Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tín dụng ngân hàng và vấn đề bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.73 KB, 15 trang )

Tín dụng ngân hàng và vấn đề bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
1.1 Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1 Tín dụng ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng xuất hiện rất sớm, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp và từng bước đa dạng hoá theo sự phát triển của kinh tế hàng
hố tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín
dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Đối với ngân hàng thì
nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. ở đây ngân hàng thực hiện chức năng mơi giới tài chính: nhận tiền ký
gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế này đem cho cá nhân, các tổ chức kinh tế khác
vay. Như vậy các quan hệ tín dụng phát sinh trong loại hình tín dụng này gắn liền
với quá trình tạo lập quỹ tiền tệ từ các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi và sử
dụng quỹ để đáp ứng cho nhu cầu nguồn tài chính tạm thời thiếu trong xã hội. Và
trong các quan hệ tín dụng ngân hàng phát sinh có một chủ thể đặc biệt khác với
các hình thức tín dụng khác, đó là các ngân hàng.
Vậy có thể hiểu tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ
phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo
các nguyên tắc của tín dụng.
1.1.1.2 Vai trị của tín dụng ngân hàng
* Đối với nền kinh tế xã hội:
+ Tín dụng góp phần giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong nền kinh tế xã hội về
nhu cầu vốn tiền tệ , thực hiện điều hoà nhu cầu về vốn phục vụ đời sống sản xuất.
+Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thơng hàng hố, góp phần giải quyết
cơng ăn, việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế.
+Tín dụng làm địn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển và cơ cấu lại sản xuất
trong nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng lành mạnh, chính sách tín dụng đúng đắn sẽ gúp phần
kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia.
* Đối với các tổ chức tín dụng:


+Tín dụng là hoạt động cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động
của tổ chức tín dụng và hoạt động sinh lời chủ yếu của cỏc tổ chức tín dụng.


-Tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng chỉ có thể tồn tại và phát triển khi xác định được phạm vi,
giới hạn, mức độ tín dụng phù hợp với thực tế bản thân mỗi Ngân hàng, đảm bảo
được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc trả đúng hạn và có lãi.
* Đối với khách hàng:
Tín dụng góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn và dịch vụ tài chính phục vụ đời
sống và sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ và kịp thời.
1.1.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt
động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy
nhiên các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không
mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
Như vậy trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động ngân hàng
nói riêng thì vấn đề rủi ro là khơng thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị khơng
thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiệnkịp thời để có những biện pháp chủ
động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các
nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải
pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
Trong nền kinh tế kế hoạch hố tập trung, rủi ro tín dụng ít được đề cập đến.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường thì hiện tượng ngân hàng mất khả năng thanh
toán, phá sản là điều rất có thể xảy ra, do đó nhận thức được đầy đủ, đúng đắn rủi
ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng là điều cần thiết bảo đảm cho ngân hàng
những biện pháp phịng ngừa và hạn chế rủi ro có hiệu quả, giúp ngân hàng đạt
được mục đích của mình là tối đa hố lợi nhuận.
Rủi ro tín dụng: là sự xuất hiện các yếu tố khơng bình thường trong quan hệ
tín dụng, gây ra hậu quả xấu đến hoạt động của ngân hàng như thiệt hại về mặt tài

sản, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có nghĩa là ngân hàng cho vay ra nhưng không thu hồi được
vốn hoặc không thu hồi vốn đúng thời hạn. trong hoạt động ngân hàng rủi ro tín
dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại rủi ro. Bởi vì hơn 2 phần 3 tài sản của
ngân hàng là các món vay đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng.
* Các hình thức của rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay khơng trả được nợ lãi và nợ gốc đúng
hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi
ro tín dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.
- Không được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó ngân
hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này
được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trương hợp khách hàng muốn quỵt nợ,
chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn trả nợ
của khách hàng.
- Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn,
một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển số nợ
vốn đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo
hạn hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đây chưa phải là khoản mất mát hiện thực của
ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với
kế hoạch đã đề ra trinh ngân hàng.
- Không thu được lãi:
Khi ngân hàng khơng thu được lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn.
Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể
trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản
mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách
hàng.

- Khơng thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc
này ngân hàng bị mất vốn. Tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào
mục nợ khơng có khả năng thu hồi hoặc phải xố nợ, coi như khép lại một hợp
đồng tín dụng khơng có hiệu quả.
Trên đây chỉ là bốn hình thức giúp cho ngân hàng thương mại nhận biết rủi
ro tín dụng và có biện pháp xử lý. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào gặp rủi ro tín
dụng thì ngân hàng đều phải trải qua bốn trường hợp trên. có trường hợp khách
hàng trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không trả được nợ gốc cho
ngân hàng. vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào
các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc


biệt là nợ quá hạn phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay
nợ khơng có khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét
để giải quyết hậu quả và rút ra những bài học kinh nghiệm.
1.2 Bảo đảm trong hoạt động tín dụng của NHTM.
1.2.1 Khái niệm bảo đảm tín dụng.
“Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa
rủi ro tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng
vay”. Đứng trên góc độ của người cho vay, bảo đảm tiền vay phải đáp ứng được ba
yêu cầu sau:
+ Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: Bảo đảm tín
dụng khơng chỉ là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng mà cịn có ý nghĩa thúc giục
người đi vay, nếu không sẽ mất tài sản đảm bảo. Nhưng nếu như tài sản đảm bảo
nhỏ hơn so với nghĩa vụ được đảm bảo thì người vay dễ có động cơ khơng trả nợ.
Nghĩa vụ bao gồm vốn gốc, lãi( kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ
trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các chi phí khơng thuộc phạm vi bảo đảm.
+ Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: Mức độ thanh khoản của tài sản
đảm bảo có vai trị quan trọng trong xác định mức cho vay. Nếu độ thanh khoản

của tài sản cao ít biến động, chi phí chờ xử lý thấp, thì mức cho vay cao và ngược
lại độ thanh khoản thấp chi phí cao thì mức cho vay thấp.
+ Tài sản phải có đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử
lý tài sản khi xảy ra rủi ro tín dụng: Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
người vay và người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải
có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng được quyền ưu tiên xử lý tài sản khi người vay
khơng thanh tốn đúng hạn.
1.2.2. Sự cần thiết của bảo đảm tín dụng
1.2.2.1. Đối với ngân hàng
- Bảo đảm tín dụng giúp ngân hàng bảo đảm an tồn trong cấp tín dụng:
Ngân hàng là một trung gian tài chính “ đi vay để cho vay” huy động vốn
của khách hàng để cấp tín dụng nên trách nhiệm hàng đầu là bảo vệ lợi ích của
người gửi tiền. Mặc dù phần lớn các ngân hàng đều dự tính trước những rủi ro có
thể có, những rủi ro này phải được kiểm soát chặt chẽ để bảo vệ số tiền gửi của
khách hàng. Do đó sự an toàn là một vấn đề cần xem xét trước tiên đối với mọi


khoản vay. Vì lý do này một ngân hàng thường sẽ cho vay trên cơ sở có bảo đảm
để giảm thiểu rủi ro.
Về thực chất bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm
nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất.
Trong cho vay kinh doanh nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu cho vay đối
với cho vay vốn lưu động, hoặc khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài
hạn để hình thanh tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất
của ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài
chính( lãi cho vay, lãi chứng khoán) và các khoản thu nhập khác.
Khi đánh giá hoạt động của khách hàng nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa
có cơ sở chắc chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập nguồn thu nợ thứ hai bao gồm
giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba vì ngân hàng có thể
bán các tài sản bảo đảm để thu nợ nếu khách hàng khơng trả được nợ.

Hơn nữa, hoạt động tín dụng an tồn thì bản thân điều này lại có những tác
động tích cực đến những mặt hoạt động khác do uy tín của ngân hàng được nâng
cao.
- Bảo đảm tín dụng giúp ngân hàng tạo lập quan hệ tín dụng với khách
hàng:
Khi quyết định cho vay người ra quyết định phải trả lời ba câu hỏi:
+ Khách hàng có mong muốn trả nợ khơng?
+ Khách hàng có khả năng trả nợ khơng?
+ Khả năng và ý muốn đó có duy trì trong suốt thời hạn vay vốn?
Muốn trả lời câu hỏi trên ngân hàng phải phân tích đánh gía khách hàng dưới nhiều
góc độ khác nhau, trong đó bảo đảm tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho
vay vì nó trả lời được phần nào cho ngân hàng những câu hỏi trên. Tuy nhiên cũng
thấy đây không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc khi cấp tín dụng cho
khách hàng, mà là một phần trong những điều kiện vay vốn.
- Bảo đảm tín dụng nhằm mục đích gắn trách nhiệm của người vay trong
việc quản lý và sử dụng tiền vay:
Mặc dù bảo đảm không phải là tiêu chuẩn mang tính ngun tắc
nhưng
khơng phải vì thế mà đặt thấp vị trí của nó. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
rủi ro rất có thể xảy ra đối với các chủ thể kinh doanh, và khi mang tài sản của
mình ra làm đảm bảo cho khoản vay ( giá trị tài sản làm bảo đảm thường lớn hơn


giá trị khoản vay) sẽ có trách nhiệm hơn trong việc quản lý và sử dụng vốn vay để
trả nợ ngân hàng mà khơng phải đem tài sản có giá trị của bản thân để trả nợ. Đây
là ý nghĩa quan trọng nhất của bảo đảm tín dụng.
- Bảo đảm tín dụng là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản
trị tín dụng, cũng như phịng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường
kinh doanh.
Nâng cao năng lực thẩm định của cán bộ nhân viên ngân hàng khi thực hiện

bảo đảm tiền vay. Để bảo đảm cho nguồn thu nợ thứ hai có thể bù đắp được các tổn
thất khi rủi ro tín dụng xảy ra thì việc định giá tài sản đẩm bảo là quan trọng. Thế
nhưng việc định giá tài sản đảm bảo chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cho vay đối
với những khách hàng tư nhân, ít uy tín hoặc những doanh nghiệp nhỏ làm ăn
khơng ổn định. Cịn đối với những cơng ty lớn có chính sách quản lý hiệu quả, có
sản phẩm và các dịch vụ được thị trường sẵn sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương
đối ổn định và với một tình hình tài chính ổn định, uy tín trong thanh tốn nợ cũ thì
đó là những khách hàng tiềm năng và trong trường hợp này chính những yếu tố
trên đã là tài sản đảm bảo rồi. Do đó cán bộ tín dụng phải vận dụng đảm bảo tiền
vay một cách linh hoạt trong từng điều kiện hoàn cảnh, khách hàng, loại tín dụng
cụ thể.
1.2.2.2. Đối với khách hàng
- Khách hàng là người gửi tiền: Bảo đảm tín dụng góp phần giảm rủi ro
trong hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM, vì vậy khoản tiền gửi của khách
hàng trong ngân hàng an toàn hơn, yên tâm hơn về khoản tiết kiệm của mình.
- Khách hàng là người vay vốn: Qua áp dụng đảm bảo tiền vay hướng cho
khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ ngân hàng và
nhận lại tài sản. Khi vay vốn khách hàng phải cầm cố thế chấp tài sản thuộc sở hữu
của mình, khách hàng chỉ có thể nhận lại tài sản đảm bảo và các giấy tờ có liên
quan khi đã trả hết nợ gốc vàlãi cho ngân hàng.
Như vậy khi đem tài sản của mình làm bảo đảm cho khoản vay khách hàng
sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay, điều đó cũng có nghĩa là
hiệu quả của vốn vay cũng được đảm bảo cùng với đó, vốn vay sẽ thực sự đem lại
những lợi ích cho chủ thể vay vốn.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế


Việc đảm bảo tiền vay thực hiện tốt sẽ hạn chế được nợ q hạn, nợ khó địi,
giảm rủi ro, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín của ngân hàng thu hút người gửi tiền
để cho vay mở rộng sản xuất phát triển kinh tế.

1.2.3. Nội dung các hình thức bảo đảm tín dụng
1.2.3.1 Bảo đảm bằng tài sản: Là hình thức bảo đảm được thiết lập trên cơ sở tài
sản của bên vay hoặc tài sản của bên thứ ba cho khoản đi vay.
* Thế chấp tài sản: là việc bên vay vốn có nghĩa vụ đem tài sản là bất động sản
thuộc sở hữu hợp pháp của mình để đảm bảo cho vốn vay đối với ngân hàng. Khi
ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng sẽ cung cấp cho chủ thể đi vay một lượng vốn
trong một khoảng thời gian nhất định và nhận lại do bên vay hoàn trả. Đồng thời
cũng được bên vay giao quản lý tài sản là bất động sản của sở hữu của bên vay để
đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp đến hạn bên vay vì một lý
do nào đó khơng trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản
thế chấp đó để thu hồi lại vốn đã cho vay, có thể là bán đấu giá tài sản thế chấp hay
chuyển quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng theo luật định. Cịn nếu chủ thể vay
vốn đã hồn trả cả gốc và lãi đúng hạn thì ngân hàng sẽ trả lại tài sản thế chấp cho
bên vay.
Tài sản thế chấp là bất động sản bao gồm: Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với
đất; quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, tàu biển theo quy
định của luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không dân
dụng Việt Nam … để đề phòng những tác động khách quan làm thay đổi giá trị của
tài sản thế chấp (như sự vận động của giá cả thị trường, sự quy hoạch lại khu vực
có tài sản thế chấp…) ngân hàng thường chỉ cho vay số tiền tối đa bằng 70% giá trị
tài sản thế chấp. Tuy nhiên khi bán đấu giá tài sản thế chấp mà thu được một lượng
tiền lớn hơn giá trị khoản vay thì ngân hàng chỉ được thu hồi đủ lượng vốn vay mà
người đi vay phải trả phần còn lại sẽ trả cho chủ tài sản.
Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay thì tài sản
bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm;
việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho
vay của tổ chức tín dụng và khơng áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Việc xác
định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được lập thành văn bản riêng kèm theo
hợp đồng bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm tiền vay không phải là quyền sử dụng



đất thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay do các bên thoả thuận hoặc
thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời
điểm xác định, có tham khảo các loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có)
giá mua, giá trị cịn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Đối với giá
trị quyền sử dụng đất thế chấp đã được qui định rõ trong điều 8 chương II Nghị
định 178/1999/NĐ-CP và điều 5 mục 3 Thông tư 06 /2000/TT-NHNN1.
Hiện nay thế chấp tài sản là bất động sản đem lại nhiều thuận lợi cho các doanh
nghiệp và các tổ chức tín dụng vì những ưu thế sau:
- Đáp ứng được nhu cầu vay vốn lớn của cá nhân, tổ chức do tài sản thế chấp có
giá trị rất lớn.
- Khi thế chấp các bên không phải dịch chuyển tài sản từ chỗ này sang chỗ khác
tránh được tình trạng hỏng hóc, mất mát, hao mịn tài sản.
- Tài sản thế chấp phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng nên hạn chế được
việc đem tài sản thế chấp không thuộc sở hữu của bên đi vay làm vật bảo đảm .
- Khi thế chấp tài sản bên nhận thế chấp chỉ giữ giấy tờ gốc của tài sản thế chấp,
bên thế chấp có thể tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản cho thuê, cho mượn.
Thế chấp tài sản đã mở rộng phạm vi các chủ thể tham gia vay vốn tại ngân hàng
tăng khối lượng vốn cho vay giúp cho ngân hàng mở rộng địa bàn hoạt động, nâng
cao hiệu quả hoạt động.
* Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) có nghĩa
vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên vay vốn (gọi là bên
nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền
phạt lãi quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc
có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn
giữ tài sản và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài sản cho bên nhận cầm cố. Tài
sản dùng để cầm cố vay vốn các tổ chức tín dụng là các động sản có giá trị chuyển
nhượng hoặc mua, bán được dễ dàng: phương tiện vận tải, phương tiện đi lại, công
cụ lao động, máy móc thiết bị, vật tư hàng hóa .
- Giấy tờ trị giá được bằng tiền đang có hiệu lực thanh toán: kỳ phiếu, chứng chỉ

tiền gửi, sổ tiết kiệm, trái phiếu do các tổ chức phát hành…, cổ phiếu, thương
phiếu.
- Các vật quý bằng vàng bạc, đá quý, ngoại tệ, tiền mặt, tiền gửi ngân hàng …
- Giá trị hợp đồng bảo hiểm


- Các tài sản khác nếu pháp luật quy định…
Tuỳ theo tính chất từng loại tài sản cầm cố mà bên cầm cố phải tổ chức đánh giá,
kiểm định về số lượng và định giá tài sản trước khi ký hợp đồng cầm cố. Trong quá
trình định giá kiểm định phải có đại diện hợp pháp của cả hai bên am hiểu về tính
năng và tác dụng của tài sản hoặc có thể thuê chuyên gia kỹ thuật để đánh giá,
kiểm định phù hợp thực tế. Khi vay bên cầm cố tài sản phải giao bản gốc giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu tài sản, các giấy tờ có liên quan khác và tài sản cầm cố
cho bên nhận cầm cố. Bên nhận cầm cố phải bảo quản tài sản cầm cố và các giấy
tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản cầm cố như quy định trong hợp đồng cầm cố
tài sản.
Được quyền tổ chức đấu giá tài sản cầm cố để thu hồi nợ theo nguyên tắc đã thoả
thuận trong hợp đồng và được thu nợ gốc, lãi và tiền phạt (nếu có) từ tiền thu bán
đấu giá tài sản cầm cố nếu bên cầm cố khơng hồn thành được nghĩa vụ trả nợ .
* Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín
dụng.
Như vậy, khác với chế độ bảo đảm khác, bảo đảm tài sản hình thành từ vốn
vay là việc khách hàng vay lại dùng chính tài sản hình thành (được mua sắm hoặc
xây dựng lên) từ khoản vay mà khách hàng đã vay tại tổ chức tín dụng để đảm bảo
cho chính khoản vay này. Do vậy xét về thời gian, tài sản đảm bảo chưa hình thành
(chưa tồn tại) tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng và các bên chỉ ký kết hợp
đồng bảo đảm khi tài sản bảo đảm được hình thành. Trong khi đó việc cho vay có
bảo đảm bằng hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thơng thường lại dùng tài sản

đã hình thành, đã có tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Để bảo đảm việc thu hồi vốn và lãi, pháp luật quy định những điều kiện để
đảm bảo tính an tồn.
+ Điều kiện đối với khách hàng vay: Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức tín dụng, cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay khách hàng
phải đáp ứng được những điều kiện như là: có tín nhiệm đối với TCTD trong việc
sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi; Có khả năng tài chính và
có các khoản thu hợp pháp; Có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả


thi; Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng
các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án;…
+ Điềukiện đối với tài sản hình thành từ vốn vay: Để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng, cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng vốn
vay từ tài sản hình thành từ vốn vay phải đáp ứng được những điều kiện như là: Tài
sản hình thành từ vốn vay phải xác định được Quyền sở hữu của khách hàng vay
đối với tài sản: như giấy chứng nhận quỳên sử dụng đất của khu đất mà trên đó tài
sản sẽ được hình thành và phải hồn thành các thủ tục xây dựng theo quy định của
pháp luật; Tài sản được phép dịch và khơng có tranh chấp;…
* Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là
việc bên thứ ba (còn gọi là bên bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay về việc sử
dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách
hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Như vậy, bên bảo lãnh chỉ được phép bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu của
chính mình hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất kể cả đất thuê mà thời hạn thuê đã
được trả tiền còn dư với 5 năm, còn đối với doanh nghiệp nhà nước thì tài sản
thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng của doanh nghiệp đó.
Về phần mình, TCTD sẽ tiến hành kiểm tra điều kiện của tài sản đảm bảo và
bên bảo lãnh phải tự chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của tài sản bảo đảm này

sau đó, TCTD và bên bảo lãnh sẽ thoả thuận sử dụng hình thức cầm cố hay thế
chấp nào để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Song điều đáng lưu ý ở đây là khi xem
xét và quyết định cho vay có bảo đảm của bên thứ ba, ngân hàng cần quan tâm tới
3 nguyên tắc sau :
+ Thứ nhất: Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một cách tự nguyện và chỉ được
bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình.
+ Thứ hai: Trong mỗi lần bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải phát hành thư bảo
lãnh của mình.
+ Thứ ba: Ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng khả năng tài chính, tình trạng tài
sản và uy tín của bên bảo lãnh.
Trong quá trình bảo lãnh bên thứ ba( tức người bảo lãnh) phải có trách nhiệm
trả nợ thay cho bên được bảo lãnh nếu như đến hạn thanh toán mà họ không trả
được nợ cho ngân hàng(nợ ở đây bao gồm cả gốc, lãi và chi phí khác nếu có, và


bên bảo lãnh cũng phải đôn đốc người đi vay thanh toán nợ cho ngân hàng. Mặt
khác, người bảo lãnh cũng có quyền yêu cầu ngân hàng kiểm tra việc sử dụng vốn
vay của khách hàng khi cần thiết và khi bên bảo lãnh đã trả nợ cho con nợ thì có
nghĩa là họ đã trở thành chủ nở trực tiếp, lúc này quan hệ giữa ngân hàng và bên
bảo lãnh được chấm dứt.
Hiện nay các TCTD có quyền lựa chọn quyết định việc cho vay có bảo đảm
hay khơng có bảo đảm bằng tài sản với điều kiện phải tuân thủ các quy định của
chính phủ, NHNN và các bộ ngành liên quan. Việc áp dụng hình thức cho vay
khơng có bảo đảm bằng tài sản tuy có nhiều rủi ro song lại là phổ biến trong hoạt
động tín dụng của các NHTM bởi sự đánh đổi giữa doanh thu, lợi nhuận và tính
bấp bênh, mạo hiểm trong kinh doanh. Vả lại, khách hàng vay khơng có bảo đảm
khơng có nghĩa làdự án đầu tư, dự án kinh doanh của họ không khả thi và hiệu quả,
nên nếu chỉ vì lý do khơng có bảo đảm tiền vay bằng tài sản mà từ chối những
khách hàng vay vốn thì đồng nghĩa với việc NHTM tự đặt dấu chấm hết cho hoạt
động kinh của mình. Mặt khác, thực tế cho thấy cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh

lại thường có hiệu quả và tính an tồn cao vì người bảo lãnh bao giờ cũng là những
cá nhân, đơn vị có tiền lực tài chính và có uy tín cao, thêm vào đó cho vay có bảo
đảm bằng bảo lãnh lại tiết kiệm được chi phí quản lý, linh hoạt và thích ứng với
từng điều kiện, khách hàng cụ thể .
1.2.3.2 Bảo đảm khơng bằng tài sản
* Tín chấp (tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay khơng có bảo đảm bằng tài sản): là
hình thức mà các ngân hàng cho vay không dựa vào bảo đảm bằng tài sản mà bảo
đảm dựa vào uy tín của người đi vay.
Để được vay theo hình thức này khách hàng vay phải có đủ điều kiện sau:
- Phải có tín nhiệm đối với ngân hàng. Dự án đầu tư, phương án kinh doanh, dịch
vụ khả thi có hiệu quả đảm bảo nguồn trả nợ. Dự án phương án phục vụ đời sống
khả thi phù hợp với qui định của pháp luật đảm bảo nguồn trả nợ. Phải có đủ khả
năng tài chính, các nguồn thu hợp pháp khác để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong thời
hạn cam kết. Đối với các doanh nghiệp phải có lãi hai năm liền kề tính đến thời
điểm vay vốn. Riêng doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần không trong diện sắp xếp lại
là được vay vốn.
* Tổ chức tín dụng Nhà nước cho vay khơng có đảm bảo theo chỉ định của Chính
phủ: cho vay đối với khách hàng vay để thực hiện các chương trình kinh tế đặc


biệt, trọng điểm của Nhà nước và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được
hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo qui định tại các
văn bản qui phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
* Ngồi ra cịn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đồn thề chính trị - xã hội
cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Cùng với sự ra đời của Nghị định 178/1999/NĐ-CP đã khẳng định một cách nhìn
mới trong vấn đề bảo đảm tín dụng: mọi khách hàng vay đều bình đẳng trước sự
lựa chọn của các tổ chức tín dụng . Điều kiện cho vay khơng có bảo đảm bằng tài
sản hay có bảo đảm bằng tài sản khơng phân biệt doanh nghiệp Nhà nước, hay
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hay hộ gia đình, cá nhân mà quyền lựa

chọn quyết định cho vay hoàn toàn thuộc vào ngân hàng . Việc đổi mới này có ý
nghĩa thúc đầy các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước phải tự mình
vươn lên, khơng ỷ lại vào chính sách ưu đãi, bao cấp của Nhà nước để từng bước
hội nhập kinh tế và khu vực trong tiến trình đổi mới của đất nước.
Tóm lại bảo đảm tín dụng là một biện pháp hết sức cần thiết đối với hoạt
động cho vay của các NHTM. Nó khơng chỉ có ý nghĩa to lớn đối với ngân hàng
(thu hồi vốn kịp thời đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng có hiệu quả) đối
với khách hàng vay vốn (khuyến khích tự chủ đạt hiệu quả kinh doanh) mà cịn có
ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định của nền kinh tế.
1.2.3.3 Quy trình thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
+ Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ và xem xét các điều kiện để ra quyết định áp dụng
các biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp.
Thực tiễn đã chứng minh hồn trả tín dụng mặc dù khơng phải là mục đích
kinh doanh của ngân hàng, song nó lại là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện
mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy mà trong q trình hoạt động tín dụng
ngân hàng ln phải xem xét một cách thận trọng từ hồ sơ, giấy tờ vay vốn hợp lệ
đến uy tín và năng lực tài chính của khách hàng, từ đó mà áp dụng những phương
thức cho vay thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ. Nếu khách hàng được xếp hạng
tín nhiệm cao như hoạt động kinh doanh tốt, năng lực tài chính vững mạnh, khơng
có tì vết trong mối quan hệ với ngân hàng, phương án kinh doanh có tính khả thi
cao thì ngân hàng có thể linh hoạt cho vay khơng có bảo đảm. Ngược lại, nếu
khách hàng có một trong những dấu hiệu bất an, hoặc không đạt được những tiêu


chuẩn tối thiểu thì để hạn chế rủi ro buộc ngân hàng khi cho vay phải có bảo đảm
bằng tài sản của bản thân khách hàng hoặc của bên thứ ba bảo lãnh.
+ Bước 2: Thẩm định, đánh giá tài sản bảo đảm:
Trong cho vay có tài sản đảm bảo, ngồi việc đánh giá khách hàng và phân
tích các hồ sơ cần thiết, ngân hàng luôn phải chú trọng đặc biệt tới công tác đánh
giá tài sản bảo đảm nhằm xem xét các điều kiện của tài sản và định giá chúng

- Thẩm định về các điều kiện của tài sản gồm: Thẩm định tính hợp pháp; thẩm
định về tính lưu thông và quyền sở hữu. Việc thẩm định tài sản bảo đảm ở nước ta
hiện nay cịn nhiều khó khăn bất cập, tài sản được chia làm 2 loại, một loại pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, một loại khơng. đối với loại có đăng ký
thì việc thẩm định tính sở hữu đơn giản chỉ là kiểm tra giấy tờ sở hữu nhưng với
loại không đăng ký thì ngân hàng phải xem xét từ nhiều kênh thơng tin khác nhau
tránh rủi ro khơng đáng có. Cịn riêng đối với những tài sản mà pháp luật quy định
phải đóng bảo hiểm thì ngân hàng cần kiểm tra xem khách hàng đã đóng bảo hiểm
chưa? tài sản là nhà hay quyền sử dụng đất thì ngân hàng đầu tiên phải kiểm tra
những giấy tờ có liên quan tới tài sản đó như: Quyền sử dụng đất, sổ đỏ.... xem xét
tài sản đó có bị kê biên hay khơng? Nếu là bất động sản thì đánh giá về vị trí địa lý,
kiến trúc ra sao? Giá cả như thế nào? nếu là động sản như máy móc thiết bị, dây
chuyền sản xuất thì điều mà ngân hàng phải quan tâm là chủng loại, tính hiện đại,
tính phổ biến. Ngồi ra, các tài sản là hàng hố, giấy tờ có giá hay nguyên vật liệu
sản xuất thì ngân hàng phải kiểm tra tính chân thực cũng như số lượng, chất lượng,
giá trị của tài sản đó, kiểm tra tính hợp pháp của giấy tờ có giá thơng qua các yếu
tố như tổ chức phát hành, mệnh giá, thời hạn...sở dĩ ngân hàng cần đặc biệt quan
tâm tới tính lưu thơng, tính hợp pháp và quyền sở hữu của tài sản vì trên thực tế có
rất nhiều trường hợp ngân hàng nắm giữ tài sản trong tay nhưng lại không phát mại
được để thu hồi vốn và sau khi khẳng định chắc chắn tài sản thuộc quyền sở hữu
của người đi vay, có thị trường tiêu thụ và hợp pháp thì các cán bộ tín dụng phải
tiến hành định giá tài sản.
- Việc định giá tài sản phải dựa trên cơ sở tuân theo đúng quy luật cung – cầu,
sát với giá cả thị trường. điều này là rất quan trọng bởi vì nếu như ngân hàng quy
định mà quá cao so với giá trị thực thì dẫn đến giá trị cho vay lớn hơn giá trị tài sản
đảm bảo, khi xảy ra sự cố khách hàng không thực hiện nghĩa vụ, NHTM bán tài
sản đảm bảo không đủ để trả nợ, gây rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân


hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng định giá tài sản bảo đảm quá thấp so với giá trị

thực thì sẽ gây thiệt thòi cho khách hàng, làm giảm khối lượng cấp tín dụng, dẫn
đến giảm doanh thu,giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Do đó việc đánh giá
chính xác tài sản bảo đảm là một nghiệp vụ hết sức phức tạp, khó khăn và vơ cùng
quan trọng, vì vậy đối với những tài sản có giá trị lớn, tính chất kỹ thuật chuyên
môn sâu, ngân hàng phải lập tổ thẩm định hoặc thuê chuyên gia, công ty thẩm định
chuyên nghiệp tiến hành.
+ Bước 3: Xác định mức cho vay thích hợp nhằm bảo đảm thu hồi nợ;
Khi đã hồn tất được việc định giá trị tài sản bảo đảm , ngân hàng cần xác
định mức cho vay đối với khoản vay có tài sản đảm bảo đó thơng qua việc so sánh
mối tương quan giữa giá trị của khoản vay với giá trị của tài sản đảm bảo , phổ
biến là ở tỷ lệ 50%, 70%. Tuy nhiên để xác định được mức cho vay tương đối an
toàn, ngân hàng cịn phải căn cứ vào nhiều khía cạnh như đặc điểm, tính chất của
tài sản bảo đảm. ở việt nam nếu cầm cố bằng giấy tờ có giá như trái phiếu chính
phủ, tín phiếu kho bạc... thì có thể vay được tới 100% giá trị, còn những tài sản có
biến động lớn về giá dẫn đến nguy cơ rủi ro cao thì mức cho vay dao động bằng
hoặc dưới 50% giá trị tài sản đảm bảo.
Mặt khác, tỷ lệ cho vay còn phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế và chu kỳ hoạt động
của tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, khách hàng vay vốn là doanh nghiệp xuất khẩu
gạo thì chu kỳ hoạt động theo mùa vụ khác với doanh nghiệp sản xuất xi măng có
cơng suất ổn định, do đó mức cho vay,phương thức cho vay cũng khơng giống
nhau. Nếu tài sản đảm bảo là dây chuyền sản xuất hiện đại, cơng nghệ cao, đời
hoạt động dài thì mức cho vay tương ứng cũng khác tài sản là ngun vật liệu,
cơng cụ lao động... ngồi ra mức cho vay cịn phụ thuộc vào chủ trương, chính
sách của từng thời kỳ của mỗi NHTM. Sau khi hoàn thành việc xác định mức cho
vay, cán bộ ngân hàng sẽ chuyển sang bước tiếp theo.
+ Bước 4: Ký hợp đồng và quản lý tài sản bảo đảm:
Hợp đồng bảo đảm tài sản thường được ký kết đồng thời với hợp đồng tín
dụng sau khi hồn tất các thủ tục cần thiết. Tuỳ theo hình thức bảo đảm và tài sản
bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm có thể được lập riêng hoặc nằm trong hợp đồng tín
dụng và cũng tuỳ từng loại hình bảo đảm theo quy định của pháp luật mà hợp đồng

bảo đảm phải công chứng nhà nước và tài sản bảo đảm phải đăng ký giao dịch bảo
đảm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


Đối với tài sản tài chính thì tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách
hàng mà thực hiện hình thức thế chấp pháp lý hay thế chấp cơng bằng, nếu là thế
chấp pháp lý thì bên bảo lãnh phải chuyển giao quyền sở hữu cho ngân hàng, nếu
là thế chấp cơng bằng thì chuyển giao giấy chứng nhận quyền sở hữu, cịn tài sản
cầm cố thì có rất nhiều loại tài sản với những đặc điểm tính chất khác nhau nên tuỳ
thuộc vào đặc tính đó mà ngân hàng và bên bảo đảm tự thoả thuận phương pháp
chuyển giao tài sản sao cho phù hợp nhất. Và điều đặc biệt lưu ý ở đây là hợp đồng
bảo đảm chỉ có ý nghĩa pháp lý khi và chỉ khi nó đi kèm với hợp đồng tín
dụng(hợp đồng gốc)
Việc quản lý tài sản bảo đảm bao gồm cả việc bảo quản, đánh giá lại tài sản và
xử lý sau khi đánh giá hiệu qủa của việc quản lý này còn phụ thuộc vào cơ sở vật
chất(như kho bãi để bảo quản), trình độ cán bộ ngân hàng trong việc định giá tài
sản và đưa ra được những biện pháp xử lý thoả đáng, đảm bảo an toàn cho hoạt
động kinh doanh của NHTM.
+ Bước 5: Xử lý tài sản bảo đảm:
Khi đến hạn thanh toán, nếu khách hàng thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ của
mình thì ngân hàng sẽ tiến hành giải chấp, hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm
được thanh lý hồn tồn. Cịn trong trường hợp khách hàng khơng thanh tốn đúng
hạn, lơ là nghiã vụ trả nợ hoặc có hành vi bất hợp tác trong việc thanh tốn nợ thì
ngân hàng buộc phải xử lý tài sản đảm bảo thường gặp phải rất nhiều khó khăn,
nan giải, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới ở việt nam hiện nay,khi mà thủ tục hành
chính còn nhiều bất cập, hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện, nhiều văn bản quy
định chồng chéo... buộc mỗi ngân hàng phải có các biện pháp xử lý linh hoạt cho
riêng mình.




×