Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.74 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MAI HIÊN

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN
VIỆC THI HÀNH ÁN

Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn

Phản biện 1:

Phản biện 2:
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30
Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2014.

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm thông tin - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
2


1.4.4.

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng

2.1.1.

Chương 1: MỘ T SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO

1
7

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.2.1.

1.2.2.


1.2.3.

1.2.4.

1.3.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.

Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan trong thi hành án dân sự
Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự và người liên quan đến việc thi hành án
Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Cơ sở của việc xây dựng các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở
đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở các quy định
của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo vệ quyền cơ bản
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình đẳng

của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động
Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự và người liên quan với các nguyên tắc khác đến việc thi hành án
Lược sử các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân
sự năm 1993
Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993
đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004

3

2.1.2.
2.1.3.

ĐẢM Q UYỀN, LỢ I ÍCH HỢ P PHÁP CỦA ĐƢƠ NG SỰ
VÀ NGƢỜ I LIÊN Q UAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN

7

2.1.4.

7

2.2.

11
14

14

15

16

2.2.1.
2.2.2.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.4.

3.1.

23
23
25
26

31

Các quy định về thủ tục thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự

Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc
cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành
Quy định về quyền được tham gia vào quá trình thi hành án của chủ
thể có quyền, lợi ích hợp pháp
Các quy định về biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự với
việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Các quy định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị và xử lý vi phạm đến
việc thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan
Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự
Về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự
Về kháng nghị và giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự
Về xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đến việc thi hành án với
việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN BẢO ĐẢM Q UYỀN,

31
31
35
37
41
43
43
45
49

49
51
52
53
55
61

LỢ I ÍCH HỢ P PHÁP CỦA ĐƢƠ NG SỰ VÀ NGƢỜ I
LIÊN Q UAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ KIẾN NGHỊ

17

18

28

TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG
SỰ VÀ NGƢỜ I LIÊN Q UAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN

2.1.

MỞ ĐẦU

Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Chương 2: NỘ I DUNG CÁC Q UY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN

3.1.1.
3.1.2.
3.2.

3.2.1.
3.2.2.

Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Về thành tựu đạt được từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Về những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Một số kiến nghị về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án

61

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98
99

4

61
63
81
81
91



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn của quá trình tố tụng
dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong
đó các bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành. Pháp luật
THADS quy định trình tự, thủ tục và biện pháp thi hành bản án, quyết
định của Tòa án trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người
được thi hành án. Tuy nhiên, các quy định này cũng phải hướng tới việc
bảo đảm an toàn pháp lý cho người phải thi hành án và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến thi hành án.
Xét về lý luận thì bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà
nước có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự tôn trọng thực hiện.
Ngược lại, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chậm được thi hành
hoặc không được thi hành trên thực tế thì quyền lợi hợp pháp của đương
sự chưa được đảm bảo thực hiện. Việc thi hành án không đúng pháp luật
cũng có thể gây tổn hại đến quyền lợi của các đương sự khác trong thi
hành án, dẫn tới nguyên tắc pháp chế bị vi phạm, niềm tin của quần
chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị suy giảm.
Xét về pháp luật thì nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được ghi nhận tại
Điều 5 của Luật THADS năm 2008. Tuy nhiên, các quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này còn khá chung chung, thiếu tính cụ thể và
thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện. Điều luật này dường như mới chỉ dừng
lại ở quy định rất đơn giản với nội dung: "Trong quá trình thi hành án,
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ".
Những năm qua công tác THADS đã từng bước được đẩy mạnh và đã
thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về THADS đã và đang được củng
cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra của sự

phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nền
kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự ngày một mở
5

rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng
bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Do đó, chất lượng của
công tác THADS ngày càng cần phải được củng cố và tăng cường; tình trạng
bản án, quyết định tồn đọng chưa được thi hành, xâm phạm quyền lợi hợp
pháp của các đương sự trong thi hành án cần phải được giải quyết nhằm
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường tính pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Thực tiễn công tác thi hành án cho thấy tình trạng quyền lợi
hợp pháp của người được thi hành án không được bảo đảm thực hiện do
người phải thi hành án cố tình lẩn tránh, chống đối việc thi hành án, tình
trạng chậm thi hành án, án tồn đọng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, hiện tượng
cơ quan thi hành án vượt quá quyền hạn của mình, thi hành án không
đúng pháp luật dẫn tới xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người phải thi
hành án và những người liên quan cũng gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Với những lý do phân tích trên, việc nghiên cứu một cách có hệ
thống cả về phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS là cấp thiết, có ý nghĩa cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Với nhận thức đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề
"Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan đến việc thi hành án" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm tác giả nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi
hành án", chưa có bài viết, hay công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan đến việc THADS. Trong Giáo trình Luật THADS Việt Nam của

Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012 chỉ có 01 trang đề cập đến nội
dung cơ bản của nguyên tắc này. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu
có đề một cách gián tiếp đến nguyên tắc này như: "Hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, của Trường
Đại học Luật Hà Nội, do TS. Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm, năm
2004); "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008" (Đề tài
6


nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Bùi
Thị Huyền làm chủ nhiệm, năm 2011).
Về bài viết nghiên cứu có liên quan gián tiếp đến bảo đảm quyền, lợi
ích của đương sự và người liên quan trong THADS, có một số bài viết
sau đây: Bài viết "Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện thủ tục thi
hành án dân sự" của ThS. Đinh Thị Mai Phương, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 01/2006; "Về một bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng
không được thi hành" của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Kiểm sát, số
7/2009; "Trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành
án", của Nguyễn Công Long, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2009;
"Về nghĩa vụ của người được thi hành án trong trường hợp cơ quan thi
hành án tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế" của Phạm Văn Hưng,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2010 v.v...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã công bố mà tác giả luận văn
khảo sát nói trên cũng chỉ dừng lại ở một số nội dung cơ bản nhất hoặc
liên quan gián tiếp đến nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS. Cho đến nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện
về nguyên tắc này. Do vậy, luận văn này là công trình nghiên cứu chuyên
sâu đầu tiên về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự và người liên quan trong THADS. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên

cứu tác giả có kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan đã được công bố trước đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận văn là hướng tới việc đánh giá một cách
khách quan và toàn diện về hiệu quả của bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan trong THADS dưới cả góc độ lập pháp và
thi hành pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và
thực tiễn thực hiện nguyên tắc tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS, tác giả sẽ đưa những kiến nghị,
đề xuất về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS.
7

4. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Luận giải những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc
THADS ở nước ta.
4.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
- Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam trong lịch sử và hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên

quan đến việc THADS;
- Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra; trong quá
trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
(i) Việc nghiên cứu thực hiện đề tài được dựa trên phương pháp luận
nghiên cứu khoa học duy vậy lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử...
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý
8


luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc THADS
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá v.v... được sử
dụng trong Chương 2 khi tìm hiểu và đánh giá các quy định của pháp luật
về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan đến việc THADS.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê... được sử dụng ở
Chương 3 khi đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật và đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án.
Chương 2: Nội dung các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án và kiến nghị.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan trong thi hành án dân s ự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Qua phân tích, tác giả luận văn đưa ra khái niệm về nguyên tắc như
sau: Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
9

liên quan trong THADS là tư tưởng pháp lý chủ đạo, có tính bắt buộc
chung, được quy định trong pháp luật THADS, theo đó cơ quan thi hành
án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong
THADS phải tổ chức THADS theo đúng pháp luật và đúng nội dung bản
án, quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể có quyền lợi và bảo đảm cho họ thực hiện quyền
yêu cầu thi hành án, được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ
quyền lợi của mình và thực hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái
pháp luật trong thi hành án.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
1.1.2.1. Ý nghĩa chính trị

Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS có ý nghĩa chính trị sâu sắc:
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước
pháp quyền và dân chủ:
1.1.2.2. Ý nghĩa xã hội
Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
trong THADS là một biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; làm
cho công tác THADS chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan là nguyên tắc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân đạo
trong THADS ở Việt Nam.
Việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS góp phần tích cực vào việc
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin của quần chúng nhân
dân vào hoạt động của thiết chế THADS.
1.1.2.3. Ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự, người có quyền lợi
10


hợp pháp liên quan trong thi hành án có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi
của mình khi cơ quan thi hành án, Thừa phát lại tổ chức việc thi hành án.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, việc quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là cơ sở pháp lý
để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án đồng thời là cơ sở
để cơ quan thi hành án, Thừa phát lại ra các quyết định cần thiết để tổ
chức việc thi hành án.
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về nguyên tắc bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi
hành án
Tác giả luận văn trình bày về cơ sở của việc xây dựng các quy định
về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan đến việc thi hành án, bao gồm:
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở
đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
ngƣời liên quan đến việc thi hành án đƣợc xây dựng trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo vệ quyền cơ bản
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình đẳng
của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động

- Trong THADS, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan và nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định có mối quan hệ mật thiết
- Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự
là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan với các nguyên tắc tự nguyện và cưỡng chế
thi hành án; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm phối hợp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS và chấp hành viên
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự và người liên quan với các nguyên tắc thỏa thuận trong
THADS và nguyên tắc tiếng nói, chữ viết dùng trong THADS
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan với nguyên tắc giám sát, kiểm sát hoạt động
trong THADS
Tóm lại, có thể nói, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS là nguyên tắc cơ bản và có
tầm quan trọng lớn. Tất cả các nguyên tắc trên đều hướng tới việc bảo
đảm quyền, lợi ích của chủ thể có quyền lợi trong thi hành án nhưng
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan trong THADS là nguyên tắc có ý nghĩa trực tiếp và nhấn mạnh nhất
tới việc bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án nhưng không
được xâm hại tới quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và các
chủ thể có quyền lợi liên quan tới việc thi hành án.

Nguyên tắc bảo đảm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan là nguyên tắc có mối quan hệ hữu cơ
gắn bó với một loạt các nguyên tắc khác của THADS, bao gồm:

Các nguyên tắc khác của THADS đều có quan hệ gắn bó mật thiết
với nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong THADS và nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan trong THADS chỉ có ý nghĩa khi việc
bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện đồng bộ với việc thực hiện
các nguyên tắc nêu trên.

11

12


1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan với các nguyên tắc khác đến
việc thi hành án


1.4. Lƣợc sử các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án
1.4.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp
lệnh THADS năm 1989, công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Tòa án; dù chưa được quy định rõ nét và nổi bật, nhưng nguyên tắc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong THADS đã được đề
cập qua khá nhiều văn bản pháp luật.
Trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động
của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ chức
thi hành án chưa tạo được vị trí của Chấp hành viên tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động thi hành án là
một giai đoạn khép kín trong Tòa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của
Chánh án TAND địa phương. Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng
của Tòa án vẫn dành cho công tác xét xử, còn công tác thi hành án không
được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong
không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi
hành hàng năm, quyền và lợi ích của đương sự và người liên quan chưa
được quan tâm và đảm bảo.
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành
án dân sự năm 1993
Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990, việc tập trung thống nhất những quy định về THADS vào
một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc áp dụng pháp luật trong việc THADS, góp phần bảo đảm hiệu

lực của các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và công dân, góp phần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

quyền lợi của người được thi hành án mà còn phải bảo đảm cả quyền
tham gia của người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi
hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày
01/6/1993 đã thay thế Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989. Tại
Điều 8 Pháp lệnh này đã tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án.
Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh THADS năm 1993 so
với Pháp lệnh THADS năm 1989 chính là ở các quy định về chủ thể
chính có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan
trong THADS. Theo Pháp lệnh THADS năm 1989, Tòa án có nhiệm vụ
bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan trong THADS, còn
theo Pháp lệnh THADS năm 1993 thì nhiệm vụ này được chuyển giao
cho hệ thống các cơ quan THADS.
1.4.4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ
nhiều bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp. Vì vậy, ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp lệnh
THADS năm 1993.

Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 7 Pháp lệnh THADS ngày

28/8/1989, theo quy định này việc THADS không những phải bảo đảm

Pháp lệnh thời kỳ này đã quy định nhiều nguyên tắc hơn để bảo đảm
cho quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong THADS được thực hiện
như nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự; Quyền
yêu cầu thi hành án; Tự nguyện thi hành án; Cưỡng chế thi hành
án; Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá
nhân trong việc thi hành án; Kiểm sát việc thi hành án. Đặc biệt, nguyên
tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi
hành án được quy định tại Điều 9 Pháp lệnh THADS năm 2004. Theo đó,

13

14


người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án được tham gia
vào việc thi hành án và có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

phải thi hành án cũng như để đảm bảo quyền lợi của họ trong trường hợp
cần thiết.

Chương 2

Ngoài việc mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu THADS thì pháp luật
cũng đã ghi nhận những cơ chế nhất định để tạo điều kiện cho đương sự
có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Để thi hành được bản án, quyết định
dân sự thì bản án, quyết định tuyên phải chính xác, rõ ràng và các đương
sự phải nhận thức được đúng quyền, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu

THADS. Thực tế, tổ chức THADS cho thấy không phải trường hợp nào
việc tổ chức THADS cũng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đó. Do vậy,
pháp luật THADS của chúng ta đã có những quy định về trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức ra bản án, quyết định phải giải thích cho các đương
sự quyền, nghĩa vụ thi hành án của họ, thời hiệu yêu cầu THADS và giải
thích bản án, quyết định trong trường hợp chúng không chính xác, rõ
ràng. Đây là yếu tố cơ bản để các đương sự và những người liên quan
thực hiện và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
THADS, được quy định cụ thể tại Điều 382 BLTTDS, Điều 26 và Điều 179
Luật THADS.

NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN

Quyền yêu cầu THADS được giới hạn bởi thời hiệu yêu cầu thi hành
án theo quy định của Luật THADS. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được
quy định tại Điều 30 Luật THADS.

Đối chiếu với quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993, Nghị định
số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ thì những quy định tại Pháp
lệnh THADS năm 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005
của Chính phủ đã có một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao trách
nhiệm của cơ quan THADS, Chấp hành viên trong việc bảo đảm quyền
lợi của đương sự và người liên quan trong THADS.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật THADS có hiệu lực
từ 01/07/2009. Văn bản pháp lý này đã kế thừa và phát triển các quy định
về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
trong THADS. Theo quy định tại Điều 5 của Luật này thì "Trong quá
trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ".

2.1. Các quy định về thủ tục thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan
2.1.1. Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Trước đây, Pháp lệnh THADS năm 1993 chưa quy định quyền yêu
cầu THADS của người phải THADS.

2.1.2. Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Để bảo đảm quyền yêu cầu THADS của các đương sự và có cơ sở
xác định trách nhiệm tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án khi
cần thiết, pháp luật quy định một cách rất rõ ràng và minh bạch việc
nhận, từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án.

Pháp lệnh THADS năm 2004 và Luật THADS năm 2008 đã bổ
sung quy định theo hướng mở rộng quyền làm đơn yêu cầu thi hành án
đối với cả người phải thi hành án. Mục đích của việc bổ sung quy định
này là nhằm khuyến khích ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người

Đối với trường hợp đơn thi hành án không có đầy đủ các nội dung
theo quy định của pháp luật hoặc không nếu rõ thông tin về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án và không yêu cầu xác minh thì cơ
quan THADS thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu
THADS trước khi quyết định thi hành án. Đối với trường hợp đơn yêu

15

16



cầu thi hành án không có đầy đủ các điều kiện thi hành án theo quy định
của pháp luật thì cơ quan THADS từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án.
Điều 34 Luật THADS đã ấn định các trường hợp cụ thể mà cơ quan
THADS được từ chối nhận đơn yêu cầu THADS:
- Người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án
hoặc nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của
bản án, quyết định;
- Cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án;
Điều 51 Luật THADS cũng quy định cụ thể và giới hạn những
trường hợp mà cơ quan THADS được trả đơn yêu cầu THADS, gồm các
trường hợp sau:
- Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài
sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành
án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi
hành án;
- Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp,
chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
- Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không
nhận để thi hành án;
- Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định
nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng
được mà đương sự không có thỏa thuận khác.
2.1.3. Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong
việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành
Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc cung
cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành được đưa vào nội dung đơn
yêu cầu thi hành án như là một điều kiện bắt buộc.
Điểm d khoản 1 Điều 31 Luật THADS quy định đơn yêu cầu thi

hành án có các nội dung chính sau đây:
"a) Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;
b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
17

c) Họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
d) Nội dung yêu cầu thi hành án;
đ) Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án".
Vấn đề này được hướng dẫn cụ thể tại khoản 2 Điều 4 Nghị định
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Luật THADS về thủ tục THADS.
2.1.4. Quy định về quyền được tham gia vào quá trình thi hành án
của chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp
Trong tổ chức THADS, việc thông báo thi hành án có ý nghĩa rất
quan trọng. Qua thông báo, người được thông báo biết được quyền, nghĩa
vụ thi hành án của mình để thực hiện. Vì vậy, để tổ chức THADS thì cơ
quan thi hành án phải tiến hành thông báo thi hành án cho các đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tham dự việc thi hành án
(được quy định rõ tại các điều 39, 40, 42 Luật THADS).
2.2. Các quy định về biện pháp bảo đảm và cƣỡng chế thi hành
án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và
ngƣời liên quan
2.2.1. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm THADS bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan được thể hiện:
- Ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh việc thi hành án nên bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định,
quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, bảo đảm tính

nghiêm mình của pháp luật.
- Đốc thúc người phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình.
- Việc áp dụng biện pháp bảo đảm THADS là tiền đề, cơ sở cho việc
áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS sau này, bảo đảm hiệu quả của
việc THADS.
18


Ngoài việc bảo vệ quyền được thi hành án của người được thi hành
án thì pháp luật còn đảm bảo và tôn trọng quyền của người phải thi hành
án, người liên quan khi quy định việc người yêu cầu Chấp hành viên áp
dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu
cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không
đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho
người thứ ba thì phải bồi thường.

vi xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức đều bị xử lý theo pháp luật.

2.2.2. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan

2.3.2. Về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự

Theo quy định tại Điều 71 Luật THADS, có sáu biện pháp cưỡng
chế THADS là:
"1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá
của người phải thi hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản

đang do người thứ ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện
công việc nhất định".
Sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong hoạt động
THADS này nhằm xác định cơ sở cho việc áp dụng thống nhất của chấp
hành viên trong hoạt động tác nghiệp thi hành án, đồng thời là căn cứ
pháp lý để người được thi hành án, người phải thi hành án, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tự bảo vệ quyền lợi của mình.
2.3. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị và xử lý vi
phạm đến việc thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự và ngƣời liên quan

Theo Điều 140 Luật THADS thì người được thi hành án, người phải
thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thi hành án có
quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan
THADS, Chấp hành viên, nếu có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Trong quá trình THADS, ngoài việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền, lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS có quyền khiếu nại thì
cũng có quyền tố cáo hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan
THADS và người có thẩm quyền THADS hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc
cơ quan đó nếu quyết định, hành vi trái pháp luật đó gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Tố cáo là công cụ để vạch rõ những hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
để có biện pháp xử lí kịp thời, nghiêm mình đối với những vi phạm, bảo
vệ được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và
người có nghĩa vụ liên quan đến THADS, cơ quan, tổ chức, công dân và

qua đó góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tố cáo về THADS có
ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của cơ quan THADS, Chấp hành viên
trong THADS, giúp người có thẩm quyền kịp thời xử lí được các hành vi
vi phạm trong THADS. Việc này gián tiếp bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho các đương sự và người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong THADS.
2.3.3. Về kháng nghị và giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự

2.3.1. Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự

Để bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan, Điều 160
Luật THADS quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết
định, hành vi THADS của thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên
cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới.

Bằng các quy định của pháp luật, nhà nước ta đã chính thức ghi nhận
quyền khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thông qua đó, mọi hành

Kháng nghị về THADS bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện có
hiệu quả công tác kiểm sát tuân theo pháp luật của các hoạt động THADS.

19

20


Ngoài ra, kháng nghị về THADS còn có ý nghĩa trong việc nâng cao
trách nhiệm của cơ quan THADS, Chấp hành viên trong việc THADS,
sửa, chữa những sai phạm nảy sinh trong quá trình THADS, góp phần
bảo đảm quyền lợi của đương sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan trong THADS.

2.3.4. Về xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 165 Luật THADS thì để bảo vệ quyền lợi
của người thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người
phải thi hành án sẽ bị xử lý vi phạm khi cố ý không chấp hành bản án,
quyết định; nếu không tự nguyện thi hành các quyết định về thi hành án
thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Để bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ bị xử lý vi phạm khi không thực hiện
các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị
xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu là cá
nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án
hoặc ép buộc Chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá hủy niêm
phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại vật
chứng, tài sản tạm giữ, tài sản bị kê biên thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
Thủ trưởng cơ quan THADS cố ý không ra quyết định thi hành án
hoặc ra quyết định về thi hành án trái pháp luật; Chấp hành viên không
thi hành đúng bản án, quyết định, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm quy chế đạo đức của
Chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

thức của chủ thể có trách nhiệm tiến hành và phối hợp trong thi hành án
trong việc tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự và người liên quan trong THADS, phòng ngừa các vi phạm
pháp luật có thể xảy ra.
2.4. Các quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đến việc

thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và ngƣời liên quan
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 10 Luật
THADS. Theo đó, tất cả các chủ thể có liên quan đến THADS gây thiệt
hại đều phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được Quốc hội khóa XII
thông qua tại kỳ họp thứ 5, ngày 18 tháng 6 năm 2009 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà
nước đã quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân,
tổ chức do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng, thi hành án.
Liên Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch số
24/2011/TTLT-BTP-BQP hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước trong hoạt động THADS và có hiệu lực từ ngày 30/01/2012.
Chương 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN
ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án
3.1.1. Về thành tựu đạt được từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc

Việc xử lí vi phạm về THADS không chỉ nhằm trừng phạt người có
hành vi vi phạm về THADS mà còn hướng tới việc răn đe, giáo dục ý

Số lượng và tỉ lệ vụ việc đã được thi hành trong giai đoạn 2006-2013
đã cho thấy rõ về kết quả của việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. Có thể

21


22


thấy được kết quả này qua bảng tổng kết về công tác THADS giai đoạn
2006-2013 như sau:
Bảng 3.1: Kết quả THADS giai đoạn 2006- tháng 6/2014
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Tháng
6/2014

Tổng số việc
thụ lý
589.814
656.909
670.705
635.951
629.453
646.667
657.165
732.179


Số việc có điều
kiện thi hành
367.694
436.770
462.294
430.026
406.896
431.979
446.255
569.693

Số việc đã giải
quyết xong
259.838
315.386
355.757
351.143
351.373
379.990
395.284
492.975

Tỉ lệ
(% )
71
72
77
82
86
88

89
86,53

513.758

384.744

204.640

53

Nguồn: Cục THADS - Bộ Tư pháp.
Số liệu tổng hợp trên có thể thấy, việc bảo đảm quyền lợi của người
được thi hành án đã đạt được những kết quả nhất định, chất lượng
THADS ngày càng được nâng cao thể hiện thông qua số vụ việc và số
tiền thi hành án thu được. Việc ra quyết định thi hành án được thực hiện
đúng thời hạn góp phần bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của đương
sự; tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án về cơ bản
được khắc phục, việc tổ chức THADS được chỉ đạo sát sao.

3.1.2.3. Khó khăn trong việc các bên liên quan trong thi hành án
(chủ yếu là bên bị thi hành án) tìm cách trốn tránh hoặc có những khoản
nợ khác
3.1.2.4. Hiện tượng Chấp hành viên thi hành không đúng theo nội
dung bản án, sự thiếu phối hợp từ phía các cơ quan dẫn tới không đảm
bảo quyền lợi của các bên trong thi hành án dân sự vẫn còn tồn tại
3.1.2.5. Khó khăn, vướng mắc trong áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự
3.1.2.6. Một số khó khăn, vướng mắc điển hình trong cưỡng chế thi hành,
dẫn tới quyền lợi của đương sự trong thi hành án không được bảo đảm

3.2. Một số kiến nghị về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật và những
vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các
đương sự, người liên quan đến việc THADS, tác giả luận văn đưa ra một
số kiến nghị về xây dựng pháp luật như sau:
- Sửa đổi, bổ sung qui định về trách nhiệm xác minh điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án
- Bổ sung qui định về chi phí xác minh tài sản, điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án

3.1.2. Về những bất cập, vƣớng mắc từ thực tiễn thực hiện
nguyên tắc

- Sửa đổi qui định về thời hạn xác minh tài sản, điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án

Tác giả luận văn đã trình bày về những bất cập, vướng mắc từ thực
tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan đến việc thi hành án, bao gồm:
3.1.2.1. Khó khăn, vướng mắc về việc từ chối thụ lý đơn yêu cầu thi
hành án dân sự khi đơn yêu cầu không đáp ứng các nội dung theo quy định
3.1.2.2. Khó khăn trong việc xác minh, cung cấp thông tin về điều
kiện thi hành án

- Cần sửa đổi, bổ sung qui định về đơn yêu cầu thi hành án để thuận
tiện cho đương sự yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình
- Sửa đổi quy định về việc từ chối thụ lý đơn yêu cầu THADS khi

đơn yêu cầu không đáp ứng các nội dung theo quy định

23

24

- Cần có quy định cụ thể nhằm chống sự lạm quyền của người yêu
cầu áp dụng biện pháp bảo đảm THADS, bảo đảm tốt hơn quyền lợi hợp
pháp của bên bị áp dụng


- Phải thiết lập một văn bản liên ngành về sự phối hợp giữa Cơ quan
THADS với các chủ thể khác có liên quan khi tiến hành áp dụng các biện
pháp bảo đảm THADS

- Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có
liên quan đến công tác thi hành án

- Sửa đổi quy định theo hướng cho phép Chấp hành viên áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án đối với cả người liên quan trong thi hành
án và đối với cả đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng

KẾT LUẬN

- Cần có qui định cụ thể về số tiền tối thiểu cần để lại khi áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án
- Sửa đổi, bổ sung qui định về xử lý tài sản kê biên có tranh chấp
- Bổ sung quy định về kê biên tài sản của người phải thi hành án
phải tương xứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí về thi hành án
- Bổ sung qui định về nguyên tắc xác định thứ tự tài sản có thể bị kê

biên, xử lý để THADS
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
Việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan trong THADS trong thực tiễn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan khác nhau. Việc nâng cao hiệu quả của nguyên tắc trên
trong THADS không chỉ thông qua việc sửa đổi những qui định của pháp
luật về thủ tục THADS. Điều này còn phụ thuộc cả vào việc thực hiện
pháp luật của cán bộ, cơ quan thi hành án; cũng như sự phối hợp giữa các
cơ quan có thẩm quyền với nhau, đồng thời với mức độ hiểu biết pháp
luật của chính các đương sự và người liên quan trong THADS. Từ việc
nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trên, tác giả luận
văn đưa ra một số kiến nghị sau:
- Cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án
- Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, đẩy mạnh việc xã hội hóa
công tác thi hành án

Luận văn đã luận giải và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan trong THADS như khái niệm, cơ sở xây dựng nguyên tắc, mối quan
hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS với các nguyên tắc khác trong THADS
cũng như quá trình hình thành và phát triển của các qui định về nguyên
tắc này trong pháp luật THADS Việt Nam.
Luận văn đã đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng các qui định
của pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS như các qui định về bảo đảm
quyền yêu cầu thi hành án; các căn cứ từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành
án, trách nhiệm của người được thi hành án trong việc cung cấp thông tin

tài sản hoặc điều kiện thi hành; biện pháp bảo đảm và cưỡng chế THADS
cũng như các qui định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị và xử lý vi phạm,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong THADS.
Qua nghiên cứu thực tiễn thi hành nguyên tắc, luận văn cũng đã chỉ
ra được một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật
THADS về vấn đề này. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận,
hạn chế của pháp luật và thực tiễn về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan, luận văn đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất có
giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật về bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật, hiểu rõ quyền lợi ích hợp pháp của mình, chấp
hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án trong nhân dân
25

26



×