Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Ly hôn ở đô thị thực trạng, nguyên nhân và hậu quả (nghiên cứu trường hợp thành phố tây ninh, tỉnh tây ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.07 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ KIM ANH

LY HÔN Ở ĐÔ THỊ:
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
THÀNH PHỐ TÂY NINH - TỈNH TÂY NINH)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ NGỌC VĂN

HÀ NỘI, năm 2016


Để hoàn thành được luận văn này, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Khoa Xã hội học, cơ sở học
viện tại thành phố Hồ Chí Minh và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học xã hội đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức mới về chuyên ngành Xã
hội học và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học tại
Học viện.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo PGS.TS. Lê Ngọc
Văn, một người thầy chân thành, trách nhiệm đã hướng dẫn tôi với tất cả lòng nhiệt
tình của người thầy giáo trong suốt quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh, Sở Văn


hoá - Thể thao và Du lịch tỉnh Tây Ninh, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh, Toà án
nhân dân thành phố Tây Ninh và Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình thành phố
Tây Ninh đã hỗ trợ cung cấp số liệu, thông tin và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn cơ quan nơi tôi công tác, đồng nghiệp, bạn bè, người
thân và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Tây Ninh, tháng 7 năm 2016
PHẠM THỊ KIM ANH


Học viên cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng học viên.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên

Phạm Thị Kim Anh


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi giáo dục, đào tạo nguồn lao động của đất
nước và hôn nhân là sợi dây gắn kết tạo nên gia đình. Tất cả các quốc gia trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều rất quan tâm đến vấn đề gia đình. Hôn
nhân bền vững sẽ tạo nên một gia đình hạnh phúc. Ngược lại, nếu hôn nhân không

bền vững thì sẽ tạo ra rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến gia đình, xã hội và cộng đồng.
Ly hôn là hiện tượng xã hội tiêu biểu cho hôn nhân không bền vững.
Ở phương Tây trong những thập kỷ gần đây, gia đình đang ở trong tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng với tỷ lệ ly hôn ngày một cao và nhiều hình thức thay đổi
của gia đình. Theo bảng số liệu “Ly hôn và tỉ lệ ly hôn thô " năm 2011 do Bộ phận
thống kê của Liên Hợp Quốc (UNSTAT) tổng hợp cho thấy tỷ lệ ly hôn trên toàn thế
giới rất cao, những nước có tỷ lệ ly hôn thô cao nhất thế giới là Belarus 4,1%, Nga
4,8%, Moldova 3,1%, Mỹ 3,6% [20]. Và hiện nay, một số nước ở Châu Á cũng được
chú ý vì tỉ lệ ly hôn tăng đáng kể như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,.... Theo
thống kê ở Mỹ năm 2014: có 813.862 vụ ly hôn và huỷ bỏ hôn ước so với 2.140.272
vụ kết hôn, tỉ lệ ly hôn thô ở Mỹ năm 2014 là 3,2% so với tỉ lệ kết hôn thô là 6,9%.
Như vậy tỉ lệ ly hôn chiếm gần phân nửa tỉ lệ kết hôn [19].
Việt Nam là nước có nền văn hoá với nhiều điểm khác biệt so với các nước
phương Tây, tuy đi sau cả trăm năm về sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và đô thị hoá nhưng cũng đối diện với các vấn đề của một xã hội đang phát triển theo
xu hướng của các nước phương Tây do ảnh hưởng văn hoá du nhập qua sự phát triển
hội nhập và mạng Internet,... Ở Việt Nam, ly hôn đang là một thực trạng đáng báo
động trong những năm gần đây. Trong báo cáo tổng kết năm 2006 của Tòa án nhân
dân tối cao về vấn đề hôn nhân và gia đình ở nước ta, tình trạng ly hôn có xu hướng
gia tăng từ năm này qua năm khác, đặc biệt là sau khi đất nước đổi mới. Nếu năm
1992, cả nước có 32.000 vụ ly hôn thì con số này tăng dần và đến năm 2006 là

5


69.523 vụ.
Ly hôn, một hiện tượng xã hội phức tạp, nó làm biến đổi hệ giá trị của gia
đình, làm cho xã hội nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Ly hôn được nhiều ngành
quan tâm, nghiên cứu, trong đó có ngành Xã hội học. Hiện tượng ly hôn là mặt trái
của hôn nhân một khi quan hệ hôn nhân tan vỡ. Tuy vậy, nó cũng có tính hai mặt:

vừa tích cực, vừa tiêu cực. Mặt tích cực là giải phóng cho mỗi cá nhân khi hôn nhân
thật sự tan vỡ, là cách giải thoát tốt nhất cho mỗi cá nhân. Nhưng mặt tiêu cực thì lúc
nào cũng nặng nề và để lại di chứng theo thời gian cho cá nhân trong cuộc và quan
trọng hơn hết là sự ảnh hưởng của nó đối với cả một xã hội đang phát triển. Gia đình
là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định sự bền vững của xã hội. Xây
dựng gia đình Việt Nam ít con, no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước ta trong giai đoạn mới hiện nay. Bên
cạnh đó, hiện tượng ly hôn đang là một thực trạng bức xúc của xã hội vì ly hôn là sự
chấm dứt quan hệ thân nhân vợ chồng, sự phân chia tài sản, nuôi dưỡng con cái,....và
một loạt vấn đề xảy ra sau ly hôn mà xã hội phải giải quyết cho các thế hệ thứ hai
như xu hướng không kết hôn của những cá nhân sống trong gia đình đổ vỡ, tình
trạng trẻ vị thành niên phạm tội trong các gia đình ly hôn tăng nhanh, trẻ bỏ học,
nghiện hút,.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tiến lên Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cả
nước trước những biến đổi to lớn, bên cạnh đó gia đình Việt Nam cũng có những
chuyển mình nhanh chóng theo cả xu hướng tích cực và tiêu cực. Biểu hiện cho sự
biến đổi đó là tỷ lệ ly hôn có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2001, tỷ lệ ly hôn thô
(CDR) ở Việt Nam là 0,69, đến năm 2005 tỷ lệ này là 0,80 và năm 2010 là 1,12, tăng
gần gấp đôi trong vòng 10 năm [18, pg. 114].
Hiện tượng ly hôn đang diễn ra ngày càng gia tăng không chỉ ở các thành phố lớn
mà nó còn diễn ra ở các tỉnh đang trên đà đô thị hoá. Trong quá trình phát triển và
đổi mới của đất nước, có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về hiện tượng ly

6


hôn ở đô thị, nông thôn, vùng cao và thực tế trong quá trình nghiên cứu xã hội học
cho thấy, mỗi vùng miền, mỗi địa phương, mỗi giai đoạn lịch sử làm nảy sinh những
nguyên nhân chính yếu khác nhau. Thành phố Tây Ninh thuộc tỉnh Tây Ninh - một
tỉnh nằm sát biên giới phía Tây của Việt Nam, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, đô thị hoá đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ tại đây. Bên cạnh
những thành tựu đạt được từ quá trình này như tăng trưởng kinh tế, các dịch vụ, cơ
sở hạ tầng phát triển, đời sống của người dân tăng lên, thành phố Tây Ninh cũng
đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, tội phạm
gia tăng, ly hôn, ... Từ thực tế những vấn đề xã hội đang gia tăng tại địa phương, bản
thân học viên muốn tìm hiểu vấn đề ly hôn ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
diễn ra theo chiều hướng nào, những nguyên nhân chính nào dẫn đến ly hôn và hậu
quả của ly hôn ra sao. Học viên quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Ly hôn ở đô thị:
thực trạng, nguyên nhân và hậu quả (nghiên cứu trường hợp thành phố Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh) " nhằm tìm hiểu rõ hơn về một khía cạnh xã hội tại địa phương học
viên đang sống.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
“Ly hôn " là một chủ đề không phải là mới mà đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều bài viết.
Ở phương Tây, với sự phát triển về kinh tế, chính trị và xã hội thì những
nghiên cứu về xã hội cũng rất được chú ý với những hình thức mới xảy ra trong xã
hội. Tỉ lệ ly hôn cao và những hình thức biến tướng của gia đình thu hút nhiều sự
nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội. Ở Mỹ, tính đến năm 2009, có tới 1.980 bài
viết đăng trên tạp chí khoa học xã hội có liên quan đến chủ đề ly hôn [6].
Năm 1977, Robert Chester tập hợp số liệu ly hôn trên 11 nước Châu Âu và
phân tích nguyên nhân dẫn đến ly hôn. Ông nhấn mạnh các lý do dẫn đến ly hôn rất
đặc biệt và không giống nhau ở nước này so với nước khác, nhưng có giá trị chung.
Trong số những yếu tố liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ ly hôn, có những yếu tố rất dễ

7


nhận biết như có thai trước hôn nhân, tuổi kết hôn quá sớm. Có yếu tố khó đo đếm
nhưng có giá trị như: khác tôn giáo, khác nguồn gốc gia đình tác động đến lối sống
khác nhau, chưa tìm hiểu kỹ trước khi kết hôn.

Trong cuốn sách của 02 nhà khoa học nữ Judith S.Wallerstein và Joan B.
Kelly (Mỹ), “Surviving the Breakup: How Children and Parents Cope with Divorce
”, Nxb Basic Books, 1980, tạm dịch “Còn sống sót sau cuộc chia tay: Làm thế nào
trẻ em và cha mẹ đối phó với ly hôn ” đã đưa ra một phân tích sắc sảo dưới góc độ
xã hội học, tâm lý học về ly hôn, đó là: những khó khăn, hạnh phúc sau ly hôn của
từng trường hợp ly hôn điển hình, khả năng tái hôn, thu nhập của vợ chồng sau ly
hôn, nhất là thái độ, cuộc sống của những đứa con sau ly hôn. Nhìn chung, ly hôn ở
các nước phát triển rất được quan tâm nghiên cứu và hiện nay họ vẫn đang tiếp tục
nghiên cứu để lý giải cho những hậu quả ảnh hưởng đến xã hội hiện đại.
Ở Việt Nam, từ khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển và hội nhập thì
các vấn đề của gia đình ngày càng bức thiết, trong đó có ly hôn đã được các nhà Xã
hội học quan tâm nghiên cứu từ những năm 90, đã có nhiều công trình được tiến
hành và công bố, cụ thể:
Nghiên cứu “Những gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng” do Viện Nghiên cứu
Gia đình và Giới thực hiện năm 1989. Nghiên cứu này đã phân tích thực trạng đời
sống kinh tế và tình cảm của người phụ nữ ly hôn, ly thân ở nông thôn miền núi phía
Bắc. Những bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này đã chỉ ra những khó
khăn về kinh tế như là nguyên nhân cơ bản dẫn đến ly hôn.
Nghiên cứu tiếp theo là “Nghiên cứu về quyền của phụ nữ trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986 và việc thực hiện quyền đó " do Trung ương Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam thực hiện năm 1994. Nghiên cứu này thống kê tình hình ly
hôn ở Việt Nam qua các số liệu của Toà án nhân dân tối cao; đồng thời phân tích
nguyên nhân ly hôn dựa trên 517 bộ hồ sơ ly hôn lưu trữ tại toà án thuộc 04 tỉnh,
thành phố (Hà Nội, Vĩnh Phú, Quảng Nam - Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh)

8


thời gian 02 năm 1993 - 1994. Dựa trên các hồ sơ này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
những nguyên nhân dẫn đến ly hôn do tính tình không hợp chiếm tỉ lệ cao nhất

(20,51%), tiếp đến là do khác biệt về nghề nghiệp và lý do ngoại tình chiếm tỉ lệ rất
thấp.
Năm 1998 - 1999, công trình “Nghiên cứu ly hôn - trường hợp Hà Nội " do
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện, đã khắc phục được hạn chế của những
nghiên cứu trước. Lần đầu tiên nghiên cứu này sử dụng các phương pháp thực
nghiệm trong nghiên cứu như thu thập các tài liệu thống kê, lập bảng hỏi, chọn mẫu
và tiến hành thu thập thông tin từ những đối tượng có liên quan đến ly hôn. Chính vì
vậy, những nguyên nhân thực tế được làm sáng rõ hơn.
Tháng 6/2008, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Quỹ nhi đồng Liên Hiệp
Quốc (UNICEF) tại Việt Nam đã công bố kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam năm
2006. Theo kết quả này thì hiện tượng ly hôn đang tăng lên, chủ yếu là do áp lực về
kinh tế, khác biệt về lối sống và sự không chung thuỷ của hai giới. Kết quả điều tra
cho thấy tỉ lệ ly hôn là 2,6% với lứa tuổi từ 18 - 60 và cao hơn ở thành thị (thành thị
là 3,3%, nông thôn là 2,6%) và tỷ lệ phụ nữ xin ly hôn cao gấp 02 lần so với nam
giới. Hầu hết trẻ em sau khi cha mẹ ly hôn đều sống với mẹ. Trong số những người
đã ly hôn, 27,7% cho biết lý do ly hôn là do mâu thuẫn về lối sống và 25,9% cho biết
nguyên nhân ly hôn là do ngoại tình, còn lại là do kinh tế (13%) và bạo lực gia đình
(6,7%) [2].
Trong các công trình nghiên cứu trên, chủ yếu đi sâu vào tìm hiểu nguyên
nhân ly hôn và tiến hành phân tích trên diện rộng, chưa phân tích sâu tới đặc điểm
của ly hôn (như: tuổi ly hôn, thời gian sống chung, sự khác biệt giữa nghề nghiệp
của vợ và chồng) và chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm ly hôn ở các
khu vực đô thị nói riêng. Vì thế, trong luận văn này, tôi muốn tập trung phân tích
những đặc điểm khác biệt giữa vợ và chồng dẫn đến ly hôn ở khu vực đô thị để thấy
rõ hơn bức tranh ly hôn đang diễn ra ở đô thị như thế nào.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của hiện tượng ly hôn; trên cơ
sở đó, nêu lên một số khuyến nghị nhằm củng cố sự bền vững của gia đình, giảm
thiểu ly hôn ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
1. Tổng quan nghiên cứu trong nước và trên thế giới liên quan đến đề tài
nhằm biết được những thành tựu và hạn chế của các công trình nghiên cứu đã có, từ
đó học viên có cơ sở xây dựng mục tiêu, nội dung, câu hỏi, giả thuyết, phương pháp,
lựa chọn lý thuyết nghiên cứu.
2. Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
3. Điều tra khảo sát thực tế, lấy số liệu thống kê liên quan đến đề tài.
4. Phân tích, đánh giá về thực trạng, nguyên nhân và hậu quả ly hôn trên địa
bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
5. Đưa ra một số khuyến nghị củng cố sự bền vững của gia đình, giảm tỷ lệ
ly hôn.
4. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng, những nguyên nhân thực tế và
hậu quả của ly hôn ở đô thị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
1. Phạm vi không gian
Luận văn nghiên cứu về các trường hợp ly hôn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh
Tây Ninh.

1
0



2. Phạm vi thời gian
Hiện tượng ly hôn được quan sát trong khoảng thời gian là 05 năm, từ năm
2011 đến năm 2015.
3. Phạm vi nội dung
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân và hậu quả ly hôn
tại thành phố Tây Ninh thuộc tỉnh Tây Ninh.
4.3. Khách thể nghiên cứu
Các hồ sơ ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh và những đối
tượng (cán bộ tòa án; hang xóm, người thân của người ly hôn; đối tượng đã ly hôn)
tham gia vào cuộc phỏng vấn sâu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Trong luận văn này, tôi sử dụng Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm phương pháp luận.
Hiện tượng ly hôn trong gia đình cần phải được xem xét trong mối quan hệ
với các hiện tượng khác như quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân; trong mối liên hệ với các nhân tố khác như nhóm xã hội, truyền
thông đại chúng và đồng thời cần phải xem xét từng trường hợp về điều kiện kinh tế,
văn hoá, chính trị xã hội của từng gia đình ở đô thị. Ngoài ra, chúng ta cũng phải
xem xét vấn đề đó trong một quá trình lịch sử cụ thể như tác động của truyền thống
văn hoá.
Việc giải thích các hiện tượng xã hội mang tính khách quan có nghĩa là khi
nghiên cứu hiện tượng ly hôn, chúng ta không nên áp đặt ý chủ quan của mình để kết
luận mà phải nghiên cứu, tìm hiểu bản chất bên trong của hiện tượng này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu.

1
1



Phân tích tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm thu thập những
thông tin và số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được
sử dụng làm phương pháp chính nhằm làm luận chứng cho lập luận đề ra. Tài liệu
phân tích gồm các hồ sơ ly hôn tại Toà án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh trong 05 năm (từ 2011 đến 2015). Cụ thể, tôi tiến hành đọc và phân tích toàn
bộ hồ sơ ly hôn trong vòng 01 tháng để:
+ Thống kê và phân tích về số liệu ly hôn của từng năm; về nguyên đơn ly
hơn; về tuổi ly hôn của phụ nữ và nam giới; về nghề nghiệp và học vấn của người ly
hôn và về độ dài của hôn nhân để nhằm tìm hiểu thực trạng ly hôn đang diễn ra như
thế nào và thực trạng này bị tác động từ đâu.
+ Đọc từng hồ sơ (trong Đơn xin ly hôn, trong Biên bản hoà giải, trong lời
khai của nguyên đơn và bị đơn, trong kết quả xác minh,...) để thống kê những
nguyên nhân thực sự dẫn đến ly hôn nhằm tìm ra những nguyên nhân nào tác động
nhiều nhất đến ly hôn.
+ Cũng qua hồ sơ ly hôn, tôi tiến hành phân tích những vấn đề có thể đặt ra
sau ly hôn cả về mặt tích cực cũng như tiêu cực nhằm giúp chúng ta thấy được
những hậu quả của gia đình sau ly hôn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
Cùng với việc phân tích các lý do mà các cặp ly hôn khai tại toà, tôi còn tham
khảo thêm ý kiến của người có quan hệ gần gũi với đối tượng ly hôn để thấy rõ hơn
nguyên nhân ly hôn và hậu quả sau ly hôn.
Ngoài ra, tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu 10 đối tượng đã ly hôn (trong đó có
05 nam và 05 nữ) nhằm thu thập thêm về nguyên nhân dẫn đến ly hôn để phục vụ
cho mục đích của luận văn này.
5.3. Câu hỏi nghiên cứu
1. Ly hôn ở thành phố Tây Ninh tỉnh Tây Ninh từ năm 2011 đến năm 2015
diễn ra như thế nào?


1
2


2. Những nguyên nhân nào dẫn đến ly hôn?
3. Ly hôn ảnh hưởng như thế nào đến các thành viên gia đình?
5.4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Ly hôn có chiều hướng gia tăng theo thời gian và xảy ra nhiều
hơn ở các cặp vợ chồng trẻ từ 25 đến 35 tuổi.
Giả thuyết 2: Khó khăn kinh tế, ngoại tình và bạo lực gia đình là những
nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn.
Giả thuyết 3: Phụ nữ và trẻ em là những người chịu hậu quả nặng nề của ly
hôn.
5.5. Khung phân tích

1
3


Các nguyên nhân của ly hôn xảy ra trong gia đình nảy sinh dưới tác động của
các yếu tố chủ quan và khách quan. Từ đó tạo ra hậu quả sau ly hôn (gồm hậu quả
pháp lý và hậu quả xã hội) và chúng tác động trở lại tới xã hội và đời sống của mỗi
cá nhân trong gia đình.

1
4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ khái niệm “Ly hôn ở đô thị ” và kiểm chứng tính
đúng đắn của các lý thuyết xung đột và lý thuyết hiện đại hoá liên quan đến ly hôn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn mang lại một sự hiểu biết tương đối có hệ thống về thực trạng, xu
hướng, nguyên nhân và hậu quả của ly hôn diễn ra trong các gia đình đô thị ở Tây
Ninh; cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan chức năng trong việc củng
cố sự bền vững của gia đình, giảm thiểu ly hôn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
thành 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Thực trạng ly hôn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Chương 3: Nguyên nhân và hậu quả ly hôn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

1
5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Gia đình
Gia đình là một khái niệm phức hợp gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn
hoá, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi
một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể
đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu và chỉ có
như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội và cho đến
nay, gia đình đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, song tựu chung lại, các
định nghĩa về gia đình thường được xác định theo một trong hai cách tiếp cận: tiếp

cận vĩ mô hoặc tiếp cận vi mô.
Theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một thiết
chế xã hội, một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã hội nhất
định, trước hết là chức năng tái sinh sản ra con người: “Gia đình là một thiết chế xã
hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng
về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của
mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con
người”[17, pg. 306].
Theo cách tiếp cận vi mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một nhóm
xã hội với những tiêu chí cụ thể để nhận diện nó (có quan hệ với nhau bởi hôn nhân,
huyết thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân,
cùng chung sống, có ngân sách chung). Nhưng để phù hợp với Việt Nam trong hoàn
cảnh hiện nay thì định nghĩa sau đây thể hiện tất cả những đặc trưng của gia đình


Việt: “Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống
hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng
chung sống, có ngân sách chung”[15, tr. 25-31].
Với những khái niệm trên, ta có thể hình dung được gia đình, nơi mà con
người sinh ra, lớn lên, là nơi bắt đầu hình thành nhân cách sống trong xã hội. Gia
đình là mối liên hệ giữa vợ chồng, con cái. Nó có quy luật phát triển riêng với tư
cách là một thiết chế xã hội đặc thù.
Ở đề tài này, tôi xin được định nghĩa gia đình như sau: Gia đình là một đơn vị
xã hội vi mô, được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và
quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ,
con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại hai bên). Các thành viên trong gia đình gắn bó
với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ
một cách hợp pháp.
1.1.2. Hôn nhân

Nhìn nhận từ góc độ xã hội, hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung hoàn
toàn của một người đàn ông và một người đàn bà, sự sống chung hoàn toàn này gồm
những thành phần vật chất: ở chung cùng một mái nhà, ăn chung cùng một mâm
cơm, hưởng chung những sung sướng vật chất, cùng đồng lao cộng khổ để có đủ
mọi nhu cầu của cuộc sống đáp ứng cho hạnh phúc hôn nhân. Trong xã hội, hôn
nhân được coi như một thiết chế xã hội, là một yêu cầu cần phải có đối với mỗi cá
nhân, hôn nhân như là một nếp sống cần phải theo, ý thức hôn nhân luôn tồn tại
trong đầu óc của từng con người thông qua sự xã hội hoá trong gia đình và ngoài xã
hội.
Từ phía luật pháp hiện nay: Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi
kết hôn [10, tr. 2]. Ở một số nước phương Tây, hôn nhân đồng giới đã được công
nhận, nhưng ở Việt Nam, vấn đề này còn chịu sự phản đối của rất nhiều người, về


phía Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn quy định “Nhà nước không thừa
nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính ” (khoản 2 Điều 8).
1.1.3.

Kết hôn

“Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định
của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng kỷ kết hôn ” [10, tr. 2].
Trong Điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm các hành
vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu

về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa những người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại,
mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người,
bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục
lợi.
1.1.4.

Ly hôn

Nếu như kết hôn là chuyện bình thường, là bước khởi đầu cho việc tạo lập


gia đình, thì ly hôn là sự bất bình thường - là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia
đình. “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Toà án " [10, tr. 3].
Trong xã hội truyền thống Việt Nam, kết hôn hay ly hôn phụ thuộc rất nhiều
vào gia đình và những luật lệ của xã hội. Còn trong xã hội hiện nay, mỗi cá nhân có
quyền tự do kết hôn cũng như quyền tự do ly hôn và họ được pháp luật hiện hành
bảo vệ quyền lợi chính đáng. Điều 54, 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
có ghi: Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản,
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thoả

thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con thì Toà án giải quyết việc ly hôn.
1.1.5. Thao tác hoá khái niệm Ly hôn
Thao tác hoá khái niệm Ly hôn nhằm làm rõ những vấn đề đang xảy ra từ
thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố tác động đến ly hôn.
Thực trạng ly hôn: ở đô thị, chất lượng cuộc sống người dân thay đổi, làm
cho gia đình ở đô thị cũng biến đổi về quy mô, cơ cấu, chức năng. Gia đình ở đô thị
có xu hướng vươn tới cái mới, cái luôn thay đổi; đề cao tính tự do cá nhân, mối quan
hệ chiều ngang và đề cao mặt pháp lý; mỗi thành viên đến tuổi lao động trong gia
đình đều có nghề nghiệp khác nhau. Ngược lại với đô thị, ở nông thôn các thành
viên trong gia đình đa phần cùng làm chung một công việc; truyền thống gia đình
được đặt trên lợi ích cá nhân, đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của con cái đối với cha
mẹ; đề cao lòng hiếu thảo, sự biết ơn cha mẹ, tôn kính tổ tiên, tôn trọng quá khứ,...
Chính sự khác biệt đó phải chăng làm cho tỷ lệ ly hôn ở đô thị cao hơn ở nông thôn;


tuổi thọ của hôn nhân ở đô thị thấp hơn ở nông thôn; phụ nữ ở đô thị chủ động ly
hôn nhiều hơn ở nông thôn. Và ở đây, ta cần đi sâu phân tích về tỷ lệ ly hôn, người
đứng đơn ly hôn, độ tuổi của phụ nữ và nam giới khi ly hôn, độ đài của hôn nhân,
nghề nghiệp và học vấn của người ly hôn để thấy rõ được thực trạng ly hôn diễn ra ở
mỗi nơi như thế nào.
Nguyên nhân ly hôn: xã hội đô thị đông dân cư tạo cho con người có nhiều
mối quan hệ đa chiều với gia đình, nhóm bạn bè, cơ quan,... để phát triển về học vấn,
trình độ, kinh tế, địa vị xã hội. Khác với đô thị, ở nông thôn mối quan hệ chỉ giới hạn
ở luỹ tre làng. Chính sự giao thiệp rộng rãi của cư dân đô thị phải chăng ảnh hưởng
đến đời sống gia đình, làm cho nguyên nhân ly hôn ở đô thị phức tạp hơn ở nông
thôn. Vì vậy, việc tìm hiểu những nguyên nhân về kinh tế, ngoại tình, bạo lực gia
đình, tính tình không hợp, mâu thuẫn con dâu (rể) với gia đình nhà chồng (vợ),. và
so sánh xem nguyên nhân nào tác động đến ly hôn nhiều nhất là rất cần thiết.
Hậu quả ly hôn: ở nông thôn, nếu ly hôn xảy ra thì với sự đùm bọc của gia

đình truyền thống, tình làng, nghĩa xóm, những hệ luỵ của nó sẽ được xã hội truyền
thống điều tiết. Nhưng ở xã hội đô thị, nơi mà kinh tế chi phối cuộc sống của con
người thì hệ luỵ sau ly hôn về gia đình có thể rất lớn. Trẻ em có lẽ sẽ bị ảnh hưởng
nhiều hơn hẳn người bố hay người mẹ vì gia đình là nơi trẻ em lớn lên, là nơi bắt
đầu hình thành nhân cách sống. Vì vậy, ta cần tìm hiểu những vấn đề sau ly hôn cả
về mặt tích cực cũng như tiêu cực đối với cá nhân và xã hội để thấy rõ được những
hậu quả của ly hôn.
Các nhân tố tác động đến ly hôn: có lẽ ở đô thị mang yếu tố hiện đại nhiều
hơn ở nông thôn. Vì khi sống ở đô thị, quá trình giao lưu văn hoá tất yếu xảy ra,
chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây, làm cho con người cởi mở
hơn với nhau; mối quan hệ giữa các cá nhân bình đẳng hơn; phụ nữ ở đô thị có điều
kiện nâng cao trình độ, độc lập về kinh tế và bình đẳng với chồng nhiều hơn. Trong


khi ở nông thôn, văn hoá truyền thống vẫn được lưu giữ; người chồng vẫn là trụ cột
của gia đình về kinh tế và quyền lực; phụ nữ ở nông thôn chủ yếu ở nhà nội trợ và
chăm sóc con cái.
Như vậy, chính sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị về kinh tế, văn hoá - xã
hội làm cho ly hôn ở đô thị có thể khác hơn nhiều so với ly hôn ở nông thôn. Và việc
đi sâu phân tích thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố tác động đến ly hôn
sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về vấn đề ly hôn hiện nay.
1.2. Lý thuyết áp dụng
1.2.1. Lý thuyết xung đột xã hội
Trong luận văn này, tôi tiếp cận theo lý thuyết xung đột xã hội để giải thích
các nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Lý thuyết xung đột xã hội cho rằng xã hội được hình thành bởi các nhóm xã
hội khác nhau. Các nhóm xã hội khác nhau có lợi ích khác nhau và thường xung đột
với nhau bởi vì nguồn lực như của cải và quyền lực là hữu hạn và được phân bổ
không đồng đều. Trong quá trình cạnh tranh, một nhóm chiếm ưu thế và ở vị trí
thống trị. Nhóm ưu thế này sau đó sử dụng quyền lực của mình để kiểm soát các

nguồn lực nhằm đảm bảo rằng xã hội vận hành theo cách phục vụ lợi ích riêng của
mình. Về bản chất, xã hội có xu hướng xung đột. Xung đột có thể làm xã hội thay
đổi và những thay đổi này có thể dẫn đến phân phối của cải và quyền lực công bằng
hơn [17, pg. 74].
Theo quan điểm của Karl Marx: ông được coi là “cha đẻ” của lý thuyết
xung đột xã hội, các công trình của ông về xung đột giai cấp, lợi ích của giai cấp,
quyền sở hữu, quyền kiểm soát các phương tiện sản xuất và sự bóc lột của giai cấp
này đối với giai cấp khác là tiền thân cho sự phát triển của lý thuyết xung đột xã hội.
Ông là người đã áp dụng một cách nhìn tổng quát để giải thích nhóm xã hội.
Theo ông, chính trong quá trình phân công lao động xã hội, mối quan hệ về mặt tư


liệu sản xuất là vấn đề tất yếu để hình thành các tầng lớp, giai cấp khác nhau. Vì
chúng khác nhau về quyền sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến sự phân hoá trong quá
trình sản xuất và bất bình đẳng là không thể tránh khỏi trong việc phân công sản
phẩm xã hội và mâu thuẫn nảy sinh từ đó. Vì thế Marx nói rằng mọi nguyên nhân
đều có nguyên nhân từ yếu tố kinh tế.
Sự khác nhau về quyền lợi kinh tế dẫn đến sự khác nhau về vị thế xã hội và
các quan hệ bất bình đẳng trong các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân khi đó
mâu thuẫn nảy sinh. Từ mâu thuẫn kinh tế chuyển sang mâu thuẫn trong lĩnh vực
chính trị, quyền lực là một chặng đường không xa. Mâu thuẫn hoặc xung đột xuất
hiện do bất bình đẳng trong giai cấp, các cá nhân trong xã hội, do mối quan hệ thống
trị và bị trị. Mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quan hệ xã hội. Mâu thuẫn có quan hệ
mật thiết với các tổ chức xã hội mà ông gọi là các hình thái kinh tế xã hội và xung
đột không phải là cái gì khác nằm ngoài cơ cấu xã hội mà nó là kết quả của quá trình
vận hành xã hội trên với tư cách là một hệ thống có cấu trúc xác định.
Theo quan điểm của Dahrendorf: ông cho rằng, trong bất cứ một mô hình
tổ chức xã hội như thế nào thì quá trình xung đột là không thể tránh khỏi. Theo ông,
muốn giải quyết được xung đột trước tiên phải xây dựng được mô hình xung đột.
Trong xã hội có những loại mô hình xung đột như:

Xung đột theo mô hình quyền lực: nó gắn liền với các quyền lợi chính trị của
tầng lớp thống trị trong xã hội.
Xung đột mặt lợi ích hay kinh tế: nó gắn liền với quyền lợi hay lợi ích, khả
năng sử dụng những cơ may vật chất, mô hình này liên quan tới toàn thể các thành
viên trong xã hội.
Xung đột về mặt đạo đức, tinh thần: nó liên quan đến cách cư xử giữa con
người với nhau liên quan đến giá trị vật chất và tinh thần, thẩm mỹ và tôn giáo.
Ông đưa ra các cách giải quyết các xung đột như: nếu xung đột về mặt lợi ích


kinh tế, phải lấy lợi ích kinh tế để giải quyết; nếu xung đột về mặt tinh thần và tôn
giáo, phải lấy chính các yếu tố đó để giải quyết. Và phải công khai hoá các xung đột,
mức độ công khai hoá càng lớn thì tỷ lệ giải quyết các xung đột càng nhanh.
Vận dụng lý thuyết xung đột xã hội vào trong hôn nhân gia đình, lý thuyết
này coi gia đình là một xã hội thu nhỏ, mỗi thành viên trong đó theo đuổi những nhu
cầu, giá trị và mục tiêu khác nhau và như thế thì mâu thuẫn, xung đột giữa các thành
viên trong gia đình là không thể tránh khỏi. Theo lý thuyết này, ly hôn là kết quả
cuối cùng của một quan hệ hôn nhân mà ở đó xung đột đã phát triển đến đỉnh điểm
làm cho cuộc hôn nhân tan vỡ và trở nên không thể hàn gắn được. Lý thuyết này
giúp ta nhìn nhận những nguyên nhân tại sao cuộc hôn nhân lại thất bại và dẫn đến
ly hôn.
1.2.2. Lý thuyết hiện đại hoá
Lý thuyết hiện đại hoá mô tả và giải thích quá trình chuyển đổi từ xã hội
truyền thống hoặc kém phát triển trở thành xã hội hiện đại.
Xã hội học đã hình thành ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XIX trong các xã hội đã
kinh qua những biến chuyển to lớn do cuộc cách mạng công nghiệp đem lại, do đó
nhiều nhà xã hội học cố gắng mô tả và giải thích sự hình thành các xã hội hiện đại.
Nhà xã hội học Đức Ferdinand Toennies đã mô tả sự hình thành quá trình
hiện đại hoá như là bước quá độ từ xã hội cộng đồng sang một xã hội hiệp hội. Theo
quan điểm của ông, đây là một quá trình có liên hệ đến việc biến mất dần dần các

cộng đồng và sự gia tăng tầm quan trọng của cá nhân.
Theo sự phân tích của É. Durkheim về biến chuyển xã hội, quá trình hiện đại
hoá liên quan đến việc phân công lao động gia tăng trong các hoạt động sản xuất. Nó
là việc chuyên môn hoá cao trong hoạt động của con người, hay nói cách khác, mỗi
cá nhân chỉ đảm nhận một hay vài công việc chuyên biệt mà thôi. Đối với Durkheim,
quá trình hiện đại hoá là việc chuyển từ sự đoàn kết có tính cách máy móc sang sự


đoàn kết hữu cơ. Ông nhìn quá trình này như việc thay đổi, biến chuyển của cơ sở
đoàn kết xã hội, từ những ràng buộc dựa trên sự giống nhau đến sự lệ thuộc hỗ tương
kinh tế dựa trên sự phân công lao động trong các xã hội công nghiệp rộng lớn hơn,
phức tạp hơn.
Trong các thập kỷ gần đây, quá trình hiện đại hoá cũng tác động đến các
nước đang phát triển. A. Giddens quan niệm, lý thuyết hiện đại hoá là một trong
những lý thuyết hướng về thị trường vốn giải thích sự kém phát triển của các quốc
gia nghèo là do những rào cản về văn hoá và định chế. Lý thuyết hiện đại hoá lập
luận: khi các xã hội truyền thống biến đổi do quá trình công nghiệp hoá, dần dần
chúng sẽ mang những nét tương tự các xã hội ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Hiện nay, các
nước đang phát triển phải đối đầu với những vấn đề xã hội nghiêm trọng do nghèo
đói và gia tăng dân số nhanh gây nên. Lý thuyết hiện đại hoá cho rằng, khi quá trình
công nghiệp hoá xảy ra ở các nước tiền công nghiệp thì các xã hội này cũng kinh qua
các mô thức biến đổi xã hội đã từng xảy ra ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, như:
quá trình đô thị hoá, sự gia tăng dân số cao sẽ giảm bớt với thời gian, chuyên môn
hoá trong sản xuất, tương quan xã hội có tính cách khách quan, phi ngã, tôn giáo
truyền thống giảm vai trò xã hội, quan tâm đến quyền của cá nhân, giáo dục đại
chúng, sự hình thành và phát triển của gia đình hạt nhân,.... [4, tr. 340, 352].
Vận dụng lý thuyết hiện đại hoá vào trong nghiên cứu, lý thuyết này cho thấy
quá trình hiện đại hoá làm cho xã hội nước ta ngày càng hiện đại hơn, các giá trị về
hôn nhân, gia đình cũng thay đổi nhanh chóng như sự tự do của mỗi cá nhân được
tôn trọng, quyền riêng tư ngày càng được đề cao, phụ nữ được trao quyền lực và

ngày càng độc lập hơn về kinh tế,. .Chính những yếu tố xã hội này tác động đến đời
sống gia đình, làm cho ly hôn ngày một tăng.
1.3. Một vài đặc điểm về địa bàn nghiên cứu
Thành phố Tây Ninh được thành lập ngày 29 tháng 12 năm 2013, hiện là đô


thị loại III và là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, hành chính của tỉnh Tây Ninh.
Theo số liệu thống kê năm 2015, Thành phố Tây Ninh có diện tích 140,01
km2 (chiếm 3,41% diện tích tự nhiên của tỉnh), dân số 130.899 người (trong đó
67.337 nữ, 63.562 nam), mật độ dân số 934,94 người/km 2. Dân số trung bình thành
thị 113.478 người, dân số trung bình nông thôn 17.421 người [3, tr. 29-33].
Cơ cấu hành chính của thành phố bao gồm 07 phường (1, 2, 3, IV, Hiệp
Ninh, Ninh Sơn, Ninh Thạnh) và 03 xã (Bình Minh, Tân Bình, Thạnh Tân). Thành
phố có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi giao nhau giữa các quốc lộ 22B, đường đi
đến cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát. Theo định hướng phát triển đô thị Việt Nam đến
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, thành phố Tây Ninh là đô thị quan trọng nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một cực tăng trưởng chủ đạo trong hệ
thống đô thị Việt Nam với Thành phố Hồ Chí Minh, là đô thị động lực chính. Đô thị
này còn nằm trong vùng đối trọng phát triển kinh tế phía Bắc, định hướng đến năm
2020 sẽ nâng lên đô thị loại II.
Trong 05 năm (từ 2010 đến 2015), kinh tế - xã hội thành phố Tây Ninh có
nhiều thay đổi: Giá trị sản xuất (theo giá so sánh năm 2010) tăng bình quân hàng
năm 9,48%. Nông nghiệp hình thành những vùng chuyên canh rau an toàn, cây ăn
trái, cây công nghiệp có giá trị. Giá trị sản phẩm thu hoạch cây trồng đạt 112,27 triệu
đồng/ha; công nghiệp - xây dựng phát triển ngày càng đa dạng, nhất là công nghiệp
chế biến nông sản, mía, mì, cao su, hạt điều,... Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng
hàng năm, vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách giai đoạn 2010 - 2015 (1,003,112 tỷ
đồng) tăng 138 % so với giai đoạn 2005 - 2010 (420,18 tỷ đồng); các siêu thị được
hình thành cùng với chợ truyền thống góp phần cung ứng đầy đủ hàng hoá cho
người tiêu dùng; phát triển thêm tuyến vận chuyển hành khách liên tỉnh chất lượng

cao; phát triển nhanh chóng hạ tầng và dịch vụ viễn thông, góp phần tăng nhanh số
lượng người dân sử dụng điện thoại và Internet; các di tích lịch sử - văn hoá được


×