Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI của TỈNH hải DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 91 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một dạng đầu tư quan trọng trong
nền kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là các các quốc gia đang phát triển.
Đối với nước ta kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời, FDI đã góp
phần đáng kể trong tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong 10 năm (19912000) đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực hiện được khoảng
15 tỷ USD chiếm 1/4 tổng đầu tư toàn xã hội, thu hút trên 30 vạn lao động,
riêng 5 năm (1995-2000) tạo ra 22% kim ngạch xuất khẩu, 10% GDP. Như
vậy, FDI đã đóng góp không nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn
vốn, chuyển giao công nghệ, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm. Tuy nhiên,
cho đến nay do hậu quả của khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, FDI có
chiều hướng giảm sút, điều đó đòi hỏi phải tăng cường tính hấp dẫn của các
giải pháp thu hút. Là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Hải
Dương có vị trí và một số thế mạnh nhất định trong thu hút FDI, như đội
ngũ lao động trẻ đông đảo, điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi, nằm giữa
hai thành phố lớn (và hai trung tâm kinh tế của cả nước) đó là Hà Nội và
Hải Phòng. Hải Dương cũng là một tỉnh có sự chuyển dịch cơ cấu sớm, quá
trình CNH, HĐH đang được thúc đẩy, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Tuy nhiên trong những năm vừa qua, việc thu hút FDI trên địa bàn
tỉnh Hải Dương còn hết sức hạn chế cả về số lượng, cũng như quy mô cơ
cấu dự án. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chế biến nông
sản, thực phẩm là lĩnh vực rất cần thiết phải thu hút đầu tư, song về cơ cấu
mới chiếm 7,3% tổng vốn đầu tư.

1


Nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh từ nay đến năm 2010 đang đặt ra
những vấn đề cấp bách. Theo tính toán của tỉnh, để phát triển, từ nay đến


năm 2010 cần một lượng vốn rất lớn, song khả năng chỉ có thể đáp ứng
được 43% nhu cầu, số còn lại 57% phải huy động từ nguồn bên ngoài trong
đó có nguồn quan trọng là FDI.
Vì vậy việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường
thu hút FDI đối với tỉnh trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do lựa chọn đề
tài ''Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương'' làm đề tài luận
văn thạc sĩ khoa học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước đã có nhiều
công trình nghiên cứu và được công bố, chẳng hạn như:
- Nguyễn Huy Thám: Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
của các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh
tế, Hà Nội, 1999.
- Phan Hy: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh,
luận án thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 1996.
- Lê Xuân Trinh: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khu
công nghiệp, Tạp chí Cộng sản, số 1/1998.
- Thúy Hương: Tổng quan đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
11 năm qua và năm 1998, Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 tháng 2/1999.
Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan
trọng, làm rõ tính hai mặt của FDI, đề xuất các chính sách, giải pháp cốt lõi
của nhà nước đối với việc thu hút FDI vào nước ta.
Vấn đề thu hút FDI của Hải Dương cho đến nay chưa được nghiên
cứu một cách đầy đủ, thường mới được đề cập ở mức độ các báo cáo của
các cơ quan chức năng. Chẳng hạn như:

2


- Báo cáo công tác đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương,

Sở Kế hoạch và Đầu tư, 28/02/1997.
- Báo cáo đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, Ban kinh tế Tỉnh ủy,
10/04/1997.
- Báo cáo đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
14/01/1998.
- Tóm tắt kết quả triển khai đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh, Sở Kế
hoạch và Đầu tư, 20/03/1998.
- Báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương,
Sở Kế hoạch và Đầu tư, 18/05/1999.
- Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài, tại cuộc gặp mặt
các nhà đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, ngày 10/06/1999.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào phân tích một cách toàn diện,
đầy đủ, sâu sắc vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở phân tích vai trò, thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
của tỉnh, vạch ra những mặt được, mặt chưa được, luận văn đề xuất những
định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Hải Dương.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là:
- Đánh giá vai trò của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của Hải Dương.
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
tỉnh trong thời gian qua và những vấn đề cấp bách đang đặt ra.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3


- Nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải
Dương từ năm 1990 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Kết hợp lý luận, quan điểm đường lối của Đảng với thực tiễn địa
phương để lý giải những vấn đề mà chủ đề đặt ra.
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh thu hút
FDI giữa các địa bàn trong tỉnh cũng như Hải Dương với một số tỉnh
khác... để làm rõ tính đặc thù của tỉnh.
6. Ý nghĩa của luận văn
Qua nghiên cứu, luận văn đề xuất những định hướng cơ bản và giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Hải
Dương và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy
nghiên cứu về FDI cũng như đối với cơ quan hoạch định chính sách đối
ngoại của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia làm 3 chương 6 tiết

4


Chương 1
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
ĐỐI VỚI HẢI DƯƠNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐỐI VỚI VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI

1.1. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA ĐẤT NƯỚC NÓI CHUNG VÀ TỈNH HẢI DƯƠNG NÓI RIÊNG

1.1.1. Một số vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai
trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
Vốn đầu tư là một yếu tố cực kỳ cần thiết để mở rộng quy mô và đổi
mới công nghệ của các hoạt động kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy tất cả
các quốc gia đang phát triển đều thiếu vốn đầu tư để thực hiện quá trình
CNH, HĐH. Nếu không có nguồn vốn lớn và công nghệ cao thì không thể
khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước.
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau.
Vốn chính phủ và các tổ chức quốc tế, có thể là viện trợ không hoàn lại,
vốn cho vay ngắn hạn, vốn lãi suất ưu đãi hoặc cho vay với lãi suất thông
thường. Vốn của các tổ chức xã hội (các cơ quan phi chính phủ) thường là
các khoản tiền viện trợ mang tính chất nhân đạo cho các hoạt động y tế,
giáo dục, khắc phục hậu quả thiên tai và nói chung nó không được tính vào
các hoạt động đầu tư. Vốn tư nhân bao gồm vốn của người nước ngoài và
vốn của người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện đầu tư trực tiếp vào một
dự án cụ thể [21, 9].

5


Đầu tư nước ngoài hay còn gọi là đầu tư quốc tế (xuất khẩu tư bản)
là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Vốn đó có thể là vốn Nhà nước, vốn tư nhân (còn gọi là các nhà
đầu tư) hoặc vốn của các tổ chức tài chính quốc tế.
Vốn đầu tư nước ngoài có thể đóng góp dưới các dạng tiền tệ (ngoại
tệ, nội tệ), các vật thể hữu hình (hàng hóa, tư liệu sản xuất, nhà xưởng, tài
nguyên thiên nhiên) hoặc các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ

phiếu, trái phiếu và các chứng khoán có giá khác.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn
đối với nền kinh tế thế giới và là một đặc trưng kinh tế của CNTB. Trong
tác phẩm chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của CNTB, Lênin cũng đã
chỉ rõ việc xuất khẩu giá trị nhằm thu được giá trị thặng dư ở ngoài biên
giới quốc gia (xuất khẩu tư bản) đã trở thành một đặc trưng kinh tế của
CNTB khi bước sang giai đoạn CNTB độc quyền [30]. Điều đó khẳng định
sự xuất hiện và gia tăng đầu tư nước ngoài là một tất yếu kinh tế gắn liền
với sự phát triển LLSX và quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới.
Vốn ĐTNN được biểu hiện ở một số dạng cơ bản sau:
- Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Official Development
Assistance) gọi tắt là ODA. Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc
đa phương với một tỷ lệ là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu lãi
suất thấp, còn thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào từng dự án. Đây cũng là
nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua các tổ chức quốc tế, tổ chức liên Chính phủ, phi Chính phủ, hoặc là nguồn
ODA hỗn hợp bao gồm một phần của Chính phủ nước ngoài, một phần do
các doanh nghiệp hoặc tổ chức phi Chính phủ đóng góp. Vốn ODA có thể
đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính trị hoặc nơi chi tiêu, mua sắm.
- Vốn FDI (Foreign Direct Investment): là nguồn vốn đầu tư chủ yếu
của tư nhân, một phần của Nhà nước đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm
6


kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ngay tại nước
nhận đầu tư.
- Nguồn vốn tín dụng thương mại: Là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ
trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước và theo
một nghĩa nào đó thì đây cũng là hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài.
- Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, đây được coi

là nguồn vốn mà trong nước muốn thu về thông qua hoạt động bán các loại
giấy tờ có mệnh giá cho người nước ngoài. Có nước coi việc mua chứng
khoán cũng là hoạt động đầu tư trực tiếp.
Bốn nguồn vốn kể trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng
quan trọng và chiếm tỷ lệ cao trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn
ODA và nguồn FDI, trong đó ODA là loại đầu tư gián tiếp còn FDI thuộc
loại đầu tư trực tiếp. Nếu một nước đang phát triển không nhận được vốn
ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thì
cũng khó có thể thu hút được vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng để sản
xuất kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn vốn ODA mà không
tìm cách thu hút các nguồn FDI và các nguồn tín dụng khác thì Chính phủ
sẽ không có đủ thu nhập trả nợ cho các nguồn vốn vay ODA.
Kinh nghiệm thành công trong kinh tế của một số nước cho thấy cần
có chính sách huy động vốn trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu
quả nguồn ODA cho các dự án, mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu
và thu hút FDI sau này, trong đó vấn đề mang tính quyết định là tính chủ
động của nước tiếp nhận vốn vay. Việc sử dụng vốn ODA không đúng dễ
dẫn đến phụ thuộc vào nước cho vay không chỉ về kinh tế mà có khi cả về
chính trị. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm thêm nguồn vốn ĐTNN khác ngoài
ODA, và FDI đã là một trong những nguồn được ưu tiên lựa chọn.

7


FDI, một hình thức hợp tác kinh doanh quốc tế phổ biến hiện nay,
được hiểu một cách khái quát đó là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư
nước ngoài bỏ vốn để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận
đầu tư, nhờ đó cho phép họ có quyền quản lý, điều hành đối tượng mà họ
bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những hoạt động đầu
tư đó [49, 12].

Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996), thì FDI là việc
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ
tài sản nào để tiến hành đầu tư theo quy định của luật này [29, 6].
Đặc điểm nổi bật của FDI là các nhà ĐTNN tự kiểm soát hoạt động
và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình, mục tiêu
chính của các nhà đầu tư trực tiếp là tối đa hóa lợi nhuận. Trong các doanh
nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh thì lãi hoặc lỗ được
chia theo tỉ lệ góp vốn (theo vốn pháp định) sau khi đã nộp thuế cho nước
chủ nhà. FDI có thế mạnh và đặc điểm riêng của nó, ít lệ thuộc vào mối
quan hệ chính trị giữa hai bên, mức độ khả thi của dự án cao, quyền lợi các
bên gắn chặt với dự án.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, FDI có vai trò quan
trọng. Vai trò đó được biểu hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất: FDI cung cấp một nguồn vốn bù đắp sự thiếu hụt của
nguồn vốn trong nước. Trong mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư: Đầu
tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp, viện trợ, hỗ trợ phát
triển... thì đầu tư trong nước là nguồn đầu tư chủ yếu nhất đối với nền kinh
tế đất nước. Đó là một vấn đề có tính qui luật, song trong điều kiện nguồn
đầu tư trong nước đang gặp khó khăn thì vấn đề tranh thủ nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trên nguyên tắc bảo đảm chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc là
rất cần thiết. Ở nước ta, FDI trở thành nguồn vốn bổ sung đáp ứng nhu cầu

8


về vốn cho CNH, HĐH đất nước. Trong suốt thời kỳ 1995 - 1999 FDI đã
đóng góp bình quân (khoảng 27%/ năm) tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
(xem bảng 1).
Bảng 1: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 1995-1999
theo giá hiện hành phân theo nguồn vốn

Đơn vị tính: Tỷ đồng
1995

1996

1997

1998

1999

Tổng số

68.047,8 79.367,4 96.870,4 97.336,1 103.900,0

1- Vốn Nhà nước

26.047,8 35.894,4 46.570,4 52.536,1 64.000,0

+ Vốn ngân sách Nhà nước

13.575,0 16.544,2 20.570,4 22.208,9 26.000,0

- Trung ương

7.828,0

8.968,6

- Địa phương


5.747,0

7.575,6 10.709,1 12.132,4 10.000,0

+ Vốn tín dụng

3.064,0

8.280,0 12.700,0 10.214,8 19.000,0

+ Vốn tự có của các doanh
nghiệp Nhà nước

9.408,8 11.070,0 13.300,0 20.112,4 19.000,0

2- Vốn ngoài quốc doanh

9.861,3 10.076,5 16.000,0

20.000,0 20.773,0 20.000,0 20.500,0 21.000,0

3- Vốn đầu tư trực tiếp của 22.000,0 22.700,0 30.300,0 24.300,0 18.900,0
nước ngoài

Nguồn: [34].
Thực tế những năm qua FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc
cung cấp nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước với trên 15 tỷ
USD, chiếm 1/4 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Sau khủng hoảng tài chính
tiền tệ FDI vào nước ta có bị giảm sút song đây vẫn là một nguồn vốn quan

trọng. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến ngày 27-6-2000 vốn
đầu tư thực hiện tại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ước đạt
600 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu của các doanh nghiệp
FDI ước đạt 2,6 tỷ USD, tăng 33%; kim ngạch xuất khẩu đạt 1,592 tỷ USD,
tăng 36%; nhập khẩu 1,905 tỷ USD, tăng 27%. 6 tháng đầu năm 2000, có
53 dự án bổ sung vốn đầu tư 136 triệu USD. Như vậy FDI giúp Việt Nam

9


giải quyết một phần khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
[11, 4]
Thứ hai: Cùng với tiếp nhận FDI có thể tiếp thu công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến của các nước
đi trước thông qua các dự án đầu tư. Đứng về lâu dài đây chính là lợi ích
căn bản nhất đối với các nước nhận đầu tư, FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới
kỹ thuật công nghệ trong các nước nhận đầu tư, góp phần tăng sức sản xuất
của lao động, thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là đối với các
ngành kinh tế mới, có hàm lượng kỹ thuật cao, vì thế nó có vai trò lớn đối
với quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế nhanh ở
các nước nhận đầu tư. Mặc dù trong quá trình chuyển giao công nghệ hiện
đại còn có những mặt hạn chế do có những yếu tố khách quan và chủ quan
chi phối, song điều dễ dàng nhận thấy là chính nhờ có sự chuyển giao đó
mà các nước chủ nhà có được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và
năng lực Maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, bồi dưỡng về nhiều
mặt.
Thứ ba: Bước đầu tạo ra một số lượng lớn việc làm góp phần giải
quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến ngày 30-9-2000,
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho trên
335 nghìn lao động, những nước và khu vực có nhiều dự án đầu tư tại Việt

Nam cũng là những nước và khu vực dẫn đầu về tuyển dụng lao động Việt
Nam. Chỉ riêng số lao động trong các dự án đầu tư của Đài Loan, Hồng
Kông, Nhật, Hàn Quốc đã chiếm tới 71% tổng số lao động của toàn bộ khu
vực kinh tế này. Trong số đó các dự án của Hồng Kông sử dụng 74.500 lao
động, Hàn Quốc 67.900 lao động, Đài Loan 65.000 lao động [12]. Như vậy,
các dự án FDI góp phần tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới và tạo thêm nhiều
việc làm cho người lao động. Thu nhập của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối cao so với các khu vực khác, mức

10


lương tối thiểu từ 40 - 45 USD/ người/ tháng. Trong quá trình lao động tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động phát huy được
năng lực, vươn lên đảm nhận được những công việc có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao, có kinh nghiệm, quản lý giỏi, có uy tín đối với đối tác bên
ngoài.
Bốn là: FDI đã góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, từ đó
tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào thu
ngân sách Nhà nước. Từ năm 1995 - 1999 đã đóng góp và chiếm tỷ lệ trong
GDP khoảng từ 6,3% đến 11,75%/ năm (xem bảng 2).
Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành
phân theo thành phần kinh tế (1995 - 1999)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Thành phần kinh tế
Tổng số

1995

1996


1997

1998

1999

228.892 272.036 313.623 361.016 399.942

- Kinh tế Nhà nước

91.977 108.634 126.970 144.406 157.894

- Kinh tế tập thể

23.020

27.271

27.946

32.131

34.401

- Kinh tế tư nhân

7.139

9.103


10.590

12.325

13.574

- Kinh tế hỗn hợp

9.881

11.026

12.035

13.802

14.528

14.428

10.106

28.450

36.214

47.007

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài


Nguồn: [34, 21]
Với vai trò quan trọng của FDI, Đảng ta xác định: "Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam", và chiến lược
phát triển là:
"Hướng vào mục tiêu phát triển của các sản phẩm xuất khẩu, tăng
khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với
thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm" [19, 74, 25].

11


FDI có tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, song FDI
cũng có những mặt hạn chế. Đó là:
- Nguồn vốn do FDI mang lại cho nền kinh tế Việt Nam trên thực tế
do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của
mình nằm trong khuôn khổ pháp luật của nước chủ nhà.
- Nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở trong
luật pháp và trong quản lý để trốn thuế, gây tác hại đến môi trường sinh
thái và lợi ích của nền kinh tế.
- Việc chuyển giao kỹ thuật - công nghệ còn có nhiều tiêu cực như
chuyển giao từng phần, không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, máy móc thế hệ
cũ gây ô nhiễm lớn, giá cả cao hơn so với giá mặt bằng quốc tế (thường là
20%).
Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có những thuận
lợi, như tình hình chính trị - xã hội ổn định, chính sách và pháp luật về đầu
tư đã có những điều đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của các nhà đầu
tư nước ngoài. Với nguồn lao động dồi dào, có tay nghề và bản chất thông
minh, cần cù chịu khó, giá nhân công tương đối rẻ và nguồn tài nguyên
thiên nhiên đa dạng, phong phú. Đồng thời cũng cần nhìn nhận thấy những

khó khăn hạn chế để khắc phục nhằm tăng cường thu hút FDI như cơ sở hạ
tầng yếu kém, khả năng về thị trường nội địa còn hạn hẹp do một phần dân
cư đang có thu nhập thấp. Hệ thống tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng
còn bộc lộ những yếu kém chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của nền kinh tế
đang đổi mới theo cơ chế thị trường, hệ thống chính sách pháp luật, quản lý
chưa hoàn chỉnh, khả năng đầu tư của nước ngoài có giới hạn v.v...
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa chiến lược
đối với Việt Nam, có thể coi đó là một lĩnh vực quan trọng trong quan hệ
kinh tế đối ngoại. Song, trong những trường hợp nhất định, việc thu hút

12


vốn đầu tư trực tiếp không tránh khỏi những hạn chế, tiêu cực như công
nghệ nhập lạc hậu gây ô nhiễm, nhà đầu tư vi phạm Luật đầu tư, người lao
động bị bóc lột nặng nề, bị xúc phạm danh dự...
1.1.2. Hải Dương và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
- Đặc điểm tự nhiên, xã hội:
Hải Dương là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa
cảng Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Phòng.
Nằm ở trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ và địa bàn trọng điểm
phía Bắc, Hải Dương có khả năng phát triển kinh tế nhanh. Địa hình được
chia làm hai phần: phần đất núi (chiếm khoảng 10%), phần còn lại là đồng
bằng có độ cao trung bình 3 - 4m, đất đai bằng phẳng, màu mỡ phù hợp với
việc trồng cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Địa hình bằng
phẳng đã tạo cho tỉnh điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông, đường
quốc lộ số 5, 18, 183, nối liền các tỉnh phía Bắc với Hải Phòng và Quảng
Ninh, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng đi qua tỉnh là cầu nối giữa thủ đô Hà

Nội và các tỉnh phía Bắc ra biển. Sông ngòi của tỉnh khá dày đặc có khả
năng bồi đắp phù sa cho đồng bằng của tỉnh, đồng thời vận tải đường sông
cũng là điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hóa giữa Hải Dương và các
tỉnh khác trong vùng.
Cũng như các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Hải Dương nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, với 4 mùa rõ rệt. Lượng
mưa vào loại trung bình (1500-1700mm), nhiệt độ trung bình hàng năm là
230C, thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.

13


Diện tích tự nhiên của Hải Dương là 1.660,78 km 2, trong đó đất nông
nghiệp chiếm 59,52%, đất lâm nghiệp chiếm 7,3%, đất chuyên dùng 14,19%,
đất ở 6,25%, đất chưa sử dụng 14,03%, sông ngòi tự nhiên chiếm 11.055 ha.
Tuy tỉnh không có nhiều loại khoáng sản, song lại có một số khoáng
sản với giá trị kinh tế cao như: đá vôi, xi măng, có trữ lượng khoảng 200
triệu tấn đủ sản xuất 5-6 triệu tấn xi măng/ năm (Hiện nay sản lượng xi
măng Hải Dương sản xuất bằng 1/4 sản lượng xi măng cả nước). Cao lanh
40 vạn tấn, đất sét chịu lửa khoảng 8 triệu tấn.v.v. Đây là nguồn nguyên
liệu quý giá để phát triển công nghiệp [40,8].
Theo điều tra dân số năm 1999, dân số Hải Dương có 1.652.992
người. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 878.698 người,
trong đó tỷ lệ lao động phổ thông còn cao (khoảng hơn 80%), tỷ lệ lao
động kỹ thuật thấp so với mức trung bình của cả nước. Cán bộ khoa học - kỹ
thuật cũng đã được quan tâm đào tạo nhưng về phục vụ cho tỉnh chưa
nhiều. Lực lượng cán bộ quản lý hiện nay chưa có đủ kinh nghiệm để đáp
ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua số lao động
được thu hút vào làm việc trong các ngành kinh tế có tăng lên, song lao
động dư thừa vẫn còn nhiều (ước khoảng 10-13%). Nguồn lao động dư

thừa và chưa có trình độ ở mức cao như vậy là một vấn đề cấp bách đặt ra
cho toàn tỉnh trong giai đoạn tới. Cần tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng
cao trình độ nghề nghiệp (chất lượng lao động) cho người lao động, khuyến
khích đầu tư bằng mọi hình thức tạo thêm các ngành nghề để thu hút lực
lượng lao động dư thừa.
Nhìn chung, Hải Dương ở vào địa thế khá thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế - xã hội, phần lớn đất đai thuộc vùng đồng bằng, gần trung tâm
phát triển lớn của cả nước là Thủ đô Hà Nội, đồng thời cũng gần cảng biển
Hải Phòng, Cái Lân (Quảng Ninh) và các cảng hàng không Nội Bài (Hà Nội),

14


Cát Bi (Hải Phòng). Là tỉnh nằm trong địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế
phía Bắc, có các đỉnh là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Vì vậy, tỉnh có
điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường trong nước và trên thế giới.
Trong 10 năm qua Hải Dương đã tận dụng được lợi thế đó để thu hút
FDI, FDI đã giữ một vai trò quan trọng và có những tác động tích cực cho
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
- Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Hải Dương:
Năm 1990 đánh dấu bước mở đầu của việc hợp tác nước ngoài trên
địa bàn tỉnh bằng sự ra đời của liên doanh chế tác Kim cương (Việt Nam - Bỉ)
và liên doanh tơ lụa Việt - Triều. Trong những năm qua lĩnh vực này đã có
những bước phát triển quan trọng, bước đầu góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thể hiện
trên những lĩnh vực chủ yếu sau:
+ FDI đã góp một phần quan trọng khắc phục tình trạng thiếu vốn
cho nhu cầu CNH, HĐH của tỉnh: Mặc dù Hải Dương là một tỉnh được
đánh giá cao về kinh tế, song so với nhu cầu của sự phát triển thì tỷ lệ đầu

tư và tiết kiệm trên địa bàn còn rất thấp. Trong tổng đầu tư xây dựng,
nguồn FDI chiếm tỷ lệ năm cao nhất là 62,07% (1996) và năm thấp
nhất là 1,23%. Từ năm 1996 - 1999 FDI đã đóng góp trong tổng vốn đầu
tư xây dựng (bảng 3).
Bảng 3: Vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn của tỉnh Hải Dương
(phân theo hình thức quản lý).
Đơn vị tính: triệu đồng
Vốn đầu tư và xây dựng
Tổng số

1996

1997

1997

1999

1.439,002

1.272,063

1.542,932

4.442,767

15


- Trung ương


285,084

2.41,794

1.086,895

4.153,737

- Địa phương

260,672

260,109

257,332

234,494

- Đầu tư nước ngoài

893,246

770,160

198,805

54,533

Nguồn: [33, 109].

Mặc dù, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu
Á, nhịp độ thu hút vốn đầu tư vào địa bàn có giảm sút, song FDI đã bổ
sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khai thác nội lực về
vốn đất đai, lao động. Trong điều kiện vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn
hẹp, các doanh nghiệp Nhà nước còn có những khó khăn, nguồn vốn trong
dân chưa huy động được nhiều thì việc bổ sung được một lượng vốn FDI
cũng đã giải quyết và giảm bớt phần nào những khó khăn về vốn cho nhu
cầu phát triển kinh tế thực hiện CNH, HĐH.
+ FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh: Cơ cấu các
ngành trong GDP được chuyển dịch theo hướng phát triển công nghiệp,
dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, đây là hướng chuyển
dịch lành mạnh. Tuy nhiên, tỷ trọng các ngành nông, lâm nghiệp vẫn còn
cao trong khi đó công nghiệp chưa phát triển mạnh, làm cho tỷ trọng dịch
vụ trong GDP vẫn còn thấp. Trong những năm tới chuyển đổi cơ cấu theo
hướng CNH, HĐH là một mục tiêu cấp bách cho sự phát triển kinh tế của
tỉnh. Có thể thấy nhịp độ tăng trưởng và cơ cấu các ngành từ 1996 - 2000
qua các số liệu sau (xem bảng 4).
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu ngành kinh tế từ 1996 - 2000
Đơn vị
tính
- GDP (giá hiện hành)
- Nông, lâm nghiệp, thủy sản

1996

1997

1998

1999


Dự báo
2000

tỷ đồng

4.511

4.830

5.694

5.979

6.401

%

41,8

35,4

35,8

36,8

35,2

16



- Công nghiệp và xây dựng

%

33,9

36,6

35,7

35,0

36,6

- Dịch vụ

%

24,3

28,0

28,5

28,2

28,2

Nguồn: [33 ].

+ Bước đầu FDI tạo ra một khối lượng lớn việc làm, góp phần giải
quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Trong những năm qua FDI
đã thu hút khoảng 1.800 lao động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và
đặc biệt hai dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn tạo việc làm cho số
lao động nông nhàn của gần 1 vạn hộ nông dân và qua đó tăng thu nhập.
Mặt khác còn góp phần nâng cao tay nghề cũng như lối làm ăn công nghiệp
cho một bộ phận người lao động, đây là điều rất cần thiết cho sự nghiệp
CNH, HĐH của tỉnh.
+ FDI đã góp phần tạo sự tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, từ đó
tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Cùng với nguồn thu từ xuất khẩu, còn thu từ
các hoạt động dịch vụ, đóng góp vào tăng thu ngân sách Nhà nước. Tỉ lệ
thu ngân sách từ các doanh nghiệp FDI ngày một tăng góp phần giảm mức
bội chi, chủ động hơn trong cân đối ngân sách của tỉnh.
- Về nhu cầu thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế:
Trong 5 năm (1996-2000) kinh tế Hải Dương từng bước phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa, tiếp tục phát huy năng lực của các cấp, các
ngành, các thành phần kinh tế tập trung cho sản xuất, tạo nên mức tăng
trưởng khá. Phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và đã đạt được một số các chỉ tiêu như:
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm (1996-2000)
đạt 8,5%/ năm (cả nước 6,7%), kế hoạch là 12%/ năm (bình quân thời
kỳ 1991-1995 là 9,7%/ năm).

17


- Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân 14%/ năm.
Trong đó công nghiệp trung ương tăng 10,8 %/ năm. Công nghiệp địa phương
tăng 14,9 %/ năm. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 53,3 %/ năm.
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 12,6 %/ năm, thị trường

ổn định, hàng hóa phong phú, hoạt động mua bán thuận lợi, đáp ứng nhu
cầu sản xuất và đời sống.
- Kim ngạch xuất khẩu dự báo năm 2000 đạt 45 triệu USD tăng bình
quân 23 %/ năm (thời kỳ 1991 - 1995 tăng 15,5 %/ năm).
- Thu ngân sách bình quân tăng 7,8 % năm, (năm 2000 ước tính thu
trên 500 tỷ đồng). Chi ngân sách địa phương bình quân tăng 13,6 % năm.
Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước từ GDP đạt 9,2 %/năm [18, 2].
Bên cạnh những chỉ tiêu đạt được, nhìn chung lực lượng sản xuất các
ngành kinh tế của Hải Dương còn nhiều mặt hạn chế, như hiệu quả kinh tế
thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đạt được mục tiêu đề ra. Cụ
thể là:
- Cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, kinh tế hàng hóa phát triển chưa
đồng đều, việc hòa nhập với thị trường trong nước và nước ngoài còn nhiều
khó khăn. Sản xuất kinh doanh thiếu ổn định, sản phẩm cạnh tranh kém,
tiêu thụ còn khó khăn do sức mua thấp, thị trường chưa được ổn định.
- Nông nghiệp phát triển ổn định nhưng cơ cấu chuyển đổi chậm,
ngành nghề, dịch vụ trong nông thôn kém phát triển, một số tiến bộ kỹ
thuật chưa được áp dụng có hiệu quả trên diện rộng, sản phẩm qua chế biến
thấp, thu nhập bình quân trên một đơn vị diện tích chưa cao.
- Sản xuất công nghiệp có tốc độ phát triển khá, nhưng không ổn
định. Công nghiệp địa phương nhỏ bé về qui mô, trình độ công nghệ lạc hậu,
trang thiết bị chưa được đổi mới. Đặc biệt là đối với công nghiệp ngoài quốc
doanh còn tình trạng công nghệ quá lạc hậu, chắp vá, thiết bị hầu như chưa
18


được đổi mới. Đa số các cơ sở còn máy cũ kỹ, tân trang lại hoặc tự chế tạo mà
nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn, trong khi thủ tục vay vốn còn rườm rà.
Mặt khác, công việc nghiên cứu triển khai chưa được chú trọng đúng mức.
- Nhịp độ tăng trưởng công nghiệp trong tỉnh chưa đều và chưa ổn

định. Công nghiệp địa phương có qui mô nhỏ là chủ yếu, điểm xuất phát
thấp và hiệu quả chưa cao, công nghiệp quốc doanh chưa phát huy tốt vai trò
chủ đạo. Các hợp tác xã và các làng nghề tuy có được củng cố và khôi phục,
song còn chậm được đổi mới, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, tăng trưởng
chậm.
- Nguồn nhân lực công nghiệp tuy dồi dào nhưng trình độ nghề
nghiệp thấp, chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo chắp vá (kể cả lao động
quản lý), chưa có những chuyên gia đầu đàn ở từng lĩnh vực công nghiệp.
Thiếu cán bộ quản lý kinh doanh và các nhà doanh nghiệp giỏi là một khó
khăn lớn đang tồn tại.
- Cơ sở hạ tầng như (điện, nước, nhà xưởng, thông tin liên lạc...) còn
kém và chưa đồng bộ. Thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương
còn hạn hẹp và chưa ổn định, nông sản phục vụ cho công nghiệp chế biến
dồi dào nhưng còn phân tán. Cho đến nay công nghiệp của tỉnh đang đứng
trước những thử thách lớn.
- Chính sách thu hút vốn đầu tư:
Ngoài yếu tố thị trường và con người thì vốn đóng vai trò quan trọng
để phát triển công nghiệp. Vốn và công nghệ là hai vấn đề đi liền nhau. Để
thu hút được vốn đầu tư thì vấn đề quan trọng nhất phải bảo đảm cho các
nhà đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận mà họ mong muốn, còn tỉnh tiết kiệm
được đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chủ động trong việc xử lý ô nhiễm môi
trường, thuận lợi cho quản lý và điều hành.

19


- Lựa chọn những ngành chế biến phù hợp với điều kiện của tỉnh:
Hải Dương nằm cạnh Hà Nội và Hải Phòng là hai thành phố có công
nghiệp chế biến phát triển ở mức cao vì vậy việc lựa chọn ngành, sản phẩm
có triển vọng, xác định ngành mũi nhọn có qui mô thích hợp để đủ sức

cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong vùng, toàn quốc và quốc tế cần được
cân nhắc kỹ lưỡng [39, 17].
Để thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng
GDP bình quân đầu người đạt 8 - 8,5% năm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong 5 năm 2001 - 2005, dự kiến số vốn
đầu tư toàn tỉnh phải đạt tới là 14.500,16 tỷ đồng (giai đoạn 1996 - 2000 là:
11.771,93 tỷ đồng), đó là một chỉ tiêu đòi hỏi phải có cố gắng lớn.
Theo báo cáo của tỉnh trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 tổng mức
đầu tư trên địa bàn tỉnh thực hiện là 11.771,93 tỷ đồng, trong đó vốn địa
phương quản lý là 2.951,83 tỷ đồng chiếm 25,08%, vốn do Trung ương
quản lý là 8.820,10% tỷ đồng chiếm 74,92%, vốn nước ngoài 1.876,00 tỷ
đồng trong đó trực tiếp đầu tư là 1.736,00 tỷ đồng chiếm 92,54% và vốn
liên doanh là 140,00 tỷ đồng chiếm 7,46% [18].
Bảng 5: Nhu cầu vốn giai đoạn 1997 - 2020
Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng
Nhu cầu vốn

1997 - 2000

2001 - 2010

2010 - 2020

Tổng vốn

13,9

143,3

585,0


Công nghiệp

7,4

72,5

300,7

Nông nghiệp

2,4

13,4

36,1

Dịch vụ

4,1

57,4

248,2

Nguồn: [39].

20



Nhu cầu về vốn đầu tư có thể tính cho thời kỳ 1997 - 2000 khoảng
14 nghìn tỷ đồng, thời kỳ 2001 - 2010 hơn 143 nghìn tỷ đồng và thời kỳ
2011 - 2020 là 585 nghìn tỷ đồng (xem bảng 5)
Với nhu cầu vốn trên, khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội để thực hiện được quy hoạch tổng thể do tỉnh đề ra là một
vấn đề hết sức phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến phía cung, phía cầu
vốn, định chế chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ, trong đó vai trò
quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng. Nhu cầu vốn rất lớn, song
theo tính toán thì khả năng nguồn vốn tự có chỉ đáp ứng được khoảng 43%
so với nhu cầu, phần còn thiếu khoảng 57% phải huy động từ nhiều nguồn
khác nhau như vay vốn tín dụng, hợp tác liên doanh, kêu gọi các nước và
các tổ chức quốc tế hỗ trợ vốn ODA, FDI v.v... [39, 100].
1.2. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH THU HÚT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA HẢI DƯƠNG

1.2.1. Các nhân tố bên ngoài
Việc thu hút FDI vào Hải Dương là xuất phát từ nhu cầu tự thân, từ
chính yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời còn phù hợp
với xu thế chung của cả nước. Trong tình hình chính trị thế giới và xu thế
toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã phát triển với tốc độ khá cao trong những
năm gần đây, quy mô hoạt động thương mại đầu tư mở rộng nhanh chóng,
dòng vốn chu chuyển trở nên đa dạng. Mặc dù nền kinh tế thế giới chịu tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nhưng dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 2 năm 1998 - 1999 vẫn tăng, FDI của thế
giới năm 1998 tăng 40% so với năm 1997 và FDI năm 1999 tăng 25% so với
năm 1998 đạt gần 800 tỷ USD. Trong năm 1998 - 1999 những nước kinh tế
phát triển là những nước tiếp nhận được nguồn FDI nhiều nhất. Liên minh
châu Âu (EU) là một trong những khu vực tiếp nhận nhiều nhất vốn FDI của thế

21



giới (năm 1999 FDI vào EU đạt 280 - 290 tỷ USD), trong khi đó vốn FDI vào
các nước đang phát triển bị chậm lại. Năm 1998, tất cả các nước đang phát
triển nhận được 166 tỷ USD và khoảng 2/3 số vốn tập trung cho 10 nước. Trung
Quốc và Brazil là 2 nước nhận được nhiều nhất, riêng Trung Quốc chiếm tới
1/2 tổng số vốn cho các nước đang phát triển. Điều đáng quan tâm là Trung
Quốc không rơi vào khủng hoảng nhưng đầu tư vào Trung Quốc năm 1999 đã
giảm mạnh. Theo số liệu của Bộ hợp tác kinh tế và mậu dịch Trung Quốc, FDI
vào Trung Quốc năm 1998 là 45,5 tỷ USD, giảm đi vào năm 1999 và chỉ đạt
32,1 tỷ USD, nghĩa là giảm đi 10,5%. Xu hướng giảm sút dòng FDI tại Trung
Quốc phản ánh thực trạng đáng lo ngại đang xảy ra là nhiều doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả, tình trạng thất thoát vốn và nạn tham nhũng tràn lan.
Để tạo ra sự hấp dẫn các nhà đầu tư, Chính phủ Trung Quốc đã cải cách thể
chế, môi trường đầu tư.
Khu vực Đông Nam Á 1998 đã tiếp nhận 86 tỷ USD, nhưng năm
1999 theo đánh giá của UNTAD giảm 11% và chỉ đạt khoảng 78 tỷ USD.
Hầu hết các nước đều có mức tiếp nhận FDI thấp hơn năm trước, thí dụ
Malayxia giảm 27%, Singapore giảm 25%, Việt Nam giảm 40%, riêng
Indonexia nước gặp khó khăn nhất thì FDI không những không đổ vào mà
dòng vốn chảy ra ước tính là 356 triệu USD. Hai nước Hàn Quốc, Thái Lan
có tốc độ phục hồi kinh tế nhanh, do đó năm 1998 Hàn Quốc đã tiếp nhận
5,1 tỷ USD tăng gấp 4 lần so với mức trung bình hàng năm trong thời kỳ
đầu thập kỷ 90. FDI vào Thái Lan năm 1998 là 7 tỷ USD, cao gấp đôi năm
1997. Đánh giá chung năm 1998 FDI vào ASEAN là 18 tỷ USD, nhưng 6
tháng đầu năm 1999, khu vực này mới tiếp nhận được 6,2 tỷ USD. Như vậy
dòng FDI vào ASEAN năm 1999 đã giảm đáng kể [27, 67].
Trong bối cảnh xu hướng vận động của nguồn FDI tập trung vào các
nước công nghiệp phát triển, cùng với nhiều khó khăn gay gắt do thiên tai
và tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ, suy thoái kinh tế của khu

22


vực đã làm cho việc thu hút FDI trở nên khó khăn hơn. Bối cảnh đó đã tác
động cản trở thu hút FDI của nước ta trong thời gian qua.
Ở Việt Nam từ năm 1998 - 1999 cả nước đã có 2.800 dự án đầu tư
nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 37.088,4 triệu USD. Số dự án được
cấp giấy phép qua các năm (bảng 6).
Bảng 6: Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài
được cấp giấy phép 1988 - 1999 phân theo năm
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm

Số dự án

Tổng vốn đăng ký

Vốn pháp định

Tổng số
1988

2.800
37

37.088,4
317,8

17.048,1
288,4


1989
1990

68
108

582,5
839,0

311,5
407,5

1991
1992

151
197

1.322,3
2.165,0

663,6
1.418,0

1993
1994

269
343


2.900,0
3.765,6

1.468,5
1.729,9

1995
1996

370
325

6.530,8
8.497,3

2.986,6
2.940,8

1997
1998

345
275

345
3.897,0

2.334,4
1.805,8


1999

312

1.568,3

693,3

Nguồn: [33, 246]
Đến nay, các dự án có vốn FDI đã có mặt ở hầu khắp các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, nhưng phân bổ không đều trên phạm vi cả nước
(bảng 7).
Bảng 7: Số dự án đầu tư của nước ngoài
được cấp giấy phép 1988 - 1999 phân theo khu vực
Khu vực
Tổng số

Số dự án

Tổng vốn đăng ký

Vốn pháp định

2.766

35.382,2

16.221,4


23


Đồng bằng sông Hồng

629

10.469,1

5.225,0

Đông bắc

135

1.577,8

620,3

Tây bắc

10

54,1

18,4

Bắc trung bộ

45


847,2

335,7

Duyên hải nam trung bộ

147

2.701,2

1.459,4

58,8

31,1

18.802,6

8.074,5

871,4

457,0

Tây nguyên
Đông nam bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

9

1.636
155

Nguồn: [34, 249-250]
Số dự án FDI thu hút vào nước ta tăng lên qua các năm, nguồn FDI
lan dần từ các vùng trọng điểm và trung tâm kinh tế sang các vùng ngoại ô,
ngoại vi, vùng sâu, vùng xa, mở rộng dần từ lĩnh vực dịch vụ sang sản xuất
công nghiệp và nông nghiệp. Số vốn đầu tư trung bình trên một dự án cũng
tăng lên, và ngày càng có nhiều đối tác đầu tư lớn quan tâm đến thị trường
đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính, môi trường đầu tư
trong nước và khu vực đều xấu đi, nên FDI vào nước ta giảm đi rõ rệt, nhất
là năm 1998 giảm hơn 50% so với năm 1997, năm 1999 giảm 40% trong
tổng số FDI vào Việt Nam, phần của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư
về nước mới chiếm con số khiêm nhường khoảng dưới 200 triệu USD mà
chủ yếu giành cho mua sắm bất động sản, cho tiêu dùng cá nhân hay kinh
doanh dịch vụ.
Chính sự giảm sút về FDI đối với các nước đang phát triển châu Á
và Việt Nam trở thành nhân tố trở ngại đối với việc thu hút FDI của Hải
Dương. Tình hình đó đòi hỏi nước ta, trong đó có Hải Dương cần phải tiếp
tục đổi mới môi trường đầu tư để tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước
ngoài.

24


Việc thu hút FDI của Hải Dương có thuận lợi cơ bản là trong thời
gian qua, công cuộc đổi mới của nước ta được tiến hành trong môi trường
hòa bình ổn định, tạo tiền đề thời cơ thuận lợi cho việc tập trung sức lực và
trí tuệ vào xây dựng, phát triển kinh tế -xã hội. Sự chuyển đổi từ nền kinh
tế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng

XHCN, việc thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa và đặc biệt là việc ban
hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện dần, đang là môi trường thuận lợi cho thu hút FDI của tỉnh.
1.2.2 Các nhân tố bên trong
Quá trình thu hút FDI của Hải Dương chịu ảnh hưởng của những khó
khăn thuận lợi chung của cả nước, đồng thời còn bị tác động bởi chính
những nhân tố của tỉnh tạo nên, cụ thể là:
- Ảnh hưởng của vùng kinh tế Bắc Bộ:
Hải Dương là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
(Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long) và hành lang đường 18 có ảnh hưởng rất
lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trên các mặt như sau:
Khi vùng này phát triển với nhịp độ cao sẽ trở thành một thị trường
lao động to lớn để Hải Dương cân đối lao động của mình.
Hải Dương sẽ là một vệ tinh chế biến sản phẩm và cung cấp nguyên
liệu cho vùng.
Mức độ đô thị hóa phát triển nhanh, Hải Dương sẽ là một cơ sở cung
cấp lương thực, thực phẩm ổn định với chất lượng cao.
Vùng kinh tế này phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế- xã hội của Hải Dương trong những năm tới [39, 49]

25


×