Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN DUY vật BIỆN CHỨNG CHO học VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ hà NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.67 KB, 94 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn. Hay nói cách khác, thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trong
nhận thức và cải tạo thực tiễn. Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa học cho đội ngũ cán bộ của
Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là vấn đề cấp
thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và trong nước đòi
hỏi người cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học vững vàng để
nhận thức và hoạt động đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của đất
nước và xu thế của thời đại.
Hà Nam là một tỉnh nằm phía Nam của Thủ đô Hà Nội, chủ yếu dọc
hai bên đường quốc lộ 1A, mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến
lược an ninh - quốc phòng, có điều kiện địa - chính trị thuận lợi. Song,
trong những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa chưa thật
tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Trường Chính trị Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở (trừ cán bộ chủ chốt cấp huyện và
cấp tỉnh). Ở đó, cán bộ có điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để
phục vụ hoạt động công tác của mình, góp phần quan trọng thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh.
Vì vậy, những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương
diện, trong đó phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo,
quản lý của nhà trường, đặc biệt là công tác xây dựng thế giới quan khoa



2

học cho họ. Cho nên, việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học là một trong
những giải pháp cấp bách và chiến lược lâu dài cho đội ngũ cán bộ tỉnh
Hà Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt. Ngoài ra còn
có những công trình nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến thế giới
quan khoa học ở những giác độ khác nhau cũng được thực hiện trong một
số luận văn, luận án; cụ thể như sau:
- V.I.Li-xốp-ski và V.Mi-tri-ep: "Nhân cách của người sinh viên"
(chương VI: Sự hình thành thế giới quan), Nxb Đại học Tổng hợp
Lêningrát, 1974.
- Bun-nhông-khin-sa-mom: "Xây dựng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện
nay", Luận án PTS, số 48, Học viện Nguyễn Ái Quốc.
- Ch.L.Xiếc-nốp: "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế
giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục Mác - Lênin, số 3-1985.
- Lê Xuân Vũ: "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần
nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản số 6-1986.
- Bùi Ỉnh: "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối
với cán bộ, đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 1988.
- Trần Thanh Hà: "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán
bộ, đảng viên người dân tộc Khơmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong
giai đoạn cách mạng hiện nay", Luận án Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.



3

- Trần Phước: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng
lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Viết Quân: "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
Các tác giả trên đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản như sau:
+ Khái niệm thế giới quan nói chung và thế giới quan duy vật biện
chứng nói riêng, vấn đề cấu trúc, vai trò của chúng.
+ Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán bộ nói
chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát
triển thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Từ đó, tác giả đưa ra một số những phương hướng chung và các
giải pháp cụ thể cho mỗi đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đòi hỏi của thực
tiễn trong mỗi giai đoạn nhất định.
Tuy nhiên về "Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay" chưa có tác giả nào
nghiên cứu. Dựa trên thực tế giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin
của Trường Chính trị Hà Nam trong những năm qua cho đội ngũ cán bộ
trong tỉnh và thông qua việc giảng dạy môn triết học, tác giả mạnh dạn
chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích vai trò thế giới quan và thực trạng việc bồi dưỡng
thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam, luận văn đưa ra một số những giải



4

pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng thế giới quan cho đội ngũ học viên của trường
Chính trị tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của
nó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thế giới quan của cán bộ trong
tỉnh Hà Nam.
- Đưa ra một số những giải pháp nhằm nâng cao thế giới quan khoa
học cho đối tượng là học viên học ở tại trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng cho học viên ở Trường Chính trị Hà Nam (trừ đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh và cấp huyện) từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
vấn đề giáo dục bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin, mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, giữa sự thống nhất biện chứng lý luận và thực tiễn…
- Luận văn dựa vào các văn kiện của các thời kỳ Đại hội của Đảng,
Nghị quyết trung ương, các tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở
tỉnh và Trường Chính trị Hà Nam.
- Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam trên cơ sở
đó đề ra một số giải pháp chủ yếu để củng cố và nâng cao thế giới quan duy

vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này.


5

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến
lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Hà Nam.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy
và học tập ở trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hà Nam nói
riêng. 7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


6

Chương 1
THẾ GIỚI QUAN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

1.1. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ

1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Đứng trước bức tranh về thế giới (tự nhiên và xã hội) muôn hình,
muôn vẻ và sinh động, con người luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về
mối quan hệ của mình với thế giới, về nguồn gốc của thế giới, về vị trí của
mình trong xã hội, về ý nghĩa cuộc sống của mình và thể hiện quan điểm,
tư tưởng qua các lý thuyết xã hội. Đó chính là sự lựa chọn và định hướng

cuộc sống, tức là sự thể hiện thế giới quan của mình.
Thuật ngữ "thế giới quan" xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII
do nhà triết học cổ điển Đức là Cantơ nêu ra. Từ đó, nó được sử dụng rộng
rãi trong các tác phẩm của các nhà triết học sau này. Đặc biệt, với sự ra đời
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm thế giới quan đã phát triển lên một
tầm cao mới mang tầm vóc lớn lao.
Thế giới quan nào ra đời cũng đều nhằm giải quyết ba vấn đề cơ
bản sau:
- Thế giới mà con người đang sống là gì?
- Trong thế giới đó con người sống vì cái gì và sống như thế nào?
- Khả năng con người tác động lại thế giới ra sao?
Trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã vạch ra được mối quan
hệ giữa con người với thế giới và xác định vị trí con người trong thế giới đó.


7

Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai
hình thức:
Thứ nhất: Thế giới quan là một nhân tố của ý thức cá nhân, giữ vai
trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân, đó là thế giới quan
cá nhân. Thế giới quan cá nhân thường là sự tích lũy và thu thập kinh
nghiệm sống của mọi người. Nó nằm trong suy nghĩ và hành vi của họ mà
chính họ cũng không biết rằng cái được gọi là kinh nghiệm sống hay sự
hiểu biết về bức tranh chung của thế giới đó là thế giới quan cá nhân. Nó
chính là mức độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy nhiên, không nên đánh
giá thấp tác dụng của nó với tính cách là một nhân tố điều chỉnh hành động
của con người. Tác động của giáo dục, ảnh hưởng của truyền thống, của
các quan hệ xã hội, các điều kiện và hoàn cảnh môi trường sống là nhân tố
quan trọng hình thành các quan điểm và nguyên tắc thế giới quan cá nhân.

Thứ hai: Thế giới quan là sự thể hiện dưới hình thức lý luận khái
quát hóa các quan điểm và hoạt động của một nhóm xã hội, một giai cấp
hay toàn xã hội. Đó là thế giới quan xã hội. Các nhà triết học, kinh tế học,
xã hội học hay các nhà tư tưởng, chính trị... luôn suy nghĩ, cân nhắc để xây
dựng thế giới quan xã hội. Nhiệm vụ của họ là phải làm thế nào để thể hiện
một cách đầy đủ nhất những nguyên lý tư tưởng lý luận, nguyên lý triết học
nhằm chỉ dẫn suy nghĩ và hành động của con người, của một nhóm xã hội,
một giai cấp hay toàn xã hội.
Hai loại thế giới quan trên luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ với nhau. Mỗi cá nhân đều luôn mong muốn làm phong phú tri thức
của mình bằng cách tiếp nhận những lý luận chung để làm sáng tỏ vị trí của
mình trong thế giới, trong đời sống xã hội. Ngược lại, những quan điểm thế
giới quan xã hội, lý luận chung ấy trở thành một bộ phận trong ý thức và
niềm tin của các cá nhân, thẩm thấu vào ý thức cá nhân, được hình thành
một cách tự phát rồi tác động và chỉ dẫn nó.


8

Dù ở trình độ phát triển nào các quan điểm về thế giới quan cũng
đều mang tính khái quát. Thế giới quan là sự phản ảnh chủ quan những
điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Tuy nhiên, thế giới quan không
chỉ dừng lại ở sự phản ánh thụ động đó, mà nó còn là nhân tố tích cực của
con người, sự thông thái về cuộc sống để chỉ dẫn cho nhận thức lẫn hành
động của con người. Bởi vì, chính hành vi và hoạt động của con người đã
đặt ra các vấn đề như: liệu nhận thức có đáp ứng những mục đích sống đã
được con người lựa chọn và con đường thực hiện những mục đích ấy có
tuân theo những quy luật phát triển của thế giới khách quan hay không?
Liệu quan hệ giữa tri thức con người với thực tiễn cải tạo thế giới khách
quan, cải tạo chính bản thân mình có tương ứng với những đòi hỏi và

những khuynh hướng phát triển hợp quy luật của hiện thực hay không? Và
bằng cách nào mà tư duy và hành động của mình, con người có thể thể hiện
sự thống nhất giữa mình và thế giới, hiểu được tương lai, triển vọng của
mình? Khi trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã thể hiện chức năng,
định hướng lớn lao của mình.
Trong lịch sử tư tưởng làm người đã có nhiều định nghĩa khác nhau
về thế giới quan, chẳng hạn, G-Gertx đã cho rằng: "Chúng tôi hiểu thế giới
quan như một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội
nguồn của thế giới và nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến
bộ xã hội" [16, tr. 42]. Hoặc trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Minh Tâm đã
định nghĩa: "Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang tính khái
quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội được thực
hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện thực
xung quanh" [39, tr. 17]... Chúng tôi nhận thấy các định nghĩa trên đều
đúng, nhưng bao quát và rõ hơn cả là theo cách định nghĩa của Akitốp, bởi
vì trong định nghĩa này, ông đã nêu nên, các yếu tố nhận thức và giá trị,
yếu tố khách quan và chủ quan thống nhất chặt chẽ với nhau, các tri thức


9

của khoa học về thế giới hòa với niềm tin của con người. Ông viết: "Tổng
hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn
gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con người, lòng tin của con
người trong hiện thực gọi là thế giới quan" [1, tr. 167].
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ
thống những quan điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập
đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của
con người trước thế giới. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Về cấu trúc của thế giới quan bao gồm một số nhân tố cơ bản sau đây:
Tri thức:
Cũng giống ở mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri
thức về tự nhiên, xã hội, con người. Những tri thức mang tính khái quát về
các hiện tượng tự nhiên, về mối quan hệ nền tảng, bản chất của tự nhiên,
tạo thành quan điểm về tự nhiên của thế giới quan. Các tri thức tự nhiên đó
quy định lập trường của con người trong thế giới, chỉ rõ người theo chủ
nghĩa vô thần hay duy tâm, tôn giáo; biện chứng hay siêu hình.
Những tri thức về cuộc sống của con người, về sự phát triển xã hội,
về quan hệ của con người đối với xã hội tạo thành quan điểm xã hội của thế
giới quan.
Những tri thức hệ thống khái quát về bản chất của quá trình hoạt
động nhận thức của con người tạo thành quan điểm nhận thức luận của thế
giới quan.
Rõ ràng, việc xác định bản chất của thế giới quan cần dựa trên
phương diện bản thể luận lẫn phương diện nhận thức luận. Tri thức là điều
kiện cần thiết cơ bản cho việc hình thành thế giới quan, nhưng không phải
bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội, về con người đều là tri thức thế giới


10

quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung về tồn tại và về nhận
thức mới là những tri thức của thế giới quan.
Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết
học đóng vai trò là nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát
triển của nó vì triết học phản ánh các quan điểm chung nhất về thế giới.
Niềm tin:
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển
trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải

tạo hiện thực của con người.
Niềm tin là những tư tưởng chi phối chặt chẽ tư tưởng, chỉ dẫn hành
động của con người tuân theo và ràng buộc trí tuệ, lương tâm của con
người với chúng. Nếu con người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào
sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con người sẽ bị mất đi những
rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với
hiệu quả công việc. Không có tâm hồn nóng bỏng của niềm tin vào tri thức
thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Vì niềm tin giúp cho con người có
nghị lực phi thường vượt qua những giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh vì
mục tiêu, lý tưởng mà mình cho là cao cả. Như thế, niềm tin là yếu tố cấu
thành quan trọng của thế giới quan. Nếu nó được xác lập trên nền tảng tri
thức khoa học thì nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Lý tưởng:
Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là
yếu tố định hướng cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như là hình mẫu, mục tiêu
tối thượng về một cái gì đó của một cá nhân, nhóm người, giai cấp hay toàn
xã hội muốn vươn tới hiện thực.
Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức
và niềm tin của một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt


11

động cho mọi thành viên trong xã hội thực hiện mục đích của mình, nhằm
cải tạo thế giới "đang có" thành thế giới "phải có". Lý tưởng mang tính lịch
sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tùy thuộc vào hình thái của
các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người về tương lai, về
lý tưởng, đó là sự tìm tòi và sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách
là niềm hi vọng. Không có niềm hy vọng như là một sự khao khát hiến
dâng mình cho tương lai thì không thể có một lập trường sống tích cực. Đó

là các nhân tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành thế giới quan,
để thể hiện những quan điểm của chủ thể về thế giới, về những hiện tượng
tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng; về bản thân con
người,vai trò của con người trước thế giới.
Mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan:
Như trên đã trình bày, thế giới quan đã chỉ ra mối quan hệ giữa con
người với thế giới, cái chủ quan và cái khách quan đã bao hàm trong mình
vấn đề cơ bản của triết học, thậm chí vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề
chính trong kết cấu của thế giới quan. Nhưng xét về mặt lịch sử, thế giới quan
ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời kỳ bộ tộc, trên cơ sở sự phản
ánh hoang đường về thực tế. Và hình thức thế giới quan đầu tiên ấy gọi là
thế giới quan thần thoại. Còn triết học là khoa học chỉ xuất hiện khi có sự
tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của
chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó. Vì vậy, triết học
là hạt nhân lý luận của thế giới quan làm cho thế giới quan phát triển như
một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
do các nhà khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Trong những bước chuyển biến của đời sống xã hội của thực tiễn
đặt ra đã kéo theo sự tiến hóa của thế giới triết học, mà đỉnh cao nhất nó đạt
được là thế giới duy vật biện chứng.


12

Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống chỉnh thể những tri
thức về tự nhiên, xã hội và con người. Nó được tạo thành trên cơ sở phê
phán có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự
khái quát kinh nghiệm lịch sử có những thành tựu của khoa học.
Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn cách mạng

được quy định bởi bản chất cách mạng của chính phép biện chứng duy vật.
Vì vậy, thế giới quan duy vật biện chứng là một loại thế giới quan mang
tính khoa học và cách mạng triệt để nhất. Nó không chỉ dừng lại ở việc lý
giải về thế giới mà hơn thế nữa, trên cơ sở sự lý giải đúng, nó trở thành cái
định hướng cho con người trong hành động, khẳng định vị trí của con
người trong việc cải tạo thế giới; C. Mác viết: "Các nhà triết học đã chỉ
giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới"
[29, tr. 258].
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu bước
ngoặt vĩ đại trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và của
thế giới nói chung. Nó là sự thống nhất chặt chẽ các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng do các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác sáng
lập. Thế giới quan đó có một ý nghĩa không chỉ thuần về mặt lý luận và
nhận thức mà nó còn có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn: biểu hiện thái độ
của con người với thế giới xung quanh và làm kim chỉ nam cho hành động
của con người. Nhờ đã phát hiện ra những quy luật khách quan của tự
nhiên và xã hội cho nên thế giới quan duy vật biện chứng hướng sự hoạt
động của con người đúng theo sự phát triển của xã hội, do đó, nó thúc đẩy
thêm sự phát triển ấy.
Công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ta đòi hỏi mỗi người chúng ta, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ những người lãnh đạo quần chúng phải có một thế giới quan đúng đắn,
khoa học và cách mạng, một thế giới quan thống nhất giữa lời nói, việc


13

làm, giữa chân - thiện - mỹ... Một thế giới quan như thế phải được xây
dựng trên những tư tưởng triết học của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin. Bởi lẽ, việc trang bị thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp chúng
ta có niềm tin vững chắc vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội; nâng cao
năng lực nhận thức và tổ chức thực tiễn. Nó có tác dụng đối với mọi người,

đặc biệt là đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng
lợi đường lối chính trị của Đảng trong tình hình cách mạng mới.
1.1.2. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam
Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước ta được phân thành
bốn cấp: trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận;
xã, phường, thị trấn. Nhưng khi nói đến hết cơ cấu bộ máy chính quyền nhà
nước thì được phân thành hai cấp: trung ương và địa phương (về đối tượng
nghiên cứu của đề tài này là những người cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp
tỉnh đến cấp cơ sở, trừ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cán bộ chủ chốt cấp
huyện).
Theo cách hiểu thông thường và khá phổ biến ở nước ta hiện nay,
khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ quản lý, được
hiểu là những người có chức vụ và trách nhiệm điều hành, cầm đầu trong
các cơ quan, các tổ chức sự nghiệp, kinh doanh. Nội hàm cán bộ lãnh đạo
và cán bộ quản lý có những điểm giống nhau: Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ
quản lý đều là chủ thể ra quyết định, điều khiển hoạt động của một tổ chức,
người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức năng quản lý và người
quản lý cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo, nên khó có thể phân biệt
một cách rạch ròi đâu là người lãnh đạo và đâu là người quản lý.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn thống
nhất với nhau. Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng


14

cho khách thể thông qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách
"làm thức tỉnh" hành vi của đối tượng, định hướng hoạt động của đối tượng
và xã hội. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo bằng đề ra đường lối
chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [39, tr. 720]. Còn hoạt động

quản lý mang tính chất điều khiển vận hành thông qua những thiết chế có
tính pháp lệnh, quy định từ trước.
Ở cả hai cương vị, người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý đều
phải là người giỏi nghiệp vụ chuyên môn, phải có đủ năng lực và phẩm
chất để định hướng điều khiển chỉ huy, tổ chức công việc và đoàn kết cộng
đồng.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cán bộ phải là những người "có nhiều
trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một chút... và
kiến thức rộng", đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và
lẽ sống của giai cấp vô sản. Theo V.I. Lênin, người cán bộ lãnh đạo quản lý
phải là những người:
Thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt
và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung
thành với chủ nghĩa xã hội, lại vừa có năng lực lặng lẽ... tổ chức
công tác chung vững chắc và nhịp nhàng... chỉ có những người
như thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo quản lý
[28, tr. 509].
Hồ Chí Minh căn dặn: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải
có con người xã hội chủ nghĩa và tư tưởng xã hội chủ nghĩa" [34, tr. 159].
Trong sự nghiệp cách mạng có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc. Song
người luôn coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [34, tr. 269]; "muôn
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [34, tr. 240].


15

Nếu có cán bộ tốt, ngang tầm thì việc xây dựng đường lối chính
sách sẽ đúng đắn và điều kiện tiên quyết đẻ đưa sự nghiệp cách mạng thắng
lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì cho dù có đường lối, chính sách đúng
thì khó có thể trở thành hiện thực. Muốn biến đường lối, chính sách thành

hiện thực; cần phải có những người cán bộ cách mạng thực sự bằng lý luận
và năng lực thực tiễn của mình kết hợp với quần chúng nhân dân để tổ chức
thành công sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [34, tr. 260]. Người cán bộ không chỉ
dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm lẻ tẻ, rời rạc mà sau mỗi việc đã làm
phải biết tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận để lý luận lại
chỉ đường, dẫn lối cho hoạt động thực tiễn của người cán bộ.
Bên cạnh tư chất và tài năng, đòi hỏi người cán bộ lãnh độ, quản lý
phải trau dồi chủ nghĩa tập thể chống chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu cửa
quyền hách dịch, đặc quyền đặc lợi; luôn gương mẫu, trung thực, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải gắn bó với nhân dân, giữ đúng lời
hứa với dân, luôn khiêm tốn và ham học hỏi. Những phẩm chất đạo đức đó
không phải từ trên trời rơi xuống, không phải là bẩm sinh, nhưng cũng
không thể không vươn tới được. Nó là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn
luyện bền bỉ lâu dài của mỗi người. Do đó, người cán bộ phải phấn đấu vừa
"hồng" vừa "chuyên", tiêu biểu mẫu mực trước quần chúng nhân dân. Để
làm được điều đó đòi hỏi người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng và có
đạo đức tốt: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư".
Ngày nay, đất nước ta đang tiếp tục thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là thời kỳ có nhiều thay đổi và có vận hội


16

mới, đồng thời cũng không ít những nguy cơ và thử thách. Song mục tiêu
đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền

kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa...,
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại [14, tr. 89].
Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp xã
càng ngày càng quan trọng thể hiện trong mọi mặt của sự nghiệp đổi mới
đất nước. Từ việc củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đảm bảo cho các chi bộ, Đảng bộ là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị ở mỗi cấp, lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân... đến những công việc
cụ thể của quá trình lãnh đạo như: nắm bắt và cụ thể hóa các đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với tình hình thực
tiễn ở từng địa phương, từng sở, ban ngành; đề ra kế hoạch, lãnh đạo quản
lý để mọi người thực hiện. Đồng thời, người lãnh đạo, quản lý phải biết
uốn nắn những sai lệch trong quá trình thực hiện thuộc phạm vi, quyền hạn
của mình, tổng kết phong trào, phản hồi lại các cơ quan đơn vị (nếu cần),
đảm bảo sự lãnh đạo thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
Đặc biệt, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn là một nội dung quan trọng, tất yếu khách quan của quá trình


17

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đang đặt ra nhiều thử thách, đòi
hỏi đội ngũ cán bộ phải có những phẩm chất, tri thức mới đáp ứng nhiệm

vụ cách mạng: từ việc thực hiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo
hướng công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, tiếp thu và áp dụng phương thức
quản lý tiên tiến, thành tựu khoa học - công nghệ mới, kết hợp công nghệ
truyền thống và công nghệ hiện đại đến việc cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ
tầng, quy hoạch dân cư và vùng lãnh thổ, phát triển công tác giáo dục, đào
tạo...
Để có được những phẩm chất và năng lực đó, người cán bộ không
những thông qua hoạt động thực tiễn "lăn lộn" trong phong trào cách mạng
đồng thời còn là kết quả của công tác cán bộ của Đảng. Sự phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ có thể tạo ra những cán bộ giỏi có tài có đức thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức,
cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật, cần phải học lý luận Mác - Lênin
kết hợp với đấu tranh công tác hàng ngày" [33, tr. 461].
Đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ, chất
lượng cán bộ. Công việc này gồm nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong
đó việc đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho
người cán bộ có phương pháp nhận thức đúng đắn sự vật, đề ra kế hoạch,
định hướng và biện pháp thực hiện khoa học và hiệu quả. Vai trò của thế
giới quan duy vật biện chứng đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà
Nam được thể hiện một số mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ
lãnh đạo, quản lý nâng cao năng lực nhận thức; đề ra chủ trương, chính
sách phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế ở địa bàn.


18

Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương

pháp biện chứng làm việc và nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng. Nó
xác lập và tạo niềm tin cho lập trường của người cán bộ, bác bỏ những
quan điểm sai lầm của thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ ngày càng
đi sâu vào bản chất sự vật, nắm bắt được cái phổ biến tất yếu, những mối
liên hệ ẩn giấu đằng sau các sự kiện riêng biệt. Từ đó giúp họ thấy được
quy luật, nguồn gốc, xu hướng, phương thức vận động, biến đổi, phát triển
của sự vật hiện tượng. Đồng thời, thế giới quan duy vật biện chứng cũng
tạo cho họ có khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng và khái quát. Nhờ
vào khả năng phân tích mà họ có thể thấy được cơ cấu bên trong, tính chất,
chức năng của các bộ phận, yếu tố. Trên cơ sở đó với phương pháp tổng
hợp, người cán bộ biết liên kết, thống nhất lại các bộ phận yếu tố đã phân
tích, vạch ra mối liên hệ của chúng nhằm nhận thức cái toàn thể trong tính
muôn vẻ của nó, giúp cho người cán bộ nắm bắt sâu sắc bản chất, quy luật
của sự vật, hiện tượng. Năng lực trừu tượng giúp người cán bộ biết gạt bỏ
những mặt, yếu tố không cơ bản nào đó trong tổng thể phong phú của sự
vật mà nắm được cái bản chất có tính quy luật của nó. Năng lực khái quát
giúp cho cán bộ nắm được đặc tính chung từ những vấn đề nhưng việc nắm
vững vấn đề lý luận chung sẽ là tiền đề, phương pháp tốt nhất để giải quyết
những vấn đề cụ thể. V.I. Lênin viết:
Người nào bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng, trước
khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ
không sao tránh khỏi, vấp phải những vấn đề chung một cách
không tự giác mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng
trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến
chỗ có những dao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc [25, tr.
427].


19


Thế giới quan duy vật biện chứng cũng nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Người cán bộ mà dừng lại ở tư
duy kinh nghiệm, tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm, như vậy sẽ không thể không rơi vào thế giới quan duy vật và phương
pháp tư duy siêu hình, tuyệt đối hóa cái cụ thể, cái đơn nhất đem áp dụng
nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn thể. Chỉ có trên cơ sở trang bị thế
giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng cao được trình độ,
năng lực tư duy của mình từ kinh nghiệm phát triển lên lý luận khoa học,
mới có đủ điều kiện đảm bảo để khám phá, đi sâu vào bản chất sự vật, quy
luật vận động phát triển của nó.
Đồng thời, nâng cao tư duy lý luận sẽ giúp người cán bộ quản lý
tránh khỏi lúng túng, bất lực, nắm bắt được tình hình nhanh chóng, ra được
quyết định nhanh đúng và trúng.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay với những diễn biến phức
tạp, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau, càng đòi hỏi không ngừng nâng
cao trình độ lý luận, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước vào thực tiễn, tình huống cụ thể. Đồng thời, đòi hỏi người cán bộ
phải nhạy bén, linh hoạt, tinh thần dám nghĩ dám làm, đấu tranh với những
hủ tục, lạc hậu tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ phát triển.
Thứ hai: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ
lãnh đạo, quản lý có được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội,
tin vào đường lối chính trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân.
Việc nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ
thế giới quan khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng đắn hiện thực khách
quan của thời đại của đất nước, với tất cả những mối quan hệ giai cấp, dân
tộc, những tương quan lực lượng cụ thể trong thời kỳ lịch sử nhất định.
Đồng thời, nó vạch ra lực lượng cách mạng, tiến bộ và quy luật con đường



20

của sự phát triển lịch sử. Trong thế giới quan duy vật biện chứng mà triết
học (bao gồm cả duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) cùng với các khoa
học khác đã khẳng định sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình
lịch sử tự nhiên với những quy luật nhất định. Từ đó, nó luận chứng về sự
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chế độ xã hội mới:
Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa mà giai cấp công nhân là Người
gánh vá sứ mệnh lịch sử đó. Nếu công lao Mác và Ăngghen đã đưa ra
những dự đoán thiên tài về một chế độ xã hội mới tốt đẹp thì Lênin bằng tài
năng vĩ đại của mình đã phát triển, vận dụng tư tưởng của Mác và Ăngghen
vào thực tiễn nước Nga và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra và thắng
lợi. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười cùng với sức mạnh và tính ưu
việt của Nhà nước công nông đầu tiên đã tạo ra điều kiện khách quan, chỗ
dựa vững chắc, nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với giai cấp vô sản và nhân dân
lao động trên khắp các châu lục trên con đường giải phóng dân tộc và tiến
lên xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã đóng góp to lớn cho việc
giữ gìn hòa bình, bình đẳng và tiến bộ xã hội, làm nức lòng triệu triệu trái tim
trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Giống như mặt trời chói lọi,
cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng
triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa
từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế" [5, tr.
67].
Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ và
chủ nghĩa đi vào thoái trào, nhưng đó chỉ là sự khủng hoảng trong sự
trưởng thành, nhất định loài người vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là qui
luật phù hợp với dòng chảy lịch sử.
Sự kiên định và phát triển con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn
cùng với những thành công trong công cuộc đổi mới, cải cách ở Việt Nam



21

và Trung Quốc đã càng củng cố lòng tin của nhân loại đối với tính ưu việt
và trường tồn của chủ nghĩa xã hội. Trong những thập kỷ gần đây, chủ
nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nào đó, do cuộc đấu tranh của nhân
dân lao động, do phải tồn tại bên cạnh hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực,
do tác động cuộc cách mạng khoa học, công nghệ... song xã hội đó vẫn
không làm thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa tư bản và lao động, giữa
người bóc lột và người bị bóc lột. Ở đó, năng suất lao động càng cao thì
bóc lột càng nhiều, đó là một sự thật hiển nhiên.
Việc thấm nhuần sâu sắc thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp
người cán bộ nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản, các quy luật
vận động khách quan của lịch sử để có niềm tin vững chắc, lãnh đạo toàn
dân đi lên chủ nghĩa xã hội.
Niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý được biểu hiện ở sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Tính khoa học và cách mạng của thế giới quan duy vật biện
chứng là cơ sở để hình thành và luận chứng cho đường lối chính trị của
Đảng. Từ đó người cán bộ lãnh đạo quản lý tiếp thu vạch ra đường lối
chiến lược và sách lược nhằm đạt mục đích là cải tạo thực hiện. Nó đối lập
hoàn toàn với bệnh bảo thủ, giáo điều, kinh viện…. Vì vậy, Mác viết: "Các
nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách hiểu khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" [29, tr. 258].
Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới gần 20 năm qua ở nước ta
từng bước nâng cao đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta càng rõ hơn.
Một trong những nguyên nhân của thắng lợi đó là Đảng ta đã biết tiếp thu
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào

điều kiện cách mạng Việt Nam mà linh hồn là phép biện chứng duy vật một nhân tố cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng. Lênin đã viết:


22

"Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong" [24, tr. 259].
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho người cán bộ lãnh
đạo, quản lý tin tưởng vào vai trò to lớn của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Họ là lực lượng quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng
xã hội. Với vũ khí lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân - đại
diện cho lực lượng tiến bộ tập hợp, giác ngộ, phát huy sức mạnh quần
chúng để cải tạo thế giới, thúc đẩy xã hội phát triển.
Với tính cách mạng và tính khoa học, thế giới quan duy vật biện
chứng đã giúp người cán bộ, lãnh đạo, quản lý có niềm tin sâu sắc vào chủ
nghĩa xã hội, tin vào sự lãnh đạo của giai cấp công nhân - thông qua đội
tiền phong là Đảng cộng sản, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng lao
động. Có như vậy thì nước ta mới thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ
lãnh đạo quản lý trong tỉnh nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút
kinh nghiệm định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo.
Tổng kết thực tiễn là những kết luận chung được rút ra sau khi kết
thúc, hoàn thành xong một công việc nào đất. Trong đó người cán bộ phải
thật khách quan, khoa học khi đánh giá kết luận, tìm ra những nguyên nhân
thành công và thất bại ở mỗi công việc. Trên cơ sở ấy rút ra được những tri
thức, hiểu biết mới tức là tri thức kinh nghiệm để định hướng cho hoạt
động thực tiễn tiếp theo.
Có thể nói, hoạt động của con người nói chung và người cán bộ
lãnh đạo quản lý nói riêng rất cần tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh

nghiệm đã giúp cho người cán bộ trong thời gian qua giải quyết được nhiều
vấn đề cụ thể, đơn giản đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ cơ sở. Nhưng chỉ


23

dừng lại ở tri thức kinh nghiệm thì sẽ lại khó tránh khỏi lúng túng, bất lực
thậm chí sai lầm khi giải quyết những vấn đề phức tạp trước yêu cầu của
thời kỳ mới. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi giải quyết công
việc phối kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý giữa kinh nghiệm với lý luận khoa
học, phải nắm vững nguyên lý, yêu cầu của thế giới khách quan, phải nắm
bắt thực tiễn những vấn đề cần tổng kết, phân tích, tổng hợp, chắt lọc
những thông tin cơ bản, chủ yếu để đút rút ra bài học kinh nghiệm kết hợp
với tri thức lý luận khoa học nhằm giải quyết công việc có hiệu quả. Đó là
nhiệm vụ thường xuyên mà người cán bộ lãnh đạo quản lý cần làm. Chỉ
trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng người cán bộ mới tổng kết thực
tiễn đút rút kinh nghiệm một cách khoa học, kịp thời phát hiện ra cái mới,
cái tiến bộ và tạo điều kiện cho chúng phát triển. Những kinh nghiệm được
rút ra đó không chỉ phù hợp với thực tế khách quan phong phú và đa dạng
mà nó còn có tác dụng mạnh mẽ điều chỉnh bổ sung cho các đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và những chiến
lược, sách lược cho địa phương mình phụ trách nói riêng.
Thứ tư: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ
lãnh đạo, quản lý trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
Thế giới quan duy tâm và phản động phản ánh sau lệch hiện thực khách
quan, bảo vệ lợi ích giai cấp bóc lột và đánh lạc hướng nhằm ngăn cản
nhân dân lao động đấu tranh tự giải phóng mình. Ngược lại, thế giới quan
duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và bảo vệ lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó là vũ khí lý luận
sắc bén, là kim chỉ nam soi đường cho giai cấp công nhân lãnh đạo nhân

dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh giải phóng
khỏi bị bóc lột và nô dịch, tiến lên xây dựng một xã hội văn minh và nhân
đạo hơn: Xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.


24

Đó là xã hội mà quan hệ giữa người với người là hợp tác, bình đẳng, tương
thân tương ái.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và thế giới quan duy vật biện
chứng nói riêng đã kế thừa tất cả những giá trị tư tưởng văn hóa của nhân
loại đã có từ trước, nó luôn luôn gắn liền với thực tiễn của phong trào cách
mạng, thực tiễn vận động của lịch sử, của sự phát triển của khoa học kỹ
thuật với cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống lại các học thuyết tư sản,
các loại chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cải lương, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.
Nó là học thuyết về sự phát triển nhằm định hướng cho con người vươn tới
cái tự do, thoát khỏi sự thống trị của tự nhiên và thống trị của con người
với con người. Đó là tính nhân văn cao cả của thế giới quan duy vật biện
chứng.
Mặt khác, thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là phương
thức định hướng con người trong thế giới, phương thức cải tạo hiện thực
mà còn là phương thức để con người tự ý thức hoàn thiện về bản thân
mình. Tự ý thức là sự đánh giá bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống
là điều kiện quan trọng nhất để con người phải dựa vào ý thức, hành động
theo định hướng chung của xã hội và những quan niệm giá trị của mình. Nó
là cơ sở để điều chỉnh các hành vi tích cực của mình trong các quan hệ xã
hội. Chính tự ý thức là một nhân tố mà con người ngày một phát triển hoàn
thiện nhân cách và đạo đức cá nhân.
Như vậy, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng là một bộ phận không

thể thiếu của cán bộ, lãnh đạo do tự giáo dục và rèn luyện mà có. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, càng luyện càng trong" [34, tr. 327].


25

Từ đó, Người chỉ ra đạo đức cơ bản của người cán bộ đó là: Cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đạo đức phải đặc biệt quan tâm,
nhất là đối với cán bộ, đảng viên. Chúng ta vui mừng trước những thành
tựu đạt được trong công cuộc đổi mới, tuy nhiên nền kinh tế thị trường,
giao lưu mở cửa với bên ngoài thì mặt trái của nó đang đặt ra những vấn đề
đạo đức bức xúc, cần giải quyết. Nền văn minh hiện cũng cần đạo đức
tương ứng. Đạo đức ấy không tìm ở đâu khác, mà nền tảng của nó chính là
là học tập thế giới quan duy vật biện chứng và tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, bệnh kiêu ngạo, quan liêu, óc địa phương
hẹp hòi, tham ô lãng phí, hiếu danh, chạy theo đồng tiền, bất chấp nhân
phẩm con người... phải có trách nhiệm với nhân dân, với Tổ quốc, có như vậy
mới được dân tin và lôi kéo họ vào sự nghiệp cách mạng.
Yêu cầu của thời kỳ mới ở nước ta đòi hỏi người cán bộ phải có
phẩm chất đạo đức và trình độ năng lực tương ứng. Việc giáo dục, bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho người cán bộ tin tưởng
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tin vào sự nghiệp lãnh đạo của
Đảng, của giai cấp công nhân và sức mạnh của toàn dân, giúp họ nâng cao
năng lực nhận thức, hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng hình thành ở họ
những phẩm chất đạo đức mới, nhằm thực hiện thắng lợi giai đoạn cách
mạng mới đặt ra. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải học tập,
nghiên cứu nguyên tắc, phương pháp luận khoa học của thế giới quan duy

vật biện chứng, đồng thời Đảng phải tăng cường công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẾ GIỚI QUAN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TỈNH
HÀ NAM


×