Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TIẾP tục đổi mới QUẢN lý các DOANH NGHIỆP KHAI THÁC CÔNG TRÌNH THỦY lợi TRÊN địa bàn TỈNH THANH hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.8 KB, 95 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN hoạt động kinh
doanh là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận, còn
DNNN hoạt động công ích là doanh nghiệp hoạt động sản xuất cung ứng
dịch vụ hàng hoá công cộng theo chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng.
Doanh nghiệp khai thác CTTL (Gọi tắt là DNTN) là loại hình doanh
nghiệp đặc thù khác biệt so với loại hình doanh nghiệp khác như: về sản
phẩm, hình thái vật chất, giá trị và giá cả của nó. Khi nền kinh tế nước ta
chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì hoạt động của loại doanh
nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là do các hệ thống
chính sách quản lý được hình thành từ thời bao cấp. Gần đây Nhà nước đã
ban hành một số chính sách và cơ chế hoạt động cho loại hình doanh nghiệp
này và xếp vào loại hình DNNN hoạt động công ích tuy đã giảm bớt phần
khó khăn song vẫn chưa thoát khỏi cơ chế "xin cho", phần lớn vẫn còn lung
túng, mất cân đối về mặt tài chính, thu không đủ chi (do thu thủy lợi phí thấp
) gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đe doạ đến an toàn CTTL.
Để hoạt động thủy nông cùng với công tác thủy lợi nói chung góp
phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là
trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên
tai, thực hiện được mục tiêu của chương trình an ninh lương thực quốc gia
v.v... Các DNTN cần phải được củng cố và tiếp tục đổi mới hoàn thiện.
Thanh hoá là một Tỉnh đất rộng người đông, có điều kiện địa lý tự
nhiên phức tạp, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Các DNTN trong tỉnh đã

1




có nhiều đóng góp quan trọng trong nền kinh tế đó, để ổn định phát triển
kinh tế xã hội được bền vững dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân
Tỉnh, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh hoá đã và đang quan
tâm nhiều đến công tác thủy lợi nói chung và công tác thủy nông nói riêng,
kết quả những năm gần đây tuy đã mang lại hiệu quả rõ rệt phục vụ tốt cho
mặt trận nông nghiệp, công nghiệp đời sống dân sinh và môi trường sinh thái
trên địa bàn song so với nhu cầu phát triển còn đòi hỏi cao hơn. Trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ các DNTN trên địa bàn Tỉnh Thanh hoá cũng nằm
trong tình trạng chung của các DNTN nói chung là vẫn gặp khó khăn vướng
mắc từ khâu tổ chức quản lý đến cơ chế chính sách tài chính, vấn đề tiếp tục
đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý thủy nông là hết sức cần thiết và cấp bách
hiện nay. Do đó tôi chọn đề tài : "Tiếp tục đổi mới quản lý các doanh nghiệp
khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh hoá" làm đề tài luận
án thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành quản lý kinh tế nhằm đáp ứng những đòi
hỏi cụ thể mà thực tiễn đang đặt ra trong lĩnh vực thủy nông ở tỉnh Thanh
hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến nay, trên lĩnh vực quản lý khai thác CTTL ở nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành với nhiều nội dung và cách tiếp cận khác nhau. Riêng ở Thanh Hóa,
chưa có một công trình nào nghiên cứu mang tính hệ thống dưới dạng luận
án khoa học về quản lý thủy nông.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tham khảo, kế thừa có chọn lọc những ý
tưởng của các công trình đã được công bố, kết hợp với quá trình nghiên cứu,
khảo sát thực tiễn từ đó đề xuất ý kiến riêng của mình trên lĩnh vực quản lý
thủy nông nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục tiêu: Nhằm góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn

về quản lý thủy nông, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức
sản xuất, hệ thống chính sách và cơ chế hoạt động nhằm khắc phục các tồn

2


tại vướng mắc hiện nay để nâng cao hiệu quả quản lý thủy nông góp phần
đắc lực vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thanh
hoá.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích vai trò, đặc điểm của các DNTN chỉ ra những nét đặc thù
của loại hình doanh nghiệp này.
+ Phân tích đánh giá hiện trạng, rút ra được những kết quả đạt được,

những tồn tại còn vướng mắc và các nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý

các doanh nghiệp thủy nông trên địa bàn Thanh hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các DNTN trên địa bàn Thanh hoá.
- Số liệu nghiên cứu được lấy trong 3 năm gần đây: 1997, 1998, 1999.
- Có tham khảo một số tài liệu khác trong nước và nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ phân tích đánh giá tổng kết thực tiễn rút ra những vấn đề có tính lý
luận và quan điểm chung, gắn lý luận với thực tiễn, đồng thời vận dụng tổng
hợp các phương pháp thống kê so sánh với hệ thống báo biểu phục vụ cho
mục đích kinh tế.
6. Những đóng góp của luận án:
- Góp phần vào việc bổ xung hoàn thiện cơ chế tổ chức, hoạt động của
các DNTN.

- Làm tài liệu nghiên cứu và giúp cho cán bộ quản lý trong lĩnh vực
thủy nông một số cơ sở lý luận và nhận biến để nâng cao năng lực tổ chức
quản lý và điều hành trong doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế cao hơn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương 9 tiết.

3


- Chương 1: Yêu cầu khách quan tiếp tục yêu cầu quản lý doanh
nghiệp thủy nông ở nước ta hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thủy
nông trên địa bàn tỉnh Thanh hoá.
- Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới
quản lý các doanh nghiệp thủy nông

4


Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP THỦY NÔNG Ở NƯỚC TA.

1.1. Doanh nghiệp thủy nông - một doanh nghiệp Nhà nước đặc thù.
Doanh nghiệp thủy nông ở nước ta chủ yếu là DNNN, nó có vai trò và
đặc điểm của DNNN nói chung và có tính đặc thù riêng, là một loại hình
doanh nghiệp công ích, vừa phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước, trước hết là nông nghiệp, vừa phục vụ mục tiêu xã hội, dân sinh và bảo
vệ môi trường sinh thái. Do đó để nghiên cứu đổi mới quản lý DNTN cần

phải nghiên cứu vấn đề DNNN nói chung, từ đó làm cơ sở cho lý luận nghiên
cứu vai trò, đặc điểm, yêu cầu và nội dung quản lý DNTN.
1.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế
quốc dân nước ta.
DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hoặc
một phần. Quyền sở hữu thuộc về Nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất để phân
biện DNNN với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế và trong khu vực tư
nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát trong một chừng mực nào đó của
Chính phủ bao gồm cả sự lãnh đạo, chỉ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động
kinh doanh của DNNN.
* Vai trò của DNNN trong nền kinh tế.
Sự ra đời của khu vực DNNN ở các nước trên thế giới từ những lý do
khác nhau, song đều bắt nguồn từ nhu cầu tự nhiên của nền kinh tế với
những mục đích khác nhau như khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh
tế thị trường, bù đắp những thiếu hụt của khu vực kinh tế tư nhân... Nói cách
khác khu vực DNNN có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho Nhà nước
thực hiện các chức năng như: điều chỉnh thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô,
phát triển kinh tế - xã hội.

5


Có thể khái quát khu vực DNNN có các vai trò sau:
+ Vai trò kinh tế:
- Ở các nước phát triển, DNNN được sử dụng như là một phương tiện
để Chính phủ tác động và thực hiện những mục tiêu kinh tế mà khu vực tư
nhân không thể hoặc không muốn thực hiện, hoặc DNNN như là một cách để
ngăn ngừa sự độc quyền của khu vực tư nhân đối với những lĩnh vực dễ ảnh
hưởng chung đến lợi ích xã hội. Mặt khác, các DNNN ở những nước phát
triển cũng được lập ra để kiểm soát những khu vực có tầm quan trọng chiến

lược như các ngành công nghiệp quốc phòng, khai thác mỏ hoặc một số
ngành công nghiệp mũi nhọn khác.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), ở các quốc gia phát
triển, DNNN thường chiếm khoảng 10% GDP.
- Ở các nước đang phát triển, Chính phủ thành lập các DNNN để tạo
lập kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ công cộng. Tuy nhiên, khác với các
quốc gia phát triển, vì đi sau muốn tiến nhanh, đuổi kịp các nước tiên tiến,
Chính phủ các nước đang phát triển thường dựa nhiều hơn vào các DNNN,
xem chúng như là những công cụ chủ yếu để tăng trưởng nền kinh tế.
- Đối với các nước quá độ lên CNXH. Để thực hiện chiến lược tăng tốc
rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN, Nhà nước đã lựa
chọn giải pháp xây dựng và phát triển các DNNN và được coi như điều kiện
tiên quyết của sự phát triển đất nước. Sự lựa chọn này không phải mang
tính chủ quan, mà có đòi hỏi sự tất yếu của bản thân nền kinh tế.Điều đó
được quy định bởi hai ưu thế tuyệt đối của các DNNN ở thời kỳ quá độ
của sự phát triển:
Thứ nhất là: ưu thế về quy mô tập trung sản xuất, nhờ đó có ưu thế về
khả năng huy động vốn và khả năng tham gia vào thị trường thế giới.

6


Thứ hai là: Với sức mạnh dựa vào quy mô tập trung sản xuất kinh
doanh các DNNN có ưu thế trong việc chuyển giao công nghệ hiện đại. Điều
này đồng thời làm cho các doanh nghiệp trở thành đối t ác chính với các nhà
đầu tư nước ngoài. Các ưu thế của DNNN có thể quy về những điểm chính:
tập trung vốn, tập trung sản xuất, chuyển giao công nghệ và hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Những ưu thế này khiến cho DNNN trở thành một yếu tố
quyết định con đường phát triển với chiến lược tăng tốc và rút ngắn khoảng
thời gian quá độ lên CNXH.

Mặt khác, trong quan hệ với cơ chế điều tiết của Nhà nước, DNNN có
một vai trò đặc biệt. Đối với những nền kinh tế đang trong bước chuyển sang
nền kinh tế phát triển, hệ thống doanh nghiệp nói chung còn kém phát triển,
đặc biệt là khu vực tư nhân còn bé nhỏ thì DNNN với quy mô lớn, trình độ
công nghệ cao... là một công cụ trực tiếp có tính quyết định trong việc phân
bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Do đó các DNNN có vai trò đặc biệt
trong việc làm thay đổi cơ cấu sản xuất xã hội và định hướng cho sự phát
triển của nền kinh tế. Khu vực DNNN ở các nước này trở thành công cụ trực
tiếp để Chính phủ tham gia quyết định những vấn đề trong nền kinh tế thị
trường. Đó là việc DNNN có thể tham gia khắc phục trạng thái độc quyền tự
nhiên, những tác động hướng ngoại tiêu cực phát sinh trong nền kinh tế thị
trường. Đồng thời DNNN là một công cụ quan trọng lấp vào những chỗ trống
mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm bởi lợi nhuận thấp hoặc không có
khả năng làm. Đó là những trường hợp cung cấp hàng hoá và dịch vụ công
cộng, đầu tư vào những lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ đòi hỏi vốn đầu tư lớn,
công nghệ cao, thời gian thu hồi vốn dài, và hiệu quả thấp nhưng có ý nghĩa
quyết định đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với sự phát triển bền vững
lâu dài của nền kinh tế. Có thể nói, DNNN có vai trò đặc biệt trong việc đầu
tư vào những ngành quyết định cho sự phát triển dài hạn và hiệu quả chung
của nền kinh tế.

7


+ Vai trò chính trị.
Đối với các nước quá độ lên CNXH, DNNN có ý nghĩa chính trị đặc
biệt. Nó là bộ phận định hướng về mặt kinh tế và là công cụ thực hiện chính
sách theo định hướng XHCN. Thực vậy ở nước ta hệ thống DNNN cung cấp
cho Nhà nước một cơ sở kinh tế để Nhà nước trở thành một lực lượng chi
phối trực tiếp đối với bộ phận kinh tế tư nhân. Thêm vào đó, ở giai đoạn đầu

của tiến trình phát triển, DNNN là bộ phận tạo thành nền tảng của nền kinh
tế. Nó cung cấp nguồn lực chính, chủ yếu cho hoạt động của Nhà nước, như
đóng góp cho ngân sách Nhà nước, đồng thời là công cụ trực tiếp hữu hiệu để
thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng XHCN và thực hiện những mục tiêu
kinh tế, xã hội do Đảng Cộng sản và Chính phủ đề ra. Đối với an ninh quốc
gia, các DNNN ngoài việc tham gia trong việc tăng cường bố phòng ở các
vùng chiến lược, trong việc gắn phát triển kinh tế với quốc phòng, DNNN
đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt trong việc cung cấp những hàng hoá, dịch vụ
cho các hoạt động quốc phòng, mà trong điều kiện một nước chậm phát triển,
tư nhân không thể làm được hoặc không được phép làm, hoặc không muốn
làm vì không có mức lợi nhuận hấp dẫn.
+ Vai trò xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, đã là doanh nghiệp dù của Chính phủ
hay của tư nhân, đều chịu sự chi phối của quy luật thị trường. Để tồn tại và
phát triển, doanh nghiệp phải tạo ra được lợi nhuận. Nhưng hoạt động của
kinh tế thị trường có những khuyết tật gây hiệu ứng xã hội. Đó là, trong giai
đoạn khủng hoảng, lợi nhuận giảm đáng kể, nhiều doanh nghiệp rút khỏi
kinh doanh, tạo ra thất nghiệp lớn. Để điều tiết nền kinh tế thoát ra khỏi
khủng hoảng, những chính sách kinh tế vĩ mô chiếm vị trí quyết định. Tuy
nhiên, ở đây DNNN với tính cách là một công cụ trực tiếp cũng có vai trò xã
hội nhất định. Một mặt nó góp phần đẩy kinh tế qua thời kỳ khủng hoảng

8


nhưng mặt khác, mặt quan trọng là mặt xã hội, nó tạo ra công ăn việc làm
giúp cho xã hội giữ được trạng thái ổn định.
- Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giầu nghèo là không tránh
khỏi. Một trong những nguồn gốc của quá trình này là tập trung hoá, hiện đại
hoá và kết quả là giải phóng lao động, gây nên nạn thất nghiệp. Nhưng tập

trung hoá, mở rộng quy mô, thúc đẩy công nghệ kỹ thuật tiến bộ là tất yếu
của quá trình theo đuổi tăng lợi nhuận, vì thế không thể cản trở được quá
trình này. Để tạo ra nhiều việc làm thì phải tạo ra những doanh nghiệp sử
dụng những lao động. Đây là chỗ Nhà nước cần can thiệp, bằng DNNN sử
dụng nhiều lao động, Nhà nước có thể giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo
công ăn việc làm và tăng thu nhập, do đó giảm sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Trong một quốc gia, có những vùng xa xôi hẻo lánh, trình độ phát
triển thấp, dân cư ở những vùng này phải chịu nhiều thiệt thòi vì sự phát
triển mất cân đối. Để cải thiện những vùng này, vấn đề là phải có chính sách
đầu tư và những cơ sở việc làm ở đây. Cũng nhờ có những DNNN mới đủ
điều kiện để thực hiện những chương trình dự án cải thiện những vùng kém
phát triển của đất nước.
- Xã hội phát triển, hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng tăng. Nhưng
hàng hoá và dịch vụ công cộng này sẽ tăng phúc lợi lên đáng kể. Ở đây, phúc
lợi công cộng cũng tức là tăng mức độ công bằng. Đối với những nước chậm
phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ, phân tán, thì DNNN có vai trò
quyết định đối với việc sản xuất hàng công cộng.
Tuy nhiên các DNNN sẽ thực hiện sự phát huy mạnh hơn vai trò của
chúng khi hiệu quả SXKD ngày càng được nâng cao, nhất là trong môi
trường kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động và yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của DNNN trong nền kinh tế nước ta hiện nay.

9


Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ nhất: DNNN phải hướng tới rất nhiều mục tiêu thiếu rõ ràng, đôi
khi mâu thuẫn nhau, chẳng hạn mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Chủ sở
hữu muốn các DNNN phải đạt được hiệu quả kinh doanh cao, đủ sức cạnh

tranh trong nền kinh tế thị trường, song phải chịu áp lực lớn về lực lượng lao
động quá đông.
Thứ hai: Những người quản lý DNNN bị hạn chế tính chủ động, tính
linh hoạt trong đối phó với những điều kiện thayđổi của thị trường so với
những đồng nghiệp của họ trong các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân.
Thứ ba: thiếu động lực kích thích, cả với người quản lý lẫn với người
lao động. Cụ thể là thu nhập, thưởng đối với nhà quản lý và người lao động
được khống chế ở mức thấp so với các doanh nghiệp cùng loại thuộc thành
phần kinh tế khác.
Thứ tư: hoạt động theo kế hoạch Nhà nước, DNNN buộc phải thoả
mãn những yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi phải đáp ứng các tiêu
chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do Chính phủ yêu cầu. Các DNNN cũng
có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó, hoặc
từ những nguồn cung cấp trong nước nào đó. Các DNNN cũng có thể phải
đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia, phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện
những mục tiêu xã hội.
Mặt khác có thể nói DNNN được sử dụng như một công cụ điều tiết
của Chính phủ, vừa làm chức năng chính trị và xã hội, vừa đảm bảo cho nền
kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã hội phát triển công bằng và ổn định.
Thứ năm: hầu hết các DNNN hoạt động trên một "sân chơi" thiếu bình
đẳng, sòng phẳng. Điều đó được thể hiện trên các mặt: được Nhà nước bảo
hộ nhiều hơn, các kênh vốn, tín dụng thuận lợi hơn và "mềm" hơn, hầu như
DNNN rất ít bị phá sản thực sự.

10


Thứ sáu: các DNNN thuộc các lĩnh vực thiết yếu, quan trọng nhất của
nền kinh tế. Đó là lĩnh vực sau:
- Những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, cung cấp hàng hoá và dịch vụ

công cộng như giao thông vận tải, đường sá, cầu cống, bưu chính viễn
thông... là những ngành rất cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế.
- Những ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi vốn lớn, tỷ lệ sinh lời thấp
như: luyện thép, năng lượng, chế tạo, hoá chất, đóng tàu, khai thác tài
nguyên thiên nhiên... là những ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của mọi quốc gia.
- Những ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi vốn lớn, trình độ công nghệ
cao như: năng lượng, nguyên tử, chế tạo máy bay, hàng không vũ trụ, điện
tử... là những ngành có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa
học - kỹ thuật - công nghệ của quốc gia.
Thứ bảy: ở một số quốc gia nhất là các nước XHCN, DNNN cung cấp
các hàng hoá dịch vụ thiết yếu nhất cho đời sống xã hội dân sinh, như y tế,
giáo dục, các dịch vụ công cộng khác.
Thứ tám: DNNN thường kinh doanh kém hiệu quả. Đặc điểm chung
của khu vực DNNN trên thế giới thường là kinh doanh kém hiệu quả hơn
doanh nghiệp của khu vực tư nhân. Nhất là từ cuối những năm 70, đầu những
năm 80, hoạt động kém hiệu quả của các DNNN nổi lên là vấn đề quan tâm
của mọi quốc gia.
* Yêu cầu khách quan nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
DNNN ở nước ta.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần
thứ VIII đề ra mục tiêu phát triển là "giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước
rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh

11


thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn
diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000. Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững
đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau"
[14].
Để thực hiện mục tiêu trên, trong điều kiện một nền kinh tế thị trường
còn kém phát triển như ở nước ta, khi mà khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ bé
và yếu kém, khu vực DNNN hiện nay đang chiếm tỷ lệ rất lớn về vốn cố
định, về giá trị sản lượng và số lượng các doanh nghiệp quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
DNNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng, điều đó thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: DNNN có hiệu quả cao là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển mở
rộng SXKD của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng với hiệu quả thấp thì
hậu quả trước hết là sự đe doạ đối với chính doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp
không có khả năng tích luỹ, khả năng tái sản xuất mở rộng, khả năng nâng
cao trình độ công nghệ, nói cách khác, không nâng cao được sức cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Do đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN có tác
động rất lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Các
DNNN thuộc lĩnh vực và ngành trên đây nâng cao được hiệu quả sẽ trực tiếp
góp phần tăng hiệu quả nền kinh tế, nhờ đó tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế
quốc dân.

12


Ba là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN để

làm đòi bẩy, giá đỡ cho nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN là công cụ của
Nhà nước huy động tập trung vốn vào những lĩnh vực mang tính chiến lược
của nền kinh tế, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận công nghệ
hiện đại, tiếp nhận trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo cơ sở cho các
ngành kinh tế khác phát triển.
Bốn là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện để các
DNNN mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện
nước ta, đầu tư của nước ngoài là một tác nhân quan trọng cho phát triển
kinh tế. Do đó đòi hỏi các DNNN phải hoạt động có hiệu quả để trở thành đối
tác chính thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Năm là: Hệ thống DNNN hoạt động có hiệu quả và có sức mạnh giúp
Nhà nước chủ động trực tiếp tác động vào các quá trình kinh tế xã hội, nhanh
chóng tạo ra sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Sáu là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN tạo điều
kiện tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước để giải quyết các vấn đề chính
sách xã hội.
Bẩy là: Nhờ có khu vực DNNN đủ mạnh và có hiệu quả, Nhà nước có
thể tăng cường được khả năng phản ứng nhanh trước các biến đổi và biến
động của nền kinh tế quốc gia cũng như tác động không thuận chiều của nền
kinh tế thế giới.
1.2. Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp thủy nông
1.2.1. Vai trò của doanh nghiệp thủy nông:
DNTN thuộc hệ thống DNNN hoạt động công ích cung ứng dịch vụ
hàng hoá công cộng, khai thác cơ sở kinh tế kỹ thuật hạ tầng phục vụ kinh tế

13



- xã hội dân sinh, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động theo
phương thức hạch toán kinh tế, được Nhà nước hỗ trợ về mặt tài chính, có
nhiệm vụ điều hoà, phân phối nước bảo đảm yêu cầu sản xuất, giữ gìn nguồn
nước trong lành, bảo vệ môi trường sinh thái. Vai trò của DNTN được thể
hiện ở một số nội dung sau đây:
1.2.1.1. Đối với sản xuất nông nghiệp:
Nước ta hiện nay là một nước nông nghiệp, nông nghiệp chiếm đại đa
số lao động xã hội (80% dân số sống ở nông thôn). Nông nghiệp là nơi cung
cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, cung ứng nguyên liệu cho các ngành
công nghiệp chế biến, cung ứng nông sản hàng hoá xuất khẩu tạo tích luỹ
vốn để công nghiệp hoá và phát triển nhiều ngành kinh tế khác. Nông nghiệp
là thị trường hết sức quan trọng đối với cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, có rất nhiều tiềm năng trên cả phương diện cung và cầu. Nông nghiệp
có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: "Phát triển
nông, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế
nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
ổn định tình hình kinh tế xã hội "[25,15]
Tiềm năng nông nghiệp nước ta là rất lớn. Để khai thác hết tiềm năng
đó cần phải giải quyết nhiều vấn đề như: ruộng đất, thủy lợi, cung ứng vật
tư... trong đó thủy lợi chiếm vị trí hết sức quan trọng vì:
- Nền nông nghiệp nước ta là nông nghiệp lúa nước, cây lúa là chủ yếu
trong trồng trọt, cây lúa rất cần nước nhưng lại không chịu được ngập úng,
chua mặn: như úng từ 3 -5 ngày sẽ làm giảm sản lượng hoặc mất trắng, hạn
5-7 ngày sẽ làm giảm sản lượng. Yếu tố nước là yếu tố sống còn thiết yếu đối
với cây trồng. Tổng kết lao động trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã
đúc kết: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Nước là biện pháp kỹ

14



thuật hàng đầu, có sử dụng nước một cách khoa học thì mới phát huy được
các biện pháp khác.
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã tính toán xác định phần đóng góp của
các yếu tố: nước, phân, giống và các yếu tố khác làm tăng sản lượng từ 1965
- 1980 ở các nước Đông Á như sau:
Bảng số 1 : Tác động của các yếu tố sản xuất đối với
nông nghiệp một số nước Châu Á [22]
Tên nước
Trung Quốc

Sản lượng
1.000 tấn
%
50.500
2,8

Phần đóng góp của các yếu tố (%)
Nước
Phân
Giống
Khác
32,0
22,8
25,2
19,0

Ấn Độ

30.152


3,4

31,8

30,6

22,7

14,2

In đô nê sia

13.613

4,7

20,4

19,7

23,2

36,7

Thái Lan

6.400

2,9


13,5

10,6

12,8

63,0

Băng la đét

5.554

2,3

19,6

23,1

7,6

49,7

Phi líp pin

3.274

4,4

24,5


30,8

25,9

18,8

Miến Điện

1.820

3,3

37,0

19,1

34,9

9,0

Sri lan ca

1.034

5,6

25,3

20,8


23,3

30,6

25,5

22,2

22,1

30,1

Bình quân

Kết quả nghiên cứu cho thấy nước là yếu tố hàng đầu (25,5%) làm tăng
sản lượng lúa.
Chủ động được nước sẽ mở rộng diện tích canh tác. Trước đây một số
vùng ở đồng bằng Sông Hồng và nhiều nơi ở đồng bằng Sông Cửu Long do
chưa tiêu thoát nước nên hàng năm để ngập trắng, nhiều vùng do thiếu nước
nên chưa canh tác được như vùng Tây Nguyên, đồi núi phía bắc. Sau khi làm
công tác thủy lợi giải quyết được nước thì diện tích canh tác trong cả nước
tăng dần theo các mốc thời gian 1975, 1980, 1986, 1990 tổng diện tích tăng
dần: 4.105.000 ha, 4.850.000 ha, 5.220.000 ha, 5.560.000 ha. [19]

15


Chủ động được nước sẽ làm tăng vụ kèm theo là làm tăng diện tích cây
trồng trong năm, nhiều vùng trước đây chỉ gieo cấy được 1 vụ/năm thì nay đã

gieo cấy được 2-3 vụ/năm, đưa hệ số sử dụng đất từ 1,3 lần năm 1955 lên 2
lần năm 1992.
Chủ động nước sẽ tạo điều kiện thay đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng diện
tích gieo trồng vụ chiêm xuân và hè thu, các vùng ven biển đã dùng nước để
thau chua, rửa mặn, hầu hết các vùng đồng bằng trung du diện tích lấy nước
phù sa được tăng lên. Đây là một biện pháp hiệu quả đối với cải tạo đất.
Đề cập đến vai trò đầu tiên của nước, nhân tố quyết định đầu tiên của
quá trình canh tác, Chủ tịch Hồ Chí MInh đã nêu rõ ý nghĩa và tầm quan
trọng của vấn đề đất và nước: " Việt Nam có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi
Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước thì mới hình thành Tổ quốc. Có đất
lại có nước thì dân giàu nước mạnh. Nước cũng có thể làm lợi, nhưng cũng
có thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ
của chúng ta là làm cho đất và nước điều hoà với nhau để nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng CNXH" [11, 723].
- Trong điều kiện thiên nhiên Việt nam khá khắc nghiệt, hạn hán, lũ
lụt thường xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời sống của nhân dân
từ bao đời nay. Để phát triển nông nghiệp, nhiệm vụ đặt ra cho nhân dân ta là
phải thường xuyên làm thủy lợi, coi đó là quy luật gắn liền với sự tồn tại và
phát triển. Từ xa xưa chăm lo xây dựng công trình, quản lý điều hành công
tác thủy lợi được coi như một chức năng của Nhà nước. Công tác thủy lợi ở
nước ta tiến hành với 2 nội dung cơ bản: một là công tác đắp đê, làm đập trị
thủy phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai; hai là đào sông, khơi ngòi và
các hệ thống kênh mương để tưới tiêu nước phục vụ nhu cầu sinh trưởng của
cây trồng. Thủy lợi có vai trò hết sức to lớn đối với sản xuất nông nghiệp và
gắn liền với sản xuất nông nghiệp, chúng ta đã bắt tay vào thực hiện cuộc
cách mạng về cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống tạo ra một bước ngoặt trong sản

16



xuất nông nghiệp. Cuộc cách mạng xanh ở Miền Bắc trước đây được mở ra
bằng vụ lúa xuân, vụ đông thành vụ sản xuất chính, phong trào thâm canh
tăng năng suất với nhiều điển hình trước hết là do yếu tố thủy lợi được coi
trọng và giải quyết tốt.
Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 công tác thủy lợi nói chung, thủy
nông nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng và được
xác định: " thủylợi là biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp". Ngay
sau khi Miền Bắc được giải phóng, chúng ta đã tiếp quản các CTTL do chính
quyền cũ quản lý và tiến hành đầu tư để khôi phục tất cả các công trình đó,
trước yêu cầu nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, đặc biệt là đốivới sản
xuất nông nghiệp, Nhà nước đã đầu tư và xây dựng nhiều công trình mới
như: hệ thống đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải, Trịnh Xá, Đan Hoài (Hà Tây),
Nam-Bắc Sông Mã (Thanh hoá), Đô Lương ( Nghệ An)... với chủ trương
hoàn chỉnh thủy nông. Từ năm 1975 các hệ thống thủy nông được phát triển
đều khắp ỏ cả miền núi và đồng bằng gồm nhiều công trình vừa và nhỏ.
Cùng với việc đầu tư xây dựng các công trình thủy nông, Nhà nước đã chú ý
đến việc đầu tư theo chiều sâu nhằm khai thác các công trình đã có để phục
vụ và phát triển theo hướng thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích. Sau ngày
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên CNXH, hoạt
động thủy nông được mở rộng ra cả nước, hàng loạt công trình lớn và vừa
được Nhà nước đầu tư xây dựng, trong đó có các công trình lớn như: hồ Kẻ
Gỗ (Hà Tĩnh), Trà Lĩnh (Thái Bình), Núi Cốc (Bắc Thái), Phú Ninh (Quảng
Nam - Đà Nẵng), Dầu Tiếng (Tây Ninh)... Tính đến nay cả nước có 75 hệ
thống CTTL vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thủy lợi nhỏ, gần 600 hồ chứa
vừa và lớn có dung tích 1 triệu m3 trở lên, trên 10.000 hồ đập nhỏ, khoảng
2000 trạm bơm điện lớn và nhỏ với tổng giá trị khoảng 60.000 tỷ đồng (tính
theo giá 1998). Cơ sở vật chất kỹ thuật này đã tạo năng lực tưới cho 3 triệu
ha canh tác, ngăn mặn 70 vạn ha, nhờ vậy đã khắc phục tình trạng úng, hạn,

17



mở rộng diện tích gieo trồng, cải tạo đất, thâm canh, tăng vụ tăng năng, suất
góp phần đưa tổng sản lượng lương thực lên 31,8 triệu tấn năm 1999
1.2.1.2. Đối với công nghiệp giao thông, du lịch
- Đối với sản xuất công nghiệp: Tất cả các cơ sở sản xuất nói chung
đều cần phải có một khối lượng nước nhất định để phục vụ sản xuất. Trong
sản xuất công nghiệp yêu cầu nước không lớn như trong nông nghiệp nhưng
đòi hỏi chất lượng và mức độ bảo đảm cao hơn, khi sự nghiệp công nghiệp
hoá càng được đẩy mạnh thì càng phải phát triển thủy lợi tương ứng để khai
thác tài nguyên nước phục vụ cho các ngành kinh tế bảo đảm đời sống nhân
dân ở các khu công nghiệp và thành thị. Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, ngoài
việc cung cấp nước cho nông nghiệp, các DNTN còn cung cấp nước cho sản
xuất công nghiệp với khối lượng rất lớn như: Nhà máy đường Lam Sơn, Giấy
Mục Sơn, đường Nông Cống, điện Bàn Thạch, Nhà máy nước Thanh hoá,
Bia Thanh hoá và tới đây sẽ cung cấp nước cho nhà máy xi măng Nghi Sơn
và khu công nghiệp Nam Thanh hoá.
- Đối với giao thông vận tải, du lịch:
Ở nước ta giao thông vận tải thủy sớm được khai thác từ xa xưa cho
đến nay vẫn là một trong những phương tiện giao thông vận tải có hiệu quả
kinh tế nhất. Cả nước có nhiều sông ngòi, kênh rạch thuận lợi cho giao thông
phát triển, các CTTL (hồ, kênh, mương) ngoài nhiệm vụ chứa nước, dẫn
nước tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp đã cùngvới sông ngòi tự nhiên tạo
nên mạng lưới giao thông thủy phong phú và thuận lợi hơn. Trên kênh của
hệ thống Bái Thượng mỗi ngày có hàng trăm bè, nứa, luồng được chuyển về
xuôi. Âu thuyền Bến Ngự mỗi ngày cũng có hơn 100 thuyền bè ra vào vận
chuyển vật liệu xây dựng từ Sông Mã vào Thành phố Thanh hoá. Ngoài ra
các CTTL còn tạo nên các khu du lịch như: công trình Dầu Tiếng (Tây Ninh),
hồ Sông Mực (Thanh hoá), hồ Suối Hai (Hà Tây)... các công trình này gắn
với cảnh quan thiên nhiên tạo thêm thẩm mỹ và đã trở thành các khu du lịch,


18


tham quan, nghỉ mát, góp phần phát triển kinh tế du lịch cho một số địa
phương.
1.2.1.3. Đối với đời sống dân sinh, cải tạo môi trường sinh thái và
phòng chống thiên tai.
Nước là nguồn tài nguyên quý và quan trọng vô cùng cần thiết cho sức
khoẻ và đời sống con người. Tình hình thiếu nước và cung cấpnước sạch cho
nhu cầu sống của con người hiện nay thật đáng lo ngại, nhiều quốc gia trên
thế giới, đặc biệt Châu Phi và Châu Á có khoảng 1/3 dân số đang thiếu nước
nghiêm trọng. Cũng chính vì vai trò quan trọng của nước sạch, sau Hội nghị
quốc tế về môi trường và phát triển tại Rio de Jane rio (Bra xin 1992) với sự
tham gia của 172 nước trên thế giới, trong đó có 108 vị đứng đầu Nhà nước,
tháng 11 năm 1992 Đại hôị đồng Liên Hợp Quốc đã quyết định lấy ngày
23/3 hàng năm là ngày nước thế giới để thẩm định vai trò của nước đối
với đời sống con người, xác định trách nhiệm của nhân loại đối với việc
bảo vệ, quản lý và phát triển tài nguyên nước, chống cạn kiệt, suy thoái
và ô nhiễm nguồn nước. [3]
So với các quốc gia trên thế giới có thể nói nước ta có tài nguyên nước
rất phong phú vì chúng ta có nhiều sông, suối với lượng mưa rất dồi dào,
trung bình từ 1.200 - 2.000 mm/ năm. Nhưng Việt Nam cũng chịu sự tàn phá
nặng nề của thiên nhiên, năm nào cũng có bão lụt, như chúng ta đã biết trong
những tháng đầu năm 1999 thời tiết biến đổi, hạn hán kéo dài trên diện rộng
không những gây khó khăn cho sản xuất mà còn làm cho khoảng 4 triệu
người "đói nước và khát nước" trong đó có khoảng 1 triệu người thiếu nước
nghiêm trọng tại các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Thanh hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam... đặc biệt là tỉnh Bến Tre và các tỉnh
vùng Tây Nguyên.

Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng quan
tâm đến việc giải quyết nước sạch, đảm bảo vệ sinh môi trường cho nhân

19


dân. CTTL có một ý nghĩa hết sức quan trọng để cải thiện điều kiện khí hậu
trong vùng lân cận, mực nước ngầm được dâng cao, tạo thuận lợi cho việc
trồng cây gây rừng, duy trì dòng chảy trong mùa khô, hạn chế nước mặn xâm
nhập quá sâu vào đất liền, duy trì các điều kiện bình thường, từng bước hình
thành sự cân bằng mới về môi sinh. Từ chỗ tích nước, trữ nước của các
CTTL đã hạn chế được lũ lớn của các dòng sông, mặt khác cũng thông qua
công trình thủy lợi để cắt lũ và xả lũ khi có lũ lớn xảy ra, hạn chế thấp nhất
mức thiệt hại. Thông qua việc cung cấp nước cho nông nghiệp đồng thời
cũng tạo lượng nước ngầm ổn định thường xuyên cho các vùng dân cư ở
nông thôn. Có thể nói nước trong đời sống con người hầu hết đều có liên
quan đến CTTL.
Từ nay đến năm 2010 công tác phát triển thủy lợi và thủy nông còn
nhiều vấn đề cần giải quyết. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng
thúc đẩy quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh, nhu cầu nước cho dân sinh và
công nghiệp ở các vùng tập trung sẽ tăng nhanh chóng đòi hỏi các CTTL
phải phát triển theo để cung ứng và xử lý nguồn nước. Kinh tế càng phát
triển thì vấn đề bảo vệ thành quả kinh tế - xã hội càng cần thiết, trong điều
kiện thiên tai có chiều hướng phức tạp, hệ thống đê điều, các công trình
điều tiết lũ bảo vệ vùng dân cư, vùng kinh tế trọng điểm ngày càng phải
được bổ sung để đảm bảo an toàn hạn chế thiệt hại, giữ được nhịp độ phát
triển bền vững.
Trước những biến đổi về khí hậu có tính toàn cầu và những thay đổi về
môi trường sinh thái ở nước ta do tài nguyên rừng bị tàn phá nặng nề, thiên
tai diễn ra trên diện rộng cộng với sự gia tăng của chất thải do phát triển

công nghiệp vùng đô thị làm ô nhiễm môi trường nước đòi hỏi nhiệm vụ phát
triển thủy lợi phải dựa trên một chiến lược quản lý và khai thác tài nguyên
nước toàn diện, phục vụ đa mục tiêu.
1.2.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp thủy nông

20


Mỗi doanh nghiệp có vị trí, vai trò khác nhau trong nền kinh tế xã hội
và có những đặc điểm riêng có của nó, tính chất đặc điểm đó chi phối đến
mọi hoạt động của doanh nghiệp từ quy mô, hình thức tổ chức bộ máy đến
nội dung hoạt động. Hệ thống DNNN hiện nay được phân làm 2 loại hình:
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, mỗi loại hình
được hoạt động dựa trên cơ chế tài chính khác nhau. DNTN được xếp vào
loại hình DNNN hoạt động công ích có những đặc điểm sau đây:
1.2.2.1- Hoạt động thủy nông mang tính hệ thống cao
Hoạt động thủy nông là quản lý khai thác công trình thủy lợi diễn ra
trong phạm vi rộng do công trình mang tính hệ thống, nó bao gồm nhiều loại
công trình có liên hệ mật thiết với nhau và yêu cầu đồng bộ. Một hệ thống
công trình phải bao gồm: công trình đầu mối (hồ, đập, trạm bơm điện), kênh
dẫn cấp I, cấp II, cấp III và kênh nội đồng, trên các tuyến kênh có các cống
lấy nước cửa đóng mở... tuỳ khả năng nguồn nước của từng công trình đầu
mối mà quy định phạm vi phục vụ, có thể phục vụ cho 1 xã, 1 huyện hoặc
liên huyện, liên tỉnh. Một yêu cầu có tính chất bắt buộc là không đươc chia
cắt hệ thống, một công trình không thể do nhiều nơi quản lý khai thác vì nếu
chia cắt như vậy sẽ không thể điều hành được nên một doanh nghiệp độc lập
quản lý ít nhất là một hệ thống công trình. Tính hệ thống này chi phối đến
việc tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp trong một địa phương, một vùng lãnh
thổ, có thể thành lập công ty thủy nông huyện, liên huyện hoặc công ty thủy
nông tỉnh, tuỳ thuộc điều kiện cụ thể về trình độ quản lý của cán bộ, đặc

điểm công trình, tính hoàn chỉnh của công trình để chọn mô hình tổ chức cho
phù hợp song luôn luôn phải đảm bảo tính hệ thống.
Trong mỗi hệ thống vừa có đơn vị (bộ phận) đảm nhận sản xuất theo
dạng khai thác nguồn nước, đó là công trình đầu mối, vừa có đơn vị chuyển
tải sản phẩm đến nơi tiêu thụ theo hệ thống kênh, vừa có đơn vị đảm nhận
tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là các khâu trong tổ chức điều hành quản lý

21


khai thác của một DNTN. Muốn đạt hiệu quả cao nhất phải chỉ đạo thực hiện
tốt ở các khâu, muốn thu tốt thủy lợi phí phải tưới tiêu tốt hoặc tưới tiêu tốt để
thu tốt.
Do tính hệ thống cao nên trong khi xây dựng công trình mới phải được
hoàn thiện đồng bộ mới phát huy tối đa năng lực thiết kế của công trình,
trong quản lý khai thác phải có kế hoạch tu sửa thường xuyên và sửa chữa
lớn kịp thời để duy trì năng lực đồng bộ. Trong thực tế hiện nay một trong
những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của công trình thấp là do khi xây dựng
chưa hoàn chỉnh đồng bộ và trong quá trình khai thác chưa được tu bổ khôi
phục kịp thời.
1.2.2.2- Hoạt động của các doanh nghiệp thủy nông chịu ảnh hưởng
lớn của điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên không hoàn toàn thuận lợi cho sản xuất và đời sống
của con người. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là quá trình đấu
tranh cải tạo tự nhiên, vận dụng các quy luật tự nhiên để phục vụ cho đời sống
con người. Hoạt động khai thác CTTL là một trong những hoạt động vận dụng
các quy luật tự nhiên, cải tạo tự nhiên, khắc phục hậu quả do thiên nhiên
gây ra, do đó chịu sự chi phối ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên.
Trước hết ta thấy từ khi bắt đầu xây dựng CTTL đã phải căn cứ vào
điều kiện: khí hậu, địa hình, thủy văn ở từng vùng, từng địa phương để có

các giải pháp công trình thích hợp, vùng miền núi lợi dụng độ cao để xây
dựng hồ chứa nước đập dâng, ở miền xuôi xây dựng các trạm bơm điện. Các
CTTL đa số nằm ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường mưa
nắng, luôn bị phá huỷ, xói mòn, hệ thống kênh mương đa số bằng đất. Do đó
việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào xây dựng cải tạo công trình
là rất cần thiết, việc tiến hành kiên cố hoá kênh mương (bằng bê tông hoặc
gạch xây) và lần lượt hiện đại hoá các máy móc thiết bị là nhằm nâng cao
năng lực và kéo dài tuổi thọ của công trình.

22


Mặt khác điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng đến hoạt động quản lý, chi
phối đến chi phí và thu nhập hàng năm của doanh nghiệp. Tuy hiện nay các
DNTN đang hoạt động dựa trên các định mức kinh tế - kỹ thuật nhưng do
diễn biến thời tiết khá phức tạp, nhất là những năm gần đây nắng hạn kéo dài
mưa, lũ lớn vượt mức lịch sử, năm 1999 những trận mưa lớn chưa từng có
trên tất cả các vùng từ ngày 1 đến 6/11/1999 lượng mưa ở Huế là 2.280mm
trong đó 1 ngày lên đến 1.384 ma tuý, là lượng mưa chưa từng thấy trong
chuỗi số liệu có hơn 100 năm nay ở nước ta. Đợt mưa đầu tháng 12 năm 1999
ở Quảng Ngãi phổ biến từ 1.500-2.000 mm đặc biệt trong 3 ngày hồ Phú
Ninh lên 2.000mm trong khi lượng mưa thiết kế là 1.100mm. Vào những năm
thời tiết như vậy thì chi phí bỏ ra của các doanh nghiệp rất lớn, tài sản máy
móc thiết bị công trình bị huỷ liệt. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong lúc
lập kế hoạch sản xuất tài chính hàng năm cần phải được đề cập đến và phải
có chủ trương chính sách dự phòng.
1.2.2.3- Hoạt động thủy nông mang tính xã hội hoá cao.
Do đặc điểm của điều kiện tự nhiện, địa hình nguồn nước mà từ việc
quy hoạch thiết kế đến xây dựng CTTL phải đảm bảo tính hệ thống, tính hệ
thống đó nhiều khi vượt khỏi ranh giới một vùng, một địa phương, một đơn

vị hành chính, đòi hỏi sự đóng góp xây dựng của một tập thể khá lớn, trên
thực tế hầu hết các CTTL đã đưa vào sử dụng ở nước ta đều có sự đóng góp
của nhân dân được thực hiện theo phương châm "Nhà nước và nhân dân
cùng làm".
Tính xã hội hoá còn thể hiện trong việc sử dụng các hệ thống công
trình, tuỳ theo điều kiện kinh tế từng vùng mà mỗi hệ thống có thể đảm nhận
từng phần hay toàn bộ nhiệm vụ: phục vụ sản xuất nông nghiệp thủy điện,
thủy sản, giao thông thủy, cấp nước cho sản xuất công nghiệp, cấp nước cho
dân cư, chống lũ lụt và bảo vệ nguồn nước khỏi nhiễm khuẩn. Vì vậy mỗi hệ
thống đảm nhận một lúc nhiều nhiệm vụ, mỗi nhiệm vụ phục vụ cho một

23


ngành kinh tế nhất định, do đó hoạt động thủy nông thường phục vụ cho
nhiều mục tiêu, nhiều đối tượng khác nhau. Ngoài ra không chỉ đảm bảo tưới
tiêu cho diện tích canh tác mà còn phục vụ cho cả diện tích phi canh tác mà
diện tích phi canh tác thường mang tính chất xã hội.
Tính xã hội còn thể hiện trong công tác bảo vệ công trình, vì CTTL đa
số nằm ngoài trời rải rác trong phạm vi rộng trong khi đó lực lượng công
nhân của doanh nghiệp chỉ ở mức độ nhất định nên phải có sự tham gia của
toàn dân, ở đâu nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, thực hiện tốt pháp lệnh
bảo vệ công trình thì ở đó CTTL được an toàn, chi phí trông coi bảo vệ của
các doanh nghiệp thấp và ngược lại. Từ đó một trong những nội dung hoạt
động của các doanh nghiệp là phải tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức
trách nhiệm cho người dân, phối kết hợp với chính quyền địa phương, phổ
biến sâu rộng và chấp hành tốt pháp lệnh bảo vệ CTTL, trong quản lý tiến
hành xã hội hoá một số khâu, một số công việc để nhân dân địa phương đảm
nhận, một mặt gắn trách nhiệm của địa phương mặt khác tiết kiệm được chi
phí.

1.2.2.4- Sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp thủy nông là dịch vụ đặc
biệt gắn liền với kết quả sản xuất nông nghiệp.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của các DNTN là nông nghiệp mà chủ yếu
là trồng trọt, việc cung ứng đủ nước cho cây trồng phát triển theo thời vụ
từng thời kỳ sinh trưởng (bao gồm cả tưới và tiêu). Sản phẩm "dịch vụ nước"
cũng là hàng hoá vì nó có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Về giá trị
bao gồm 3 bộ phận: một là giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí (c), hai là giá trị
quỹ lương để trả cho công nhân trực tiếp và gián tiếp trong doanh nghiệp (v),
ba là giá trị thặng dư (m). Về giá trị sử dụng nó cũng thoả mãn nhu cầu cho
người dùng nước vào sản xuất và sinh hoạt.
"Dịch vụ nước" là hàng hoá nhưng nó là hàng hoá đặc biệt: Quá trình
sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ, sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đấy

24


không tiêu thụ là bỏ phí vì loại dịch vụ này không lưu kho tích trữ như các
hàng hoá khác được. "Dịch vụ nước" của các DNTN là duy nhất không thể
nhập ngoại và không có hàng thay thế, là hàng hoá nhưng đơn vị đo đếm đến
nay chưa được xác định thống nhất và chuẩn xác, hiệnnay đang dùng đơn vị
là ha đất gieo trồng diện tích tưới tiêu, tưới cho 1 ha thì có thể tính được
nhưng tiêu thì rất khó xác định vì lượng mưa hàng năm rất khác nhau, đây là
một khó khăn lớn trong việc xác định chi phí để xác định giá bán của doanh
nghiệp.
Tuy có hạch toán kinh tế nhưng ở đây chưa hạch toán đầy đủ, trong
phần chi phí giá trị tư liệu sản xuất chưa tính đủ. Từ năm 1984 theo Nghị
định 112/ HĐBT và đến nay khi trích khấu hao cơ bản tài sản cố định các
doanh nghiệp chỉ tính phần máy móc thiết bị, không trích phần tài sản thuộc
công trình đất xây đúc và các loại máy bơm có công suất 8.000 m3/h trở lên.
Giá bán sản phẩm dịch vụ nước do Nhà nước quy định, quan hệ giữa người mua

và người bán bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố như tính độc quyền của sản phẩm,
tính xã hội của sản phẩm, quan hệ cung cầu và giá cả ở đây không phản ánh
đúng bản chất vận động của nó, người nông dân không có quyền lựa chọn sản
phẩm, người bán cũng không có quyền lựa chọn người mua, quan hệ mua bán
thiếu sòng phẳng, người mua không nộp thủy lợi phí người bán vẫn phải
phục vụ.
Sản phẩm thu được của các DNTN gắn liền và chịu ảnh hưởng lớn của
sản xuất nông nghiệp. Thủy lợi phí là nguồn thu chủ yếu được tính bằng %
so với sản lượng thu hoạch của nông dân, những năm thời tiết bình thường
nông dân được mùa thì doanh thu tương đối ổn định, nhưng những năm hạn
hán năng suất cây trồng giảm hoặc mất mùa Nhà nước miễn giảm cho nông
dân làm giảm doanh thu của doanh nghiệp vì vậy tính toán hiệu quả rất khó
khăn không phản ánh đúng thực trạng nội tại của nó, các doanh nghiệp phải

25


×