoặc góp vốn vào doanh nghiệp chịu ảnh hưởng đáng kể, hoặc
những khoản đầu tư ở công ty con. Trong phạm vi luận án này sẽ đi sâu
nghiên cứu phân tích những vấn đề cơ bản có liên quan đến hoạt động đầu tư
tài chính dài hạn theo hình thức góp vốn liên doanh, liên kết ở bên góp vốn.
1.1.2.2. Hình thức và cơ cấu pháp lý của các đơn vị liên doanh, liên
kết và yêu cầu quản lý vốn góp liên doanh, liên kết
Một vấn đề trọng yếu trong kế hoạch của một công ty chuẩn bị tham
gia liên doanh, liên kết là việc lựa chọn hình thức và cơ cấu pháp lý hữu hiệu
để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Cơ cấu của liên doanh, liên kết có thể
gây ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến các hoạt động tài chính, pháp lý,
thuế đối với các thành viên của chúng. Khi một hình thức liên doanh, liên kết
được lựa chọn thì bên góp vốn phải kiểm tra rõ ràng và dự đoán được các ảnh
hưởng tiềm tàng của hình thức được chọn, đối với các vấn đề thuế, trách
nhiệm quản lý, khả năng tài chính trước các nghĩa vụ của liên doanh của từng
thành viên. Hình thái và cơ cấu pháp lý của liên doanh, liên kết được trình bày
trong chuẩn mực kế toán quốc tế số 28 (IAS28) và số 31 (IAS31).
Chuẩn mực kế toán quốc tế 28 đề cập đến khoản đầu tư vào công ty
liên kết.



14

Công ty liên kết tồn tại là một pháp nhân độc lập với nhà đầu tư, là
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng đáng kể, nhưng không chịu sự kiểm soát của
nhà đầu tư. Nhà đầu tư góp vốn vào công ty liên kết, hoặc mua cổ phần trong
công ty liên kết ở mức có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến công ty liên kết.
Về quản lý tài chính: Sự ảnh hưởng đáng kể sẽ được xác định khi nhà
đầu tư sở hữu từ 20% - 50% cổ phần thông thường có quyền bỏ phiếu của người
sử dụng đầu tư. Song tỷ lệ 20% không phải là tuyệt đối, do đó ngoài tỷ lệ sở hữu
của nhà đầu tư người ta còn xem xét một số điều kiện để xác định sự ảnh hưởng
đáng kể, sự ảnh hưởng được xem là đáng kể khi nhà đầu tư có các quyền sau:
- Sự có mặt của nhà đầu tư trong ban giám đốc điều hành hoặc tương
đương ban giám đốc.
- Nhà đầu tư được tham gia vào quá trình lập các chính sách kinh doanh.
- Giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp được đầu tư có sự trao đổi các
nhân viên chủ chốt và lãnh đạo.
- Giữa hai bên có tồn tại những giao dịch kinh doanh quan trọng.
- Nhà đầu tư có thể cung cấp cho doanh nghiệp được đầu tư các thông
tin kỹ thuật cơ bản và các bí quyết công nghệ...
Đặc trưng cơ bản:
- Công ty liên kết là một pháp nhân độc lập.
- Nhà đầu tư sở hữu công ty liên kết thông qua cổ phần sở hữu của nhà
đầu tư trong công ty liên kết.
- Nhà đầu tư được quyền tham gia vào các quyết định về chính sách
hoạt động và chính sách tài chính trong công ty liên kết.
- Lợi ích của nhà đầu tư trong công ty liên kết xác định theo tỷ lệ sở
hữu của nhà đầu tư.



15

Với các đặc trưng cơ bản này, khoản đầu tư vào công ty liên kết thỏa
mãn điều kiện một tài sản đầu tư tài chính dài hạn. Việc quản lý vốn trong
công ty liên kết sẽ được quản lý như một khoản đầu tư tài chính dài hạn.
Chuẩn mực kế toán quốc tế số 31 (IAS31) đề cập khoản đầu tư vào
liên doanh với ba hình thức liên doanh phổ biến sau:
* Các hoạt động sản xuất kinh doanh được đồng kiểm soát
Hình thức liên doanh này được thực hiện trên cơ sở các thành viên tham
gia cùng nhau ký kết một hợp đồng để cùng thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh chung, mỗi bên sẽ được phân chia thực hiện một phần trong hoạt động
chung đó nhưng không thành lập một pháp nhân mới. Liên doanh tồn tại giống
như một hiệp hội. Chẳng hạn, như việc sản xuất và tiêu thụ một chiếc máy
bay, các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất do mỗi bên liên doanh
đảm nhiệm, mỗi bên tự trang trải các chi phí phát sinh trong giai đoạn công
nghệ của mình và nhận được thu nhập từ việc bán máy bay theo thỏa thuận
được phân chia theo hợp đồng liên doanh (ví dụ: Europian Consortion
Airbus).
Về quản lý tài chính: Đối với từng thành viên tham gia bộ phận liên
doanh này không tách thành một cơ cấu tài chính riêng mà thống nhất trong
cơ cấu tài chính của thành viên. Mỗi bên liên doanh sẽ sử dụng tài sản, vốn
riêng để thực hiện hoạt động kinh doanh được phân chia. Điều đó có nghĩa là
từng thành viên trong liên doanh có quyền và nghĩa vụ trong phạm vi hoạt
động sản xuất kinh doanh được phân chia kiểm soát trong liên doanh. Hoạt
động của liên doanh được thực hiện do nhân viên các bên tham gia trực tiếp
điều hành, và có thể tiến hành song song với các hoạt động sản xuất kinh
doanh khác của từng thành viên.
Hình thức liên doanh này có đặc trưng cơ bản:
- Liên doanh nhưng không thành lập một pháp nhân mới.



16

- Được sử dụng tài sản, các nguồn vốn khác của các đối tác liên doanh.
- Cam kết chia sẻ các khoản nợ và chi phí của các đối tác liên doanh.
- Trong hợp đồng thỏa thuận rõ thể thức phân chia quyền lợi và nghĩa
vụ của các đối tác liên doanh.
Với các đặc trưng cơ bản này, khi liên doanh được thành lập các bên góp
vốn không phải chuyển vốn, tài sản của mình vào liên doanh, toàn bộ vốn góp là
bộ phận tài chính của bên tham gia, nhưng phải được quản lý riêng biệt và phục
vụ cho hoạt động kinh doanh của liên doanh. Vốn đầu tư không phải chuyển ra
bên ngoài doanh nghiệp, lượng vốn này doanh nghiệp vẫn điều hành và kiểm
soát để phục vụ các hoạt động kinh doanh được phân chia trong hợp đồng liên
doanh. Điều đó cho thấy liên doanh theo hình thức hoạt động SXKD đồng
kiểm soát không thỏa mãn điều kiện của một tài sản đầu tư tài chính, thực
chất đây là việc đầu tư vào hoạt động SXKD trong chức năng của doanh
nghiệp.
* Tài sản được các bên liên doanh cùng tham gia kiểm soát
Hình thức liên doanh này được thiết lập trên cơ sở hợp đồng chung
quyền kiểm soát và quyền sở hữu đối với một hoặc nhiều tài sản được góp,
hoặc tài sản do liên doanh mua để phục vụ cho các mục đích của liên doanh.
Loại tài sản này được sử dụng để mang lại lợi nhuận cho các bên liên
doanh. Mỗi bên liên doanh sẽ được nhận lãi hoặc sản phẩm thu được từ việc
sử dụng tài sản và chia phần chi phí phát sinh theo thỏa thuận ghi trong hợp
đồng. Hình thức liên doanh này không đòi hỏi phải thành lập một pháp nhân
riêng, liên doanh hoạt động dưới tư cách pháp nhân của một trong các bên
tham gia góp vốn, không nhất thiết phải có bộ máy điều hành chung mà từng
bên thông qua quyền kiểm soát sẽ điều hành sử dụng tài sản phục vụ cho lợi
ích của mình. Hình thức liên doanh này thường được sử dụng trong công nghệ

dầu mỏ, hơi đốt và khai khoáng. Chẳng hạn, nhiều công ty sản xuất dầu khí


17

cùng tiến hành liên doanh và điều khiển một đường ống dẫn dầu, mỗi bên liên
doanh sẽ sử dụng đường ống dẫn dầu để vận chuyển sản phẩm của mình.
Trong trường hợp nhận vận chuyển dầu cho người thứ ba thì thu nhập từ
khoản dịch vụ này sẽ phân chia cho các đối tác trong liên doanh. Đồng thời
theo thỏa thuận trong hợp đồng các bên trong liên doanh phải gánh chịu một
phần chi phí chung để vận hành đường ống.
Về quản lý tài chính: Tuy khác với hình thức liên doanh các hoạt động
sản xuất kinh doanh được đồng kiểm soát về hình thức nhưng cơ cấu pháp lý
giống nhau, do vậy việc quản lý vốn góp cũng không có sự khác biệt lắm,
mặc dù khi tham gia vào liên doanh bên liên doanh phải chuyển tài sản hoặc
tiền vào liên doanh, song đây vẫn không phải là hoạt động đầu tư tài chính mà
nó vẫn mang tính chất là đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi bên
liên doanh sẽ xác định phần tài sản là vốn góp tính theo tỷ lệ và được phân
loại theo tính chất của tài sản. Chẳng hạn, trong ví dụ trên đường ống dẫn dầu
được coi là khoản mục máy móc thiết bị chứ không phải là khoản mục đầu tư.
Để có được tài sản này bên liên doanh có thể phải huy động từ một khoản
vay, thì khoản vay này bên liên doanh phải có nghĩa vụ và đó là khoản nợ của
bên liên doanh. Ngoài ra để có được tài sản mà liên doanh phải vay nợ thì
khoản nợ này chia sẻ cho các bên tham gia liên doanh theo tỷ lệ góp vốn.
Các đặc trưng cơ bản của hình thức liên doanh này:
- Không thành lập pháp nhân mới.
- Chung quyền sở hữu và kiểm soát tài sản của liên doanh.
- Chia sẻ lợi ích và chi phí theo thỏa thuận giữa các đối tác liên doanh.
Hình thức liên doanh tài sản đồng kiểm soát cũng không thỏa mãn
điều kiện một tài sản đầu tư tài chính, giống như hình thức hoạt động SXKD

đồng kiểm soát, đây là hoạt động SXKD trong chức năng của doanh nghiệp.


18

* Các cơ sở kinh doanh do nhiều bên đồng kiểm soát.
Cơ sở kinh doanh do nhiều bên đồng kiểm soát (công ty liên doanh),
là một liên doanh đòi hỏi thành lập một pháp nhân mới, trong đó mỗi bên đều
có tham gia phần vốn góp của mình. Ví dụ: Công ty liên doanh ôtô Hòa Bình
được thành lập trên cơ sở liên doanh giữa nhà máy cơ khí ôtô Hòa Bình và
các đối tác đầu tư nước ngoài.
Về quản lý tài chính: Liên doanh là một cơ cấu tài chính tách biệt ra
khỏi các bên liên doanh và hoạt động độc lập như một pháp nhân kinh doanh
mới. Công ty liên doanh sẽ kiểm soát tài sản liên doanh, gánh chịu các khoản
nợ, chi phí và thực hiện thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Liên
doanh sử dụng pháp nhân riêng của mình trong các hợp đồng và tạo nguồn tài
chính phục vụ cho các mục đích của hoạt động kinh doanh của liên doanh.
Thường thì các cơ sở kinh doanh này tồn tại dưới dạng công ty trách nhiệm
hữu hạn hay một công ty hợp danh, và phải tuân thủ quy chế pháp lý của từng
hình thức mà liên doanh tồn tại. Mỗi bên liên doanh sẽ đồng kiểm soát liên
doanh trên cơ sở vốn góp, đồng thời số vốn góp này được coi như một tài sản
đầu tư tài chính dài hạn. Việc góp vốn của bên liên doanh có thể bằng:
- Tiền.
- Hiện vật: máy móc thiết bị, nhà xưởng, hàng tồn kho...
Khi tài sản đã góp vào công ty liên doanh thì nó không còn là sở hữu
của các bên liên doanh nữa mà thuộc sở hữu của công ty liên doanh. Nhưng
các bên liên doanh sẽ sở hữu công ty liên doanh theo số vốn được đánh giá
bằng giá trị tài sản được góp vào liên doanh. Giá trị vốn góp sẽ xác định
quyền được hưởng kết quả kinh doanh hoặc phân chia sản phẩm của liên doanh.
Đặc trưng cơ bản của loại hình liên doanh này là:

- Tồn tại một pháp nhân riêng biệt - Công ty liên doanh.


19

- Vốn của liên doanh sẽ được sở hữu bởi các bên liên doanh.
- Hoạt động độc lập như mọi tổ chức kinh tế khác có tài sản, nợ, thu
nhập và chi phí riêng biệt.
- Phân chia kết quả, sản phẩm giữa các bên liên doanh theo tỷ lệ vốn góp.
Hình thức liên doanh này thỏa mãn điều kiện của một tài sản đầu tư tài
chính, các bên liên doanh sẽ quản lý vốn góp như là một khoản đầu tư tài chính
dài hạn thông qua quyền kiểm soát được xác định trên cơ sở hợp đồng.
1.2. CÁC MÔ HÌNH KẾ TOÁN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC KẾ TOÁN CƠ
BẢN - SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN KẾ TOÁN CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ TÀI CHÍNH

1.2.1. Các mô hình kế toán cơ bản
Khoa học kế toán ngày nay đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ.
Do kế toán không phải là một khoa học tự nhiên mà kế toán là một khoa học
xã hội, nên không có những khuôn mẫu và quan điểm chung bắt buộc cho tất
cả các quốc gia trên thế giới. Tùy thuộc vào hệ thống kinh tế xã hội của từng
quốc gia mà kế toán có các mục đích khác nhau. Qua nghiên cứu lịch sử thực
hành kế toán của các nước khác nhau, người ta đã đưa ra 6 mô hình kế toán
cơ bản, đó là:
- Kế toán quỹ (kế toán tiền mặt).
- Kế toán tĩnh (kế toán tài sản).
- Kế toán động (kế toán kinh tế vi mô).
- Kế toán thuế.
- Kế toán vĩ mô.
- Kế toán hiện tại hóa.

1.2.1.1. Kế toán quỹ (kế toán tiền mặt)


20

Nguồn gốc của kế toán quỹ là mô hình kế toán "VENISE" (kế toán
các chuyến hàng đường biển theo từng nghiệp vụ riêng biệt). Với mô hình kế
toán này, tài sản được đánh giá bằng tiền tương ứng với một hoạt động đầu tư
nào đó, trong quá trình kế toán chỉ ghi nhận luồng tiền vào và luồng tiền ra có
liên quan tới hoạt động đầu tư ở thời điểm phát sinh. Kết quả hoạt động đầu
tư được đánh giá khi hoạt động đầu tư kết thúc trên cơ sở xác định phần chênh
lệch giữa luồng tiền thu được từ hoạt động và luồng tiền chi cho hoạt động mà
không xác định theo kỳ kinh doanh. Với cách ghi nhận này, thu nhập và chi
phí được ghi nhận theo luồng tiền thu chi thực tế. Tuy nhiên mô hình kế toán
tiền mặt trong kế toán hiện đại trở nên không thực tế vì không thể xác định
quy mô của vốn chủ sở hữu trong trường hợp các khoản vốn góp bằng hiện
vật, không thể xác định được kết quả theo định kỳ, không thể cung cấp được
thông tin về các khoản nợ. Ngày nay do tính chất phức tạp của các hoạt động
kinh tế, đa số các quốc gia lựa chọn kế toán theo thu nhập và chi phí trên cơ
sở yêu cầu của nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Theo quan
điểm nguồn chi phí và thu nhập không ghi nhận theo tiền mặt mà ghi nhận
theo kỳ phát sinh, trên nguyên tắc chi phí nào tạo ra doanh thu đó, ghi nhận
chi phí không đồng nghĩa với chi tiêu, mà ghi nhận khi nó thực sự tạo ra thu
nhập trong kỳ. Quan điểm hạch toán này đã khắc phục được tất cả những hạn
chế của kế toán Quỹ, và có thể cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh
một cách đầy đủ hơn.
1.2.1.2. Kế toán tĩnh
Mô hình kế toán Tĩnh ra đời thế kỷ 13 - 14. Khi có sự phá sản của các
nhà buôn, các chuyên gia pháp lý phải đưa ra các điều luật để xét xem một
đơn vị kinh doanh khi nào sẽ không có khả năng trả nợ. Do đó mục tiêu của

kế toán tĩnh là nhằm đánh giá xem ở tại một thời điểm nào đó việc thanh lý
các tài sản có cho phép trả các khoản nợ không.
Nguyên tắc kế toán cơ bản của mô hình kế toán Tĩnh là: Giả định tài
sản sẽ bị thanh lý định kỳ. Với nguyên tắc này, định kỳ kế toán tiến hành


21

kiểm kê tài sản, đánh giá tài sản theo giá thị trường (giá trị thanh lý định kỳ)
để xác định giá trị tài sản ròng và sau đó trình bày trên báo cáo tài chính hiện
trạng này.
Giá trị tài sản ròng = Giá trị thị trường tài sản - Nợ phải trả
Tài sản được trình bày trong báo cáo tài chính phải là những tài sản
thuộc quyền sở hữu của đơn vị kinh doanh. Nguồn vốn chủ sở hữu sẽ được
ghi nhận theo vốn đã đăng ký.
Trong mô hình kế toán tĩnh không hạch toán các tài sản vô hình vì
chúng không có khả năng xác định giá trị thị trường một cách độc lập mà
chúng thường gắn liền với tài sản hữu hình.
Đặc trưng cơ bản của mô hình kế toán tĩnh là kế toán tài sản để xác
định sản nghiệp thực tế của một đơn vị kinh doanh, do đó có thể đánh giá ngay
khả năng thanh toán nợ và khả năng tiếp tục hoạt động của đơn vị kinh doanh.
Mô hình kế toán tĩnh ra đời trong hoàn cảnh nguồn tài chính của các
nhà đầu tư được cung cấp chủ yếu từ các chủ nợ (ngân hàng, người cho
vay...), đồng thời theo luật La Mã lợi nhuận sẽ được phân chia hết khi kết
thúc thương vụ mà không có tích lũy. Do đó phải có một mô hình kế toán
hướng theo lợi ích của các chủ nợ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ nợ.
Đến ngày nay mô hình kế toán này còn tồn tại phổ biến ở những nền kinh tế
mà cách điều tiết nền kinh tế dựa vào hệ thống ngân hàng [28].
1.2.1.3. Kế toán động (kế toán kinh tế vi mô)
Mục tiêu của kế toán động là đánh giá hiệu quả của một đơn vị kinh

doanh (hay đánh giá hiệu quả một khoản vốn đã đầu tư). Nguyên tắc của kế
toán động là: đánh giá thường xuyên lợi nhuận sinh ra từ những nguồn vốn
đầu tư trong một đơn vị kinh doanh trong khuôn khổ hoạt động của đơn vị
kinh doanh đó. Kế toán động giả định rằng đơn vị kinh doanh là một thực thể
hoạt động kinh doanh liên tục. Để xác định được lợi nhuận sinh ra của nguồn
vốn đầu tư thì phải xác định được chi phí đầu tư và thu nhập nhận được từ quá


22

trình đầu tư đó. Trong mô hình kế toán động, nguyên tắc đánh giá tài sản
được sử dụng là nguyên tắc giá phí. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi khi
tài sản còn đang trong quá trình đầu tư thì sẽ được đánh giá theo giá phí (giá
mua hoặc giá thành sản xuất). Việc đánh giá theo giá phí sẽ chỉ bị ngừng lại
khi tài sản đó được bán theo giá thị trường. Từ đó lợi nhuận sẽ được tính khi
so sánh ở giai đoạn đầu tư và giai đoạn bán - hiệu quả của quá trình đầu tư.
Khi trình bày trên báo cáo tài chính, các tài sản được đánh giá theo giá phí
đầu tư, các tài sản này là nguồn lực mang lại thu nhập cho đơn vị kinh doanh
không nhất thiết phải là các tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Các tài sản
có thể tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình nhưng phải được xác định
bằng lượng vốn đầu tư đã tham gia vào cơ hội kinh doanh của đơn vị.
Đặc trưng cơ bản của mô hình kế toán động là ghi nhận thường xuyên
sự biến động của tài sản, nguồn vốn và các chi phí phát sinh trong quá trình
hoạt động của đơn vị kinh doanh phù hợp với thu nhập đem lại cho đơn vị
kinh doanh khi sử dụng các nguồn vốn đầu tư đó. Kế toán động cho phép
đánh giá hiệu quả của nguồn vốn đầu tư, từ đó có thể thu hút vốn tham gia
vào các cơ hội đầu tư có hiệu quả. Mô hình kế toán động ra đời cùng với chủ
nghĩa tư bản công nghiệp. Đây là thời kỳ các nhà tư bản cần phải có nguồn tư
bản lớn để phục vụ cho các mục đích đầu tư, hay là thời kỳ phát triển một thị
trường đặc biệt - thị trường vốn. Hoạt động của thị trường vốn đòi hỏi thông

tin về mức độ hiệu quả của vốn đầu tư nhằm tới mục đích tích tụ vốn để thực
hiện các cơ hội đầu tư. Do đó, kế toán động là một công cụ quan trọng của thị
trường vốn và quan điểm của kế toán động được áp dụng khá phổ biến hiện
nay trong kế toán chính thống của những quốc gia mà cách điều tiết nền kinh
tế chủ yếu dựa vào thị trường vốn (hay thị trường chứng khoán) [22].
1.2.1.4. Kế toán thuế


23

Trước chiến tranh thế giới thứ 2, giữa kế toán và thuế không có quan
điểm tách biệt. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các cơ quan
thuế đã chủ trương đưa ra các quy định áp dụng vào kế toán động, do đó các
quy định của kế toán động luôn là cơ sở khai báo thuế. Sau chiến tranh thế
giới thứ 2, dưới sự ảnh hưởng của học thuyết KEYNE, đã xuất hiện những
quy định đánh giá về thuế hoàn toàn khác với các quy định của kế toán động.
Từ đó trên thế giới xuất hiện hai trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa
kế toán và thuế.
Quan điểm 1: Tách biệt hoàn toàn mối liên hệ giữa kế toán và thuế.
Quan điểm này được phổ biến ở các nước mà thị trường chứng khoán
giữ vai trò quan trọng trong việc huy động vốn. Kế toán chính thống theo mô
hình kế toán động, thì kế toán thuế và kế toán chính thống là hai mô hình
khác nhau. Kế toán thuế tuân theo các quy định của luật thuế, kế toán chính
thống tuân theo các nguyên tắc cơ bản của kế toán động và các quy định của
luật thuế khác với các nguyên tắc cơ bản của kế toán.
Quan điểm 2: Liên kết mối quan hệ giữa kế toán và thuế.
Quan điểm này được phổ biến ở các nước mà thị trường chứng khoán
chỉ giữ một vai trò thứ yếu trong tài trợ vốn cho các doanh nghiệp. Kế toán
chính thống có thể trở thành kế toán thuế, các quy định kế toán động được
thay thế bởi các quy định thuế, do đó kế toán động trở thành kế toán bí mật,

phi pháp quy và không liên quan tới kế toán chính thống.
Đặc trưng cơ bản của kế toán thuế là dựa trên cơ sở các quy định của
luật thuế chứ không phản ánh theo thực trạng kinh tế của hoạt động kinh
doanh, không đánh giá một cách chân thực hiệu quả của quá trình đầu tư, làm
cơ sở cho việc huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu
hiện nay thì mô hình kế toán này không phải là mô hình được đa số các quốc
gia trên thế giới chấp nhận [28].


24

1.2.1.5. Kế toán kinh tế vĩ mô
Mô hình kế toán kinh tế vĩ mô là mô hình kế toán phục vụ cho nhà
nước nhằm tính toán các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của kinh tế như tổng sản phẩm
quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội... trên cơ sở các giá trị gia tăng được sản
xuất ra. Tuy nhiên kế toán doanh nghiệp của đa số các quốc gia ít chịu ảnh
hưởng của mô hình kế toán kinh tế vĩ mô, chỉ trừ kế toán tổng quát của Cộng
hòa Pháp (Luật thuế GTGT chi phối chặt chẽ đến kế toán doanh nghiệp) cho
nên các quan điểm kế toán vĩ mô ít ảnh hưởng tới việc trình bày thông tin trên
báo cáo tài chính của đơn vị kinh doanh [28].
1.2.1.6. Kế toán hiện tại hóa
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, xuất hiện
một hiện tượng tương đối phổ biến đó là sát nhập, chia tách, hoặc thay đổi sở
hữu các đơn vị kinh tế. Để thực hiện được các hoạt động này thì một vấn đề
quan trọng đặt ra là phải định giá được doanh nghiệp. Quan điểm kế toán
động và kế toán tĩnh không cho phép xác định giá trị bán lại (toàn bộ) của một
doanh nghiệp. Kế toán hiện tại hóa cho phép so sánh các giá trị hiện tại hóa
của một doanh nghiệp ở những thời điểm khác nhau. Giá trị hiện tại hóa là
tổng số các dòng thu tiền thuần đã hiện tại hóa phát sinh từ vốn đầu tư.
Giá trị hiện tại hóa được xác định:

N=

Pi
R

(1)

Trong đó: N: Giá trị hiện tại hóa
Pi: Dòng thu tiền thuần của đơn vị kinh doanh i.
R : Tỷ suất P trung bình của ngành kinh doanh.
Pi = Vi x Ri

(2)

Vi: Vốn đầu tư của đơn vị kinh doanh i.


25

Ri: Tỷ suất P của đơn vị kinh doanh i.
Hay giá trị hiện tại hóa là giá trị nguồn vốn mà các dòng tiền thuần là
thu nhập được trả với tỷ suất sinh lời trung bình trên thị trường.
Tuy nhiên, việc doanh nghiệp áp dụng mô hình kế toán động hay kế
toán tĩnh không làm cho giá trị doanh nghiệp mất chính xác mà mỗi loại mô
hình kế toán sẽ cung cấp thông tin đặc thù. Mục đích của kế toán hiện tại hóa
không phải chỉ để bán doanh nghiệp mà còn nhằm xác định giá trị của doanh
nghiệp tại các thời điểm khác nhau, từ đó đánh giá được mức độ tăng trưởng
của doanh nghiệp trong mối tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác
cùng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh đang hoạt động [28].
1.2.2. Các nguyên tắc kế toán cơ bản

Các mô hình và hệ thống kế toán khác nhau đều sử dụng các nguyên
tắc kế toán chung được thừa nhận. Tuy nhiên việc vận dụng các nguyên
tắc này phụ thuộc vào từng mô hình kế toán, đồng thời mỗi nguyên tắc chi
phối hệ thống kế toán ở từng góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ vấn đề
nghiên cứu, luận án chỉ trình bày hai nguyên tắc được xem là có ảnh hưởng
nhất tới kế toán các khoản đầu tư tài chính là nguyên tắc thận trọng và nguyên
tắc phù hợp.
1.2.2.1. Nguyên tắc thận trọng
Nguyên tắc thận trọng là một nguyên tắc được đa số các quy định kế
toán và hệ thống kế toán của các quốc gia trên thế giới vận dụng. Tuy nhiên
việc sử dụng nguyên tắc này lại theo quan điểm riêng của từng nền kinh tế, do
đó nguyên tắc thận trọng mang nặng tính chủ quan.
Thận trọng trong khuôn khổ kế toán tĩnh:
Theo quan điểm kế toán tĩnh, nguyên tắc thận trọng thường tương ứng
với việc áp dụng nguyên tắc đánh giá theo giá thị trường nhằm xem xét tại


×