Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Áp dụng pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.01 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XỬ LÝ TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Huế
Th.S. Phùng Ngọc Tùng
Sinh viên thực hiện
: Đỗ Linh Chi
Mã sinh viên
: CQ530421
Lớp
: Luật kinh doanh 53B

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
-

VietinBank:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam


NHTM:
Ngân hàng thương mại
TMCP:
Thương mại cổ phần
NHNN:
Ngân hàng nhà nước
TSBĐ:
Tài sản bảo đảm
BPBĐ:
Biện pháp bảo đảm
BLDS:
Bộ luật dân sự
TCTD:
Tổ chức tín dụng
HĐQT:
Hội đồng quản trị
NHCV:
Ngân hàng cho vay
QĐTHBĐTV: Quy định về thực hiện bảo đảm tiền vay của khách hàng trong hệ

thống Ngân hàng TMCP Công Thương Việt nam
- TNHH:
Trách nhiệm hữu hạn
- VietinBank AMC: Công ty TNHH một thành viên Quản lý nợ và Khai thác tài
sản Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU
Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và
trên toàn thế giới, hệ thống ngân hàng đã ra đời, tồn tại và ngày càng khẳng định được

vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Hoạt động của ngân hàng là một trong
những mắt xích quan trọng trong cấu thành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế.
Với vai trò đó, các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng thương mại luôn không ngừng
phấn đấu để phát triển, khẳng định vị thế của chính mình và góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển. Trong dòng chảy phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường, rất
nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã được thành lập nhưng chỉ có một số ít ngân
hàng có sự phát triển vượt bậc, vững mạnh trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của
thị trường. Bằng sự chủ động trong các hoạt động kinh doanh, không ngừng đổi mới
hoạt động và đưa ra các biện pháp thích hợp đối với từng lĩnh vực kinh tế, ngân hàng
thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã vươn lên dẫn đầu hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đặt nền móng vững chắc lên vị trí một trong
những ngân hàng được tin cậy nhất trong nền kinh tế Việt Nam.
VietinBank là một trong những ngân hàng đứng đầu cả nước về quy mô với hệ
thống chi nhánh lớn, trải dài khắp các tỉnh thành trên cả nước. Được thành lập từ
năm 1988, trên cở sở tách ra từ NHNN Việt Nam, VietinBank là một trong bốn
NHTM Nhà nước lớn nhất giữ vai trò quan trọng, cốt lõi của hệ thống ngân hàng
Việt Nam và được xếp hạng trong 23 doanh nghiệp đặc biệt của Việt Nam. Hướng
tới tầm nhìn dài hạn, VietinBank quyết tâm trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng
hiện đại, hiệu quả hàng đầu trong nước và quốc tế.
VietinBank không những mang trọng trách thúc đẩy nền kinh tế, mà còn
đóng vai trò định hướng phát triển cho các NHTM khác. Tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn
của VietinBank trong các năm gần đây có xu hướng giảm rõ rệt. Để đạt được kết
quả này, các cán bộ. nhân viên của VietinBank đã không ngừng phấn đấu, cống
hiến làm việc hết mình trong mọi hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động
cấp tín dụng.

1


Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động mà TCTD sử dụng nguồn vốn tự có hoặc

nguồn vốn huy động để thực hiện việc cấp tín dụng với các hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay, hoạt động cho vay là một hình
thức cấp tín dụng chủ yếu trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam, trong
đó có VietinBank. Trong quá trình cho vay, các NHTM phải có trách nhiệm với
khoản tiền cho vay, đảm bảo thu hồi được vốn và lãi, nên việc áp dụng các BPBĐ
tiền vay là điều tất yếu tại các ngân hàng. Cũng như các NHTM khác, VietinBank
cũng thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng
các BPBĐ tiền vay, VietinBank vẫn còn gặp phải một số khó khăn, đặc biệt trong
vấn đề xử lý TSBĐ tiền vay.
Xuất phát từ tình hình đó, với những hiểu biết nhất định về hoạt động bảo
đảm tiền vay, cùng với quá trình được tìm hiểu thực tiễn công tác xử lý tài sản bảo
đảm tại VietinBank trong thời gian thực tập tại đây, em đã lựa chọn đề tài: “Áp
dụng pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Công Thương Việt Nam” cho chuyên đề của mình.
Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản về pháp luật xử lý TSBĐ tiền
vay tại NHTM và các TCTD; thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý TSBĐ tại
VietinBank; nguyên nhân của những khó khăn trong việc xử lý TSBĐ và đề xuất một
số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý TSBĐ tiền vay tại VietinBank.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra, chuyên đề xác định nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xử lý TSBĐ tiền vay.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý TSBĐ tại
VietinBank.
- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động xử lý TSBĐ tiền vay tại
VietinBank trong thời gian gần đây. Từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý TSBĐ tại VietinBank trong giai
đoạn tới.

2



Chuyên đề sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp, khảo sát và điều tra thực tế…
Ngoài Lời mở đầu, Danh mục chữ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, bố cục của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt
Nam

3


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1.1.
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1.1.1. Những vấn đề pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
1.1.1.1. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Cho vay là việc thực hiện chuyển quyền sử dụng một lượng vốn nhất định bằng
tiền mặt hay các tài sản khác từ bên cho vay với bên vay. Khi cho khách hàng vay
tiền, NHTM hay TCTD phải thẩm định và tính toán được khả năng trả nợ của khách
hàng. Trong giao dịch tín dụng, do việc thực hiện nguyên tắc đi vay để cho vay gồm
những rủi ro và bất trắc nên các TCTD luôn coi trọng vấn đề bảo đảm tiền vay bằng
tài sản. Tuy nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan khiến
cho bên vay không có tiền trả nợ vào ngày đáo hạn và dẫn đến việc TCTD phải xử lý

TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ.
Bảo đảm tiền vay hay còn gọi là bảo đảm tín dụng theo ngôn ngữ khoa học
được giải thích như sau: “Bảo đảm tín dụng là cơ sở mà dựa vào đó người cho vay có
thể thu hồi số tiền đã cho vay, trong trường hợp người cho vay không có khả năng
trả nợ. Đó có thể là vật tư, tài sản mà số tiền vay đầu tư vào, hoặc tài sản mà người
vay tiền thế chấp, hoặc cầm cố hoặc bảo lãnh tín dung hay uy tín của người vay”.1
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo
đảm tiền vay của các TCTD: “bảo đảm tiền vay là việc tổ chứng tín dụng áp
dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu
hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”. 2
Khi đi tới một sự thỏa thuận về cho vay có bảo đảm, các bên sẽ thương lượng
với nhau về các biện pháp dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngăn ngừa,
phòng tránh rủi ro nếu bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ trả nợ của mình. Giao dịch bảo đảm được xác lập dựa trên cơ sở là hợp đồng bảo
đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay cũng là những quy định của pháp luật về việc thực hiện các
1
2

Viện Khoa học tài chính – Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng
Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP (hết hiệu lực)

4


BPBĐ được quy định tại Khoản 1 Điều 318 BLDS 2005. Theo đó, các chủ thể trong
giao dịch bảo đảm tiền vay được quyền áp dụng các BPBĐ nhất định để bảo đảm
cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng được thực hiện. Đồng thời, xác định và
đảm bảo các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong biện pháp đó.
Trong mối quan hệ bảo đảm tiền vay có hai chủ thể chính đó là bên nhận bảo

đảm và bên bảo đảm. Bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ dân sự và
thực hiện quyền của mình được bảo đảm bằng một hay nhiều giao dịch bảo đảm.
Bên nhận bảo đảm có thể là bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt cọc,
bên nhận kí cược, bên nhận bảo lãnh, TCTD trong trường hợp tín chấp và bên có
quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại trong trường hợp ký quỹ.
Bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, bao gồm: bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên
ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín
chấp.
Ngoài ra, bên nhận bảo đảm ngay tình là bên nhận bảo đảm trong trường hợp
không biết và không thể biết về việc bên bảo đảm không có quyền dùng tài sản để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Việc đảm bảo tiền vay bằng tài sản không chỉ mang lại cho NHTM sự đảm
bảo rằng NHTM không bị mất hoàn toàn khoản vay trong trường hợp bên vay
không trả được nợ, mà còn cho NHTM quyền được ưu tiên thanh toán khi người có
TSBĐ thực hiện thanh lý tài sản đó. Nếu giá trị TSBĐ vượt quá giá trị khoản vay,
thì sau khi thanh lý, khoản chênh lệch sẽ được trả lại cho bên vay sau khi số tiền
được thanh toán đầy đủ cả nợ gốc và lãi phát sinh tại NHTM. Trong trường hợp đã
xử lý TSBĐ, tuy nhiên vẫn không đủ trả nợ thì ngân hàng có thể được quyền xử lý
các tài sản khác của bên vay để thu hồi nợ nếu bên vay đồng ý giao tài sản khác để
bù trừ vào nghĩa vụ trả nợ hoặc theo sự phán quyết của toà án.
Các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay chính là một trong những biện
pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của NHTM. Hệ thống các quy định pháp luật về
bảo đảm tiền vay có thể giúp cho NHTM hạn chế, kiểm soát được các rủi ro liên

5


quan đến hoạt động của mình; hơn nữa, NHTM có thể dự đoán được khả năng
thành công trong việc xử lý TSBĐ.

Như vậy, bảo đảm tiền vay là một hình thức của giao dịch bảo đảm. Theo đó,
bên cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cam kết với TCTD về việc dùng tài sản hoặc uy tín
của tổ chức để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và lãi suất. Về bản chất pháp lý,
bảo đảm tiền vay là giao dịch dân sự mà trong đó xác lập quyền và nghĩa vụ của các
bên trong việc bản đảm khả năng thu hồi nợ cho bên cho vay bằng các biện pháp
bảo đảm theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài sản bảo đảm tiền vay
1.1.1.2.1. Khái niệm về tài sản bảo đảm tiền vay
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả hoặc không trả đúng thời
hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho NHTM. Nhìn chung, ngân hàng thường
quyết định cho vay khi thấy rủi ro tín dụng không xảy ra. Tuy nhiên điều này là rất
khó. Không một ngân hàng nào có thể dự đoán được chính xác những vấn đề sẽ xảy
ra vì khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, trừ những
khách hàng có uy tín cao, hầu hết khách hàng phải có TSBĐ khi thực hiện giao dịch
với ngân hàng.
Khoản 7 Điều 3 và Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã đưa ra
khái niệm khá trọn vẹn về TSBĐ: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm”
“Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ
hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm
có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao
dịch”.3
Trước đây, việc quy định TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm là
một điều kiện cơ bản để xác lập giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên vô hình chung nó đã
thu hẹp phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm như tài sản hình thành trong tương lai,
3

Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP


6


hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản có thể thu khác… bởi lẽ, tại thời điểm
giao dịch bảo đảm được xác lập, những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở
hữu của bên bảo đảm. Mặc dù vậy, việc quy định bắt buộc TSBĐ phải thuộc sở hữu
của bên bảo đảm đã hạn chế phần lớn rủi ro cho bên nhận bảo đảm, tức các TCTD
khi thực hiện các quyền lợi của mình trên chính tài sản đó. Hiện nay, Khoản 1 Điều
4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã có quy định rộng hơn về vấn đề này. Theo đó,
các bên tham gia giao dịch bảo đảm được thỏa thuận việc bảo đảm bằng tài sản hình
thành trong tương lai, thêm vào đó, Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi Khoản 1 và
Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định mở như sau: “1. Tài
sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp
luật không cấm giao dịch.2. Tài sản hình thành trong tương lai gồm:a) Tài sản
được hình thành từ vốn vay; b) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang
được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; c) Tài sản đã hình
thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết
giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài
sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất.”4
Hiện nay, các TCTD không còn phải mất thời gian đi tìm hiểu thực trạng tài
sản có tranh chấp hay không và tra cứu văn bản pháp luật về điều kiện bảo hiểm
đối với TSBĐ. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, các bên vẫn có thể
thỏa thuận áp dụng một hoặc cả hai điều kiện trên trong giao dịch bảo đảm, miễn
sao điều kiện đó có tính khả thi, thực hiện được trên thực tế và bảo đảm an toàn
vốn vay cho TCTD, đồng thời không làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của
khách hàng.
Tài sản được dùng làm TSBĐ tiền vay rất phong phú và đa dạng. Ngoài các
loại tài sản được quy định tại BLDS 2005: Bất động sản và động sản; quyền tài sản,
hiện nay pháp luật Việt Nam cũng cho phép sử dụng tài sản hình thành trong tương

lai làm TSBĐ như đã nêu trên.
1.1.1.2.2. Đặc điểm của tài sản bảo đảm tiền vay
4

Điều 2 Nghị định 11/2012/NĐ-CP

7


TSBĐ có những đặc điểm sau:
Một là, giá trị của TSBĐ phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm. Đây là vấn đề
có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm cho NHTM có thể thu hồi đủ nợ và lãi phát sinh
khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ phải xử
lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Hai là, TSBĐ phải có sẵn thị trường tiêu thụ. Tính dễ tiêu thụ của TSBĐ làm
cho việc xử lý tài sản diễn ra nhanh, thu hồi nợ tốt .
Ba là, TSBĐ có đủ cơ sở pháp lý. TSBĐ phải thuộc sở hữu hợp pháp của bên
vay hoặc người bảo lãnh, được cho phép giao dịch , để bên cho vay dễ dàng xử lý
để thu nợ khi bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Tóm lại, TSBĐ là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm, theo đó pháp luật quy định tài sản bảo đảm
bao gồm tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai, tài sản hữu hình, tài sản
vô hình, tài sản bảo đảm phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm và phải được
phép giao dịch.
1.1.1.3. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
Nếu đến hạn trả nợ mà bên vay trả được hết nợ cả gốc lẫn lãi thì theo nguyên
tắc là NHTM phải trả lại TSBĐ tiền vay cho bên vay. Đây là điều mà tất cả các
NHTM đều mong muốn khi thực hiện giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, nhiều trường
hợp bên vay vì một lý do nào đó mà không trả được nợ thì TSBĐ đó được đem ra
xử lý để thu hồi nợ. Khi dó, TSBĐ thực sự là “chiếc lá chắn cuối cùng” cho NHTM

để thu hồi vốn. Tuy khi cho vay NHTM không mong muốn phải bán TSBĐ để thu
hồi nợ nhưng đó là giải pháp cuối cùng khi mà khách hàng không trả được nợ hoặc
không trả được hết.
Xử lý TSBĐ tiền vay là một trong những hoạt động tín dụng, cụ thể là hoạt
động thực hiện các biện pháp đối với TSBĐ của bên vay nhằm thu hồi nợ đến hạn.
BLDS 2005 có quy định rằng đối với các hình thức bảo đảm, khi đã hết hạn thực
hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố, thế chấp vẫn không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận thì TSBĐ phải được xử lý theo phương thức mà hai

8


bên thỏa thuận (bán tài sản, giao tài sản, thanh toán giá trị tài sản…) hoặc được bán
đấu giá để thực hiện nghĩa vụ...5
Theo đó, xử lý TSBĐ có thể được hiểu là TCTD tiến hành thanh lý tài sản nếu
trong thời hạn trả nợ mà khách hàng không trả được nợ, tài sản sẽ được xử lý theo
phương thức mà các bên đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Xét từ khía cạnh luật học, xử lý TSBĐ có thể xem là một chế định pháp luật
trong đó bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc, phương thức,
điều kiện, quy trình, thủ tục xử lý các TSBĐ nhằm mục tiêu thu hồi nợ cho bên bảo
đảm, đồng thời bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản.
Xử lý TSBĐ là một trong các biện pháp thu hồi nợ của NHTM. Xử lý TSBĐ
là một quy trình đặc biệt, điều nay được thể hiện ở chỗ quy trình này được áp dụng
thông qua việc NHTM bán, chuyển nhượng hay sử dụng TSBĐ cho người thứ ba
(bằng hình thức mua bán thông thường hoặc thông qua đấu giá tài sản) để thu hồi
vốn khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
Đây là một quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau,
bao gồm: ngân hàng, khách hàng, các bên có liên quan và kể cả các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, trong đó chủ thể đóng vai trò trọng tâm chính là ngân hàng –
với tư cách là chủ nợ có bảo đảm. Mục đích của việc xử lý TSBĐ là nhằm mục đích

thu hồi vốn, bảo vệ lợi ích cho ngân hàng trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu của chủ
tài sản. Nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu là do hoạt động cho vay của NHTM
thường có độ rủi ro cao và có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế nên pháp luật phải đặt
ra những quy định chặt chẽ về nguyên tắc, quy trình xử lý TSBĐ, thông qua đó
nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của NHTM (bên nhận bảo đảm) và quyền sở
hữu của chủ tài sản (bên bảo đảm).
Xử lý TSBĐ không chỉ đơn thuần là biện pháp để thu hồi nợ cho ngân hàng, mà
còn giúp cho ngân hàng giảm được chi phí do việc phải bảo quản, bảo dưỡng các
TSBĐ trong khi các tài sản này đã ngừng hoạt động để đưa vào diện xử lý thu hồi nợ.
Đối với những NHTM có khối lượng TSBĐ phải xử lý để thu hồi nợ lớn do có nhiều
5

Điều 336, 338, 355, 369 BLDS 2005

9


khách hàng không trả được nợ, việc bán các tài sản trên sẽ giúp cho ngân hàng thu
hồi được nợ và tránh rơi vào tình trạng phá sản do không có khả năng thanh toán các
khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn. Xử lý TSBĐ là một biện pháp nhằm đẩy
mạnh quá trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các NHTM. Đối với khách
hàng, tâm lý của khách hàng vay vốn đều muốn kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi
nhuận và không ai muốn bị rủi ro dẫn đến phải bán TSBĐ để trả nợ, tuy nhiên điều
này vẫn thường xuyên xảy ra. Chính vì vậy, NHTM buộc phải xử lý TSBĐ của khách
hàng để thu hồi nợ cho mình. Việc xử lý TSBĐ nếu được thực hiện tốt sẽ giúp cho
các khách hàng hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ, hoặc nếu chưa trả đủ thì cũng giúp
khách hàng giảm bớt được nợ đối với ngân hàng, quan trọng hơn là giúp khách hàng
tránh phải ra hầu toà hoặc hơn nữa là bị cưỡng chế Thi hành án do không trả được nợ
cho ngân hàng.
1.1.2.


Nội dung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

1.1.2.1. Quy định của pháp luật về cơ sở xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
Các NHTM được phép xử lý tài sản trong các trường hợp cụ thể như sau:6
- Thứ nhất, đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã
được ký kết giữa khách hàng và NHTM mà bên được bảo đảm không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận bảo đảm.
- Thứ hai, bên được bảo đảm vi phạm hợp đồng tín dụng và bị NHTM yêu cầu
thu hồi vốn trước hạn song bên được bảo đảm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ
vay trước hạn thì sẽ bị xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Trong bất kỳ hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm nào cũng quy định rất cụ thể về nghĩa vụ của các bên khi tham gia
giao kết và thực hiện hợp đồng, đồng thời đều quy định trong trường hợp bên vay
(bên được bảo đảm) hoặc bên bảo đảm vi phạm quy định của hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm thì ngân hàng có quyền yêu cầu thu hồi nợ trước hạn. Ví dụ như trong
trường hợp: nghĩa vụ của bên vay (bên được bảo đảm) là phải sử dụng vốn vay đúng
mục đích, tuy nhiên họ sử dụng vốn vay vào mục đích khác thì ngân hàng sẽ phải tiến
hành thu hồi nợ trước hạn, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ
6

Điều 56, 57 Nghị định 163/2006/NĐ-CP

10


trả nợ thì ngân hàng có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
- Thứ ba, pháp luật quy định TSBĐ phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ khác khi đã đến hạn. Một tài sản có thể cùng một lúc bảo đảm cho nhiều
khoản nợ vay nhưng giá trị của TSBĐ phải lớn hơn giá trị của tổng giá trị của các
khoản vay, khi một trong số những khoản vay có cùng TSBĐ đến hạn mà bên bảo

đảm không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến hành bán
TSBĐ để thu hồi nợ .
- Thứ tư, xử lý TSBĐ trong trường hợp bên bảo đảm bị phá sản. Theo quy định
của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, trong trường hợp bên bảo đảm (doanh nghiệp
bị phá sản) là con nợ đã cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm nghĩa vụ thực hiện trả
nợ thì TSBĐ được tách riêng để ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm. 7 Nếu giá
trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ
được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp; còn nếu giá trị tài
sản lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, nguyên tắc trên chỉ áp dụng đối với các giao dịch cầm cố, thế
chấp được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Do vậy,
những giao dịch bảo đảm xác lập sau thời điểm trên thì được coi là vô hiệu, và chủ nợ
có bảo đảm bằng tài sản sẽ mất quyền ưu tiên thanh toán (trở thành chủ nợ không có
bảo đảm).
Trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản đã dùng TSBĐ cho việc thực hiện
nghĩa vụ của người thứ ba (bảo lãnh bằng tài sản)8 thì TSBĐ được xử lý theo quy
định của pháp luật về phá sản9 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP10 để thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm của người thứ ba (con nợ) đã đến hạn thực hiện nhưng con nợ không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nếu nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến
hạn thực hiện thì TSBĐ được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản để thực
hiện nghĩa vụ đối với các chủ nợ khác của bên bảo đảm (bên nhận bảo đảm chấm dứt
quyền với TSBĐ), trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về việc xử lý TSBĐ.
7

Điều 35 Luật phá sản 2014
Điều 369 BLDS 2005
9
Khoản 2 Điều 39 Luật phá sản 2014
10
Khoản 2 Điều 57 Nghị định 163/2006/NĐ-CP

8

11


- Ngoài các trường hợp trên, các trường hợp xử lý TSBĐ khác do các bên
thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Đối với trường hợp doanh nghiệp hợp nhất,
sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá, TSBĐ cho các khoản nợ của doanh nghiệp trước
khi hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá… được tiếp tục dùng làm TSBĐ
cho các khoản nợ đó của các doanh nghiệp mới sau khi doanh nghiệp cũ hợp nhất,
sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá. Nếu nhận thấy doanh nghiệp mới sau khi
chuyển đổi có khả năng không thực hiện biện pháp này, thì ngân hàng có quyền xử
lý TSBĐ để thu hồi nợ trước khi thực hiện nghĩa vụ chia, tách, hợp nhất, sáp nhập,
chuyển đổi, cổ phần hoá của doanh nghiệp đó.
Tuy nhiên trên thực tế thì không phải lúc nào khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ
là ngân hàng đều tiến hành xử lý TSBĐ. Đôi khi, với những khách hàng vẫn có
khả năng thanh toán thì NHTM vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả nợ của khách
hàng và xem xét gia hạn nợ, thậm chí ngân hàng có thể cấp tín dụng bổ sung cho
khách hàng để tiếp tục duy trì kinh doanh. Mục tiêu của ngân hàng không phải là
xử lý TSBĐ của khách hàng mà luôn tạo điều kiện tối đa giúp khách hàng có thể
trả được nợ cho ngân hàng.
Khi NHTM buộc phải xử lý TSBĐ để thu hồi nợ, thời điểm để xử lý TSBĐ là
sau một khoảng thời gian kể từ khi khách hàng đến hạn trả nợ đối với TSBĐ chưa
được các bên xử lý theo thoả thuận. NHTM có quyền quyết định thời điểm xử lý
TSBĐ kể từ ngày đăng ký thông báo yêu cầu xử lý TSBĐ tại cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm hoặc tính từ ngày ngân hàng gửi thông báo về việc xử lý TSBĐ
(trường hợp giao dịch bảo đảm không phải đăng ký).11
1.1.2.2. Quy định của pháp luật về hình thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
Về nguyên tắc, TSBĐ tiền vay sẽ được ưu tiên xử lý theo thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng, sau đó mới áp dụng các quy định của pháp luật (trừ một số

trường hợp đặc biệt như đối với TSBĐ tiền vay là quyền sử dụng đất). Việc xử lý
TSBĐ tiền vay được ưu tiên thực hiện theo thỏa thuận của các bên chính là nhằm
tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt trong giao dịch dân sự, đồng thời tránh cho các
11

Điều 16 Nghị định 11/2012/NĐ-CP

12


bên những chi phí tốn kém không cần thiết do phải yêu cầu sự can thiệp của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Thực tế cho thấy dù TSBĐ được xử lý theo thỏa thuận hay theo pháp luật thì
các hình thức chủ yếu để xử lý TSBĐ vẫn là:12
- Bán tài sản bảo đảm
- Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ của bên bảo đảm
- Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba
trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ
- Phương thức khác do các bên thỏa thuận
Ngoài ra, thực tiễn còn cho thấy các TCTD luôn tìm cách vận dụng nhiều
phương pháp linh hoạt để xử lý TSBĐ trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Những
phương pháp này có thể là tiếp nhận TSBĐ để khai thác kinh doanh thu hồi nợ hoặc
góp vốn liên doanh bằng chính TSBĐ. Việc áp dụng theo hình thức nào để xử lý
TSBĐ về cơ bản do các bên trong quan hệ bảo đảm tiền vay quyết định trên cơ sở
đặc điểm của từng biện pháp bảo đảm.
1.1.2.2.1. Bán tài sản bảo đảm
Bán TSBĐ là việc TCTD hoặc bên bảo đảm hoặc các bên phối hợp để bán tài
sản trực tiếp cho người mua hoặc ủy quyền cho bên thứ ba bán tài sản cho người
mua. Bên thứ ba này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và được thực hiện quyền

thu hồi nợ hoặc xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật.
Nếu TCTD không phải là bên được bán TSBĐ thì TCTD có trách nhiệm theo
dõi, giám sát kế hoạch, diễn biến quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản, ngăn chặn
kịp thời những hành vi gây thiệt hại đến TSBĐ, thất thoát tiền bán TSBĐ, thu hồi
tối đa nợ vay của khách hàng. Tại Điều 17 Nghị định 11/2012/NĐ – CP có quy định
chi tiết phương thức này như sau:
“1. Trong trường hợp các bên thỏa thuận phương thức xử lý tài sản bảo đảm
là bán đấu giá tài sản thì việc bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp
12

Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP

13


luật về bán đấu giá tài sản.
2. Trong trường hợp các bên thỏa thuận về việc bán tài sản không thông qua
phương thức bán đấu giá thì việc bán tài sản bảo đảm được thực hiện theo các quy
định về bán tài sản trong Bộ luật Dân sự và quy định sau đây:
a) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm
định giá tài sản để có cơ sở xác định giá bán tài sản bảo đảm;
b) Bên nhận bảo đảm phải thanh toán cho bên bảo đảm số tiền chênh lệch
giữa giá bán tài sản bảo đảm với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác;
c) Sau khi có kết quả bán tài sản thì chủ sở hữu tài sản và bên có quyền xử lý
tài sản bảo đảm có trách nhiệm thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật
để chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua tài sản bảo đảm”.
1.1.2.2.2.

Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho


việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm
Biện pháp nhận chính TSBĐ tiền vay để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm là việc bên nhận bảo đảm trực tiếp nhận tài sản bảo đảm, lấy giá trị
TSBĐ được định giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn
của bên bảo đảm sau khi trừ đi các chi phí khác và tiếp nhận chính tài sản đó.
Thực hiện theo quy định tại Điều 18 Nghị định 11/2012/NĐ-CP, việc nhận
chính TSBĐ thay cho nghĩa vụ trả nợ có thể giải thích như sau:
- Giá trị TSBĐ được xác định thông qua thỏa thuận của các bên hoặc các cơ
quan, tổ chức thẩm định.
- Nếu giá trị TSBĐ lớn hơn giá trị khoản nợ (nghĩa vụ được bảo đảm) thì bên
nhận bảo đảm phải thanh toán cho bên bảo đảm số tiền chênh lệch đó, trừ khi có
thỏa thuận khác.
- TCTD khi nhận TSBĐ để hay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ (trả khoản
vay) của bên vay phải chứng minh được mình có quyền xử lý TSBĐ bằng các văn
bản chứng thực và phải báo cáo kết quả xử lý TSBĐ cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đất) với TSBĐ đó.

14


Trên thực tế chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa hai biện pháp bán TSBĐ và
nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Pháp luật hiện hành
chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể về cách thức vận dụng biện pháp này.
Có thể nói đây là biện pháp xử lý TSBĐ khá hiệu quả. Theo đó, ngân hàng và
các TCTD được trực tiếp nhận chuyển nhượng quyền sở hữu TSBĐ để bù trừ nghĩa
vụ. Biện pháp này cũng được thực hiện dựa trên cơ sở định giá TSBĐ ở thời điểm
xử lý tài sản để cân đối với giá trị nghĩa vụ tài sản cần được bù trừ.
1.1.2.2.3.


Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ

người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định 163/2006/NĐ-CP: “Bên có
quyền đòi nợ được thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ, bao gồm cả
quyền đòi nợ hình thành trong tương lai mà không cần có sự đồng ý của bên có
nghĩa vụ trả nợ.” NHTM trực tiếp nhận khoản tiền hoặc tài sản mà bên thứ ba phải
trả hoặc phải giao cho bên bảo đảm theo các thủ tục và quy định của pháp luật.
Khi khách hàng vay không trả được nợ hoặc bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản
không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, NHTM có quyền chuyển giao quyền thu hồi lại
hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý TSBĐ. Bên thứ ba là tổ chức có tư cách pháp
nhân và được thực hiện quyền thu hồi nợ hoặc xử lý TSBĐ theo quy định của pháp
luật. Các ngân hàng hoặc bên bảo đảm phải thông báo cho bên thứ ba biết việc ngân
hàng được nhận các khoản tiền, tài sản nêu trên đồng thời yêu cầu bên thứ ba giao
các khoản tiền, tài sản đó cho các ngân hàng. Việc giao các khoản tiền, tài sản cho
ngân hang phải thực hiện theo đúng thời hạn, địa điểm được ấn định trong thông
báo xử lý TSBĐ.
Trong trường hợp được ngân hàng chuyển giao quyền thu hồi nợ, bên thứ ba
có quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ hoặc xử lý TSBĐ như ngân hàng.
Trường hợp được ngân hàng uỷ quyền xử lý tài sản, thì bên thứ ba được xử lý
TSBĐ trong phạm vi được uỷ quyền.
Các ngân hàng sẽ lập biên bản nhận các khoản tiền, tài sản giữa ngân hàng,
bên bảo đảm và bên thứ ba. Biên bản nhận các khoản tiền, tài sản phải ghi rõ việc

15


bàn giao, tiếp nhận các khoản tiền, tài sản, việc định giá tài sản và thanh toán nợ từ
việc xử lý tài sản. Trong trường hợp bên thứ ba không giao các khoản tiền, tài sản
nói trên theo yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng thủ tục buộc bên thứ ba phải giao tài sản hoặc khởi
kiện ra toà án.
Ngoài ra, xử lý TSBĐ trường hợp không thoả thuận được phương thức xử lý
thì áp dụng phương thức bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. TSBĐ là
động sản thực hiện xử lý theo quy định tại Điều 57 Quy chế bảo đảm tiền vay của
Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Điều 65 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP. TSBĐ là
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp không có thoả thuận về
phương thức xử lý: thực hiện xử lý theo quy định tại Điều 68 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP.
1.1.2.3. Quy định của pháp luật về nội dung xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
1.1.2.3.1.
Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm
Xử lý TSBĐ là một biện pháp thu hồi nợ cho ngân hàng, được thanh toán trực
tiếp từ số tiền thu được khi xử lý tài sản, việc xử lý TSBĐ về nguyên tắc trước tiên
được thực hiện theo thoả thuận của các bên. Có thể là thoả thuận tại thời điểm xác lập
giao dịch bảo đảm hoặc các bên có thể thoả thuận tại bất kỳ thời điểm nào khác trong
quá trình thực hiện giao dịch bảo đảm, xử lý TSBĐ. Trong trường hợp các bên không
có thoả thuận thì việc xử lý TSBĐ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 58 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Điều 15 Nghị định số 11/2012/NĐCP sửa đổi Khoản 4 và bổ sung Khoản 6 Điều 58 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
quy định cụ thể về nguyên tắc xử lý TSBĐ như sau:
- Thứ nhất, trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một
nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu
không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận giữa bên bảo đảm
với các bên cùng nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận
được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
16



Hai nguyên tắc trên không chỉ đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên trong
quan hệ xử lý TSBĐ mà còn giúp các bên có điều kiện, khả năng và cơ hội phối hợp
một cách thiện chí hơn trong quá trình xử lý TSBĐ. Vì lẽ đó, thỏa thuận không chỉ
giúp việc xử lý tài sản được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả mà còn giúp giải quyết
triệt để mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên.
- Thứ ba, việc xử lý TSBĐ phải được thực hiện một cách khách quan, công
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này giúp các bên tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và giúp
nhà nước dễ dàng kiểm soát các sai phạm trong quá trình xử lý tài sản. Điều này
đòi hỏi các bên trong quá trình xử lý phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về
công bố thông tin, bán đấu giá, quy tắc xử lý… Đây là những quy tắc bắt buộc đối
với hoạt động xử lý TSBĐ và chỉ có như vậy kết quả hoạt động này mới được pháp
luật thừa nhận.
- Thứ tư, người xử lý TSBĐ (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên
nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên
tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác. Người xử lý tài sản căn cứ nội dung
đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý TSBĐ mà không
cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm.
- Thứ năm, việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh
doanh tài sản của bên nhận bảo đảm. Do đó, hoạt động này không phải chịu thuế
theo quy định của pháp luật thuế.
- Thứ sáu, trong trường hợp TSBĐ là quyền sử dụng đất, nhà ở thì tổ chức, cá
nhân mua TSBĐ hoặc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá
nhân không thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì chỉ được hưởng giá trị quyền sử
dụng đất, giá trị nhà ở.


17


1.1.2.3.2.

Trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

Trước khi xử lý TSBĐ, các ngân hàng và TCTD phải thực hiện những thủ
tục sau:13
- Bước 1: Thông báo cho bên bảo đảm về việc xử lý TSBĐ
Thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm về việc xử lý TSBĐ và đăng ký
thông báo yêu cầu xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm (nếu giao dịch bảo đảm đó đã được đăng ký).
Văn bản thông báo xử lý TSBĐ có các nội dung chủ yếu sau đây:
- Lý do xử lý tài sản bảo đảm
- Giá trị nghĩa vụ đươc đảm bảo
- Loại tài sản xử lý: đặc điểm , chất lượng, số lượng
- Thời điểm xử lý tài sản bảo đảm
- Thời hạn và địa điểm chuyển giao tài sản bảo đảm (nếu có)
Cùng lúc đó, các ngân hàng cũng ấn định thời điểm xử lý TSBĐ trong thông
báo xử lý TSBĐ, nhưng không được sớm hơn 15 ngày kể từ ngày đăng ký thông
báo yêu cầu xử lý TSBĐ tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Đối với giao dịch
bảo đảm không phải đăng ký hoặc chưa đăng ký do cơ quan đăng ký quốc gia giao
dịch bảo đảm chưa hoạt động, thì thời hạn nêu trên được tính từ ngày ngân hàng gửi
thông báo xử lý tài sản cho bên bảo đảm. Trong trường hợp TSBĐ có nguy cơ dễ
hư hỏng thì ngân hàng được xử lý tài sản ngay sau khi thông báo xử lý TSBĐ.
Sau khi thực hiện việc thông báo xử lý TSBĐ, ngân hàng có quyền yêu cầu
bên bảo đảm phối hợp với ngân hàng thực hiện các biện pháp cần thiết chuẩn bị cho
việc xử lý TSBĐ. Bên cạnh đó, ngân hàng được khai thác, sử dụng TSBĐ hoặc cho
phép bên bảo đảm hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba khai thác, sử dụng TSBĐ; đồng

thời yêu cầu bên bảo đảm hoặc bên thứ ba không được khai thác, sử dụng TSBĐ
nếu việc khai thác, sử dụng đó có nguy cơ làm mất giá trị hoặc làm giảm sút giá trị
tài sản và thanh toán nợ đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai thác, sử dụng
TSBĐ sau khi trừ đi các chi phí cần thiết.
13

Điều 61, 62, 63, 65, 69 Nghị định 163/2006/NĐ-CP; Điều 16 Nghị định 11/2012/NĐ-CP

18


- Bước 2: Lập biên bản xử lý TSBĐ
Biên bản xử lý TSBĐ phải ghi rõ việc bàn giao, tiếp nhận TSBĐ, phương thức
xử lý TSBĐ, quyền, nghĩa vụ của các bên và các thoả thuận khác (nếu có).
Về nguyên tắc, TCTD và bên bảo đảm phải thoả thuận về giá trị TSBĐ tại thời
điểm xử lý tài sản và lập biên bản thoả thuận việc định giá tài sản. Trường hợp các
bên không thoả thuận được về giá TSBĐ thì trước khi TCTD quyết định xử lý
TSBĐ, TCTD có thể thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định giá hoặc
tham khảo giá đã được tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định giá thực tế tại
địa phương vào thời điểm xử lý, giá quy định của nhà nước (nếu có) và các yếu tố
khác về giá.
- Bước 3: Bên bảo đảm phải có trách nhiệm kết hợp với bên nhận bảo đảm
thực hiện bàn giao tài sản bảo đảm
Bên bảo đảm phối hợp với ngân hàng thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho
việc xử lý TSBĐ như bàn giao TSBĐ cho ngân hàng, bàn giao giấy tờ có liên quan
đến TSBĐ theo yêu cầu của ngân hàng (trong trường hợp bên bảo đảm hoặc bên thứ
ba giữ giấy tờ , TSBĐ), tạo điều kiện cho bên mua xem tài sản và thực hiện các biện
pháp cần thiết khác để xử lý TSBĐ.
Trong trường hợp bên bảo đảm hoặc bên thứ ba giữ giấy tờ, TSBĐ, ngân hàng
ấn định ngày giao giấy tờ, tài sản đó để xử lý trong thông báo xử lý TSBĐ. Nếu bên

giữ TSBĐ không thực hiện, thì ngân hàng có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp buộc bên giữ TSBĐ phải giao giấy tờ, tài sản. Ngân
hàng yêu cầu bên giữ tài sản phải giao TSBĐ nếu có một trong các hành vi sau đây:
- Không giao TSBĐ theo yêu cầu của tổ chức tín dụng
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các biện pháp bảo quản TSBĐ
- Tự ý hành vi bán, trao đổi, cho thuê, tặng cho, cho mượn, góp vốn liên
doanh, tẩu tán, làm hư hỏng, mất TSBĐ
- Có hành vi khác gây ra nguy cơ làm hư hỏng, mất mát TSBĐ
Trong trường hợp bên giữ tài sản không giao tài sản theo yêu cầu của ngân
hàng hay TCTD thì họ có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bên

19


giữ TSBĐ phải giao tài sản.
- Bước 4: Xoá đăng ký xử lý TSBĐ14
Cuối cùng, sau khi TSBĐ đã được xử lý để thu hồi nợ, ngân hàng hoặc bên
bảo đảm sẽ tiến hành xoá đăng ký xử lý tài sản, xóa đăng ký giao dịch bảo đảm theo
quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Sau khi hoàn thành xong các thủ tục nêu trên, ngân hàng và các TCTD
tiến hành thanh toán thu hồi nợ từ việc xử lý TSBĐ tiền vay. Theo quy định tại
Điều 325 BLDS 2005 thì trình tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ được xác
định như sau:
- Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký thì việc xác định thứ tự
ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ được xác định theo thứ tự đăng ký.
- Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa
vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng
ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán.
- Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân
sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán

được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm.
Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý TSBĐ không đủ để thanh toán cho
các bên nhận bảo đảm có cùng thứ tự ưu tiên thanh toán thì số tiền đó được thanh
toán cho các bên theo tỷ lệ tương ứng với giá trị nghĩa vụ bảo đảm.15
Pháp luật quy định như vậy nhưng trên thực tế, các TCTD và bên bảo đảm
vẫn gặp nhiều khó khăn và nảy sinh mâu thuẫn trong việc thực hiện thanh toán nợ.
Lý do chính là pháp luật không quy định rõ thế nào là “chi phí cần thiết, hợp lý phát
sinh” trong việc xử lý tài sản. Chính vì vậy, khi các chi phí xử lý tài sản được thanh
toán trước nợ trong trường hợp TCTD hoặc bên thứ ba xử lý TSBĐ, điều này có thể
sẽ ảnh hưởng tới giá trị tài sản thu nợ do không xác định được các loại chi phí xử lý
tài sản.
1.1.2.3.3.
14
15

Xử lý tài sản bảo đảm là một số loại tài sản đặc biệt

Điều 13 Nghị định 83/2010/NĐ-CP
Khoản 3 Điều 6 Nghị định 163/2006/NĐ-CP

20


Hiện nay, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; quyền đòi nợ và tài sản
hình thành trong tương lai được đem ra để thế chấp vay vốn khá nhiều. Do tính
phức tạp của nó nên tranh chấp thường xuyên diễn ra, vì vậy pháp luật đã có những
quy định riêng để áp dụng đối với những loại tài sản này tại Nghị định
163/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN.
- Về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất:
Trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức xử lý TSBĐ là quyền

sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được bán đấu giá.
Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp
quyền sử dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người mua, người nhận
chính tài sản gắn liền với đất đó được tiếp tục sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của
bên thế chấp trong hợp đồng về quyền sử dụng đất giữa bên thế chấp và người sử
dụng đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với
đất, trừ trường hợp có thoả thuận khác.16
Trước khi Thông tư 16 được ban hành, mặc dù các bên có thỏa thuận về bên
nhận thế chấp được nhận số tiền bồi thường trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thu hồi đất, nhưng do không có quy định về việc chi trả tiền bồi thường
cho bên nhận thế chấp nên cơ quan thu hồi đất chỉ chi trả cho người sử dụng đất tức
là bên thế chấp, dẫn đến nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp trở thành nghĩa vụ
không có TSBĐ. Để xử lý vướng mắc này, Điều 6 Thông tư 16/2014/TTLT-BTPBTNMT-NHNN đã có các quy định cụ thể như đối với trường hợp quyền sử dụng
đất, tài sản gắn liền với đất được dùng để bảo đảm có thỏa thuận hoặc không có
thỏa thuận giữa các bên, trường hợp bên thế chấp được bồi thường bằng nhà ở, đất
tái định cư…
- Về xử lý TSBĐ là quyền đòi nợ:
Theo Điều 66 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu
cầu người thứ ba là người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài
sản khác cho mình hoặc cho người được uỷ quyền. Trong trường hợp người có
16

Điều 68 Nghị định 163/2006/NĐ-CP

21


nghĩa vụ trả nợ yêu cầu thì bên nhận bảo đảm phải chứng minh quyền được đòi nợ.
Trong trường hợp bên nhận bảo đảm đồng thời là người có nghĩa vụ trả nợ thì bên
nhận bảo đảm được bù trừ khoản tiền đó.

Ngoài ra, Điều 7 Thông tư 16 đã có những quy định cụ thể việc xử lý tài sản là
quyền đòi nợ về thời hạn, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của bên bảo đảm với ngân
hàng hay các TCTD.
- Về xử lý TSBĐ là tài sản hình thành trong tương lai:
Trước khi Thông tư 16 được ban hành, pháp luật chưa có quy định nào cụ thể
nào về vấn đề này. Việc xử lý tài sản thế chấp hình thành trong tương lai phải tuân
thủ quy định chung về xử lý TSBĐ trong thế chấp và một số quy định riêng áp dụng
cho tài sản hình thành trong tương lai. Trong trường hợp này, bên bảo đảm có
quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ TSBĐ; bên nhận bảo đảm có các quyền đối
với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm chưa đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có
quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý. Điều 7 Thông tư 16 cũng đã có quy định chi
tiết về việc xử lý TSBĐ là tài sản hình thành trong tương lai để tạo cơ sở pháp lý
cho việc xử lý loại tài sản này.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ TÀI
SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY
Khi giao dịch bảo đảm được ký kết sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia giao dịch. Xử lý TSBĐ tiền vay là một trong những quyền mà bên nhận
TSBĐ được thực hiện đối với bên bảo đảm. Điều này cũng có nghĩa là khi các quy
định pháp luật về giao dịch bảo đảm xuất hiện thì quy định về xử lý TSBĐ cũng ra
đời theo. Quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm được hình thành khá sớm ở
nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới. Kinh nghiệm của các
nước này cho thấy những quy định này đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn,
vững chắc cho hoạt động tín dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nói
riêng; góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh
các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không

22



×