Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

QUÁ TRÌNH THAY đổi mô HÌNH đô THÀNH ở TRUNG QUỐC và đô THÀNH NHẬT bản cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 16 trang )

HộI THảO KHOA HọC QUốC Tế Kỷ NIệM 1000 NĂM THĂNG LONG Hà NộI

PHáT TRIểN BềN VữNG THủ ĐÔ Hà NộI VĂN HIếN, ANH HùNG, Vì HOà BìNH

QUá TRìNH THAY ĐổI MÔ HìNH ĐÔ THàNH
ở TRUNG QUốC Và ĐÔ THàNH NHậT BảN Cổ ĐạI
TS Toyoda Hiroaki*

Li m u

Cho n nay, ó cú nhiu nghiờn cu liờn quan n c{c kinh ụ ca Trung Quc t thi Tin
H{n (th k III tr. CN th k I sau CN) n thi Tựy (581 - 618), ng (618 - 907). Tuy nhiờn,
khụng cú nhiu nghiờn cu kho s{t s ph}n chia c{c khụng gian th|nh (ni th|nh) v| qu{ch
(ngoi qu{ch). Thờm v|o ú, hu nh cng cha cú mt nghiờn cu n|o ph}n bit 2 khụng gian
th|nh v| qu{ch trong c{c kinh ụ ca Nht Bn thi k c i.
Trong lot chuyờn kho c cụng b t nm 1998, chỳng tụi ó tin h|nh kho s{t c{c
kinh ụ ca Trung Quc t thi H{n n thi Nam Bc triu t gúc cu trỳc khụng gian 3
vũng cung th|nh qu{ch. Chỳng tụi cng ó trỡnh b|y quan im cho rng kh{i nim
ụ thnh, c dựng biu th khụng gian th|nh ca mt kinh ụ, ó cú s thay i ln trong
giai on t thi Tựy (581 - 618) n s k thi ng. Trong giai on qu{ n|y, kh{i nim
ụ thnh t ch ch ch khu vc ni th|nh (bao bc ly khu vc cung) ó c m rng v mt
phm vi, bao gm thờm c khu vc qu{ch (ngoi qu{ch) ca kinh ụ. Nht Bn thi c i,
khu vc ni th|nh vn l| ụ th|nh, cú kh nng nh| nc c i Nht Bn trc tiờn ó thit k
cu trỳc vng th|nh theo hỡnh mu lý tng c ghi chộp trong s{ch Chu L (Toyoda, 1998,
2001, 2002, 2003, 2007-a, 2008). Mc dự kh{i nim ụ th|nh kiu mi hỡnh th|nh trong thi Tựy
ng ó c du nhp mt phn v|o cu trỳc c{c kinh ụ ca Nht Bn t Kinh th|nh
Heijo tr i, song chỳng tụi ó ch ra rng quan nim v cu trỳc ụ th|nh nguyờn gc vn ch
bao gm khu vc ni th|nh vn tip tc c k tha v| b{m r s}u trong kin trỳc kinh ụ ca
Nht Bn (Toyoda 2002, 2007-a, 2008).
Nhng th|nh qu nghiờn cu ú ó c tng hp trong b|i vit S bin i ca khỏi
nim ụ thnh Trung Quc v cung ụ ca Nht Bn (Toyoda, 2008). Trờn c s b|i vit ú, trong


b{o c{o n|y, chỳng tụi s trỡnh b|y mt c{ch kh{i qu{t s thay i ln trong kh{i nim ụ th|nh
Trung Quc cng nh nhng nh hng ca nú n cu trỳc khụng gian cung ụ ca Nht
Bn thi c i. }y khụng n gin l| vn mang tớnh kh{i nim, m| theo chỳng tụi l| mt
*

Nghiờn cu viờn Trung t}m Nghiờn cu Vn húa Nht Bn, Nht Bn.


chìa khóa quan trọng giúp chúng ta tìm hiểu cấu trúc không gian quốc đô của Nhật Bản nói
riêng v| bản chất của đô thị nói chung. Liên quan đến những chi tiết cụ thể, người đọc có thể
tham khảo thêm c{c b|i viết đã công bố trước đ}y của chúng tôi (Toyoda 1998, 2001, 2002, 2003,
2007-1, 2007-b, 2008). Nội dung của b{o c{o n|y cũng đã được chúng tôi trình b|y tại cuộc họp
về di tích Ho|ng th|nh Thăng Long tổ chức tại Trung t}m Bảo tồn Khu di tích Cổ Loa v| th|nh
cổ H| Nội ng|y 18 th{ng 8 năm 2010.
Trong b{o c{o n|y, chúng tôi cũng đề cập đến vấn đề kh{i niệm đô th|nh ở Trung Quốc
từ thời Bắc Tống (960 – 1127) trở về sau, cũng như những hướng nghiên cứu m| chúng tôi đang
ấp ủ liên quan đến Kinh đô Thăng Long của Việt Nam.
1. Đô thành của Trung Quốc từ thời Hán đến thời Nam Bắc triều
Trong phần n|y, chúng tôi sẽ đề cập đến c{c kinh đô quan trọng của Trung Quốc từ thời
Tiền H{n (thế kỷ III tr. CN – thế kỷ I sau CN) đến thời Nam Bắc triều (thế kỷ V – thế kỷ VI), bao
gồm c{c Trường An thời Tiền H{n, Nghiệp của Bắc Tề, Lạc Dương của Bắc Ngụy, Kiến Khang
của Nam triều; đồng thời khảo s{t cấu trúc không gian cung – th|nh – qu{ch của từng kinh đô.
(1) Trường An thời Tiền Hán
Bên trong th|nh Trường An - quốc đô của Trung Quốc thời Tiền H{n (thế kỷ III tr. CN – thế
kỷ I sau CN) có c{c cung điện như cung Vị Ương, cung Trường Lạc, trụ sở của c{c cơ quan nh|
nước, kho vũ khí, c{c khu chợ Đông thị v| T}y thị. Th|nh Trường An có tường th|nh bao bọc
xung quanh (ch}n th|nh rộng khoảng 16m), trên tường th|nh được bố trí mở 12 cửa (thập nhị
môn)i. Th|nh Trường An có tính chất nội th|nh, được x}y dựng để bảo vệ khu vực cung thất,
ii
trụ sở c{c cơ quan nh| nước cũng như dinh thự của tầng lớp quan lại cấp cao . Nhiều nh|

iii
nghiên cứu cho rằng c{c khu d}n cư nói chung được đặt bên ngo|i th|nh Trường An . Ngo|i
ra, c{c nh| nghiên cứu cũng cho rằng khu vực đô thị trải rộng bên ngo|i th|nh Trường An
đương thời được gọi l| “qu{ch”iv. Một số sử liệu như Tam phụ hoàng đồ coi th|nh Trường An l|
“đô th|nh”. Căn cứ v|o những tư liệu n|y, có thể suy đo{n c{i được gọi l| “đô th|nh” v|o thời
H{n không bao gồm khu vực qu{ch nằm ngo|i th|nh Trường An. Trong khu vực qu{ch của
Kinh đô Trường An cũng tồn tại một số phần mộ, điều n|y cho thấy khu vực n|y có tính chất
như một khu vực ngoại ô (cận giao) của kinh th|nh, không phải l| một khu d}n cư tập trungv.
Ngo|i ra, mặc dù có một số tư liệu cho thấy xung quanh khu vực qu{ch có mở một số cửa, song
ở thời điểm hiện nay, chúng ta vẫn chưa x{c định được hệ thống tường bao bọc khu vực qu{ch.
Như vậy, Kinh đô Trường An thời Tiền H{n được cấu th|nh bởi 3 khu vực, khu vực cung
có c{c cung điện như cung Vị Ương, cung Trường Lạc, khu vực th|nh có c{c cơ quan nh| nước,
kho vũ khí, dinh thự của một số quan lại cấp cao v| ngo|i cùng l| khu vực qu{ch – khu vực đô
thị mang tính chất ngoại ô (cận giao). Chúng tôi cho rằng kh{i niệm đô th|nh đương thời chỉ
bao gồm khu vực cung (mang tính chất nội th|nh) v| khu vực th|nh, không bao gồm khu vực
qu{ch ở bên ngo|i. Xung quanh khu vực th|nh chắc chắn có x}y dựng tường th|nh d|y. Tuy
nhiên, không thấy có ghi chép cụ thể về lớp tường của khu vực qu{ch, vì vậy, chúng ta có thể
suy đo{n rằng cho dù có tồn tại tường qu{ch đi chăng nữa thì lớp tường n|y cũng chỉ được x}y
dựng rất một c{ch đơn giản.


Hình 1. Bản vẽ mặt bằng di tích thành Trường An đời Hán
(theo Lưu Khánh Trụ, Lý Dục Phương, 2003)

(2) Lạc Dương từ thời Hậu Hán đến thời Tây Tấn
Bên trong th|nh Lạc Dương – quốc đô từ thời Hậu H{n (thế kỷ I – thế III) đến thời T}y
Tấn (thế kỷ III – thế kỷ IV) có khu vực cung thất như Bắc cung, Nam cung, trụ sở của c{c cơ
quan nh| nước, kho t|ng. Nhiều nh| nghiên cứu cũng cho rằng bên trong th|nh Lạc Dương có
khu vực d}n cư v| khu vực chợ, được gọi dưới c{i tên Kim thị. Th|nh Lạc Dương được bao
quanh bởi một lớp tường th|nh d|y (những phần tường còn lại hiện nay d|y từ 14 – 30m), trên

vi
đó có bố trí 12 cửa (thập nhị môn) . Một số nh| nghiên cứu cũng lưu ý đến việc cấu trúc th|nh
Lạc Dương thời Hậu H{n được x}y dựng trên cơ sở cấu trúc vương th|nh lý tưởng được ghi
chép trong s{ch Chu Lễ vii. Th|nh Lạc Dương thời Hậu H{n còn được gọi với nhã hiệu l| “ho|ng
th|nh”.
Th|nh Lạc Dương thời Hậu H{n có tính chất nội th|nhviii. Có ghi chép cho thấy bên ngo|i
th|nh có một khu chợ gọi l| Đại thị, nên có thể suy đo{n rằng bên ngo|i th|nh cũng có khu vực
đô thị trải rộng tương đương với khu vực qu{ch. Tuy nhiên, c{i được gọi l| Lạc Dương th|nh
chỉ bao gồm khu vực nằm bên trong th|nh, bao bọc lấy Bắc cung v| Nam cung (tương đương
với khu vực cung), đ}y chính l| đô th|nh thời Hậu H{n. Nói c{ch kh{c, đô th|nh Lạc Dương
thời Hậu H{n không bao gồm khu vực qu{ch. Ở thời điểm hiện nay, người ta vẫn chưa x{c
định được có tồn tại lớp tường bao quanh khu vực qu{ch của kinh đô Lạc Dương thời Hậu H{n
hay không.
Như vậy, từ thời Hậu H{n đến thời T}y Tấn, th|nh Lạc Dương (bao gồm khu vực cung v|
khu vực th|nh) l| đô th|nh (kinh th|nh), không bao gồm khu vực qu{ch. Đô th|nh thời kỳ n|y
mang tính chất nội th|nh v| có mở 12 cửa. Đô th|nh được bao quanh bởi một lớp tường th|nh
d|y. Chúng ta không thấy có t|i liệu n|o lưu ý đến lớp tường th|nh của khu vực qu{ch, nên dù
có tồn tại lớp tường qu{ch đi chăng nữa, có thể suy đo{n rằng lớp tường n|y chỉ được x}y dựng
một c{ch kh{ đơn giản.
(3) Lạc Dương thời Bắc Nguỵ


Quốc đô Lạc Dương thời Bắc Nguỵ (thế kỷ V – thế kỷ VI) l| th|nh Lạc Dương, bao gồm
khu vực cung th|nh, trụ sở của c{c cơ quan nh| nước cũng như một số tự viện như chùa Vĩnh
Ninh, một số khu d}n cư. Th|nh Lạc Dương được v}y quanh bởi một lớp tường th|nh, những phần
vẫn còn lại hiện nay của lớp tường th|nh n|y d|y khoảng 14 – 30m. Người ta cũng x{c định được
bên ngo|i th|nh Lạc Dương có một lớp qu{ch (hình 2)ix. Khu vực qu{ch rộng lớn của Kinh đô
Lạc Dương thời Bắc Nguỵ không chỉ có khu cư trú của d}n thường m| có cả dinh thự của một
số th|nh viên ho|ng tộc, quan lại cao cấp cũng như một số tự viện. Ngo|i ra, c{c cuộc điều tra
khảo cổ học tại đ}y cũng giúp x{c định khu vực qu{ch có một lớp tường bao bên ngo|i (ở c{c

phần tường còn lại hiện nay, ch}n tường rộng khoảng 6 – 13m)x.
Nếu nhìn từ góc độ cấu trúc 3 vòng th|nh, Kinh đô Lạc Dương của Bắc Nguỵ cũng được
cấu th|nh bởi 3 vòng l| khu vực cung (cung th|nh), khu vực th|nh l| th|nh Lạc Dương bao lấy
khu vực cung, khu vực qu{ch nằm bên ngo|i th|nh Lạc Dương.
Tuy nhiên, dựa v|o những ghi chép trong phần Thích khảo chí của s{ch Nguỵ thư, có thể
thấy đô th|nh Lạc Dương của Bắc Nguỵ chỉ có khu vực cung v| khu vực th|nh, không bao gồm
khu vực qu{ch bên ngo|ixi. Lớp tường th|nh của khu vực th|nh rất d|y, trong khi lớp tường
qu{ch lại được x}y dựng tương đối đơn giản.

Hình 2. Lạc Dương đời Bắc Nguỵ (theo Vương Trọng Chu, 1982)
Theo các cuộc điều tra gần đây, có vẻ như khu vực ngoại quách không có hình dạng xác định

(4) Nghiệp của Bắc Tề
Bên trong Kinh đô Nghiệp của Bắc Tề (TK VI) có khu vực cung thất (được gọi l| “Nam
cung”) v| khu vực th|nh (được gọi l| “Nghiệp th|nh”) bao lấy khu vực cung. C{c cuộc điều tra
khảo cổ học gần đ}y cũng cho thấy tồn tại một khu vực đô thị nằm ngo|i Nghiệp th|nhxii.
Nếu xem xét Kinh đô Nghiệp của Bắc Tề từ góc độ 3 vòng cung – th|nh – qu{ch, chúng ta
thấy Nam cung tương đương với khu vực cung, Nghiệp th|nh với một lớp tường th|nh bao
quanh tương đương với khu vực th|nh, khu vực chợ búa phố phường bên ngo|i th|nh tương
đương với khu vực qu{ch. Ở Kinh đô Nghiệp của Bắc Tề, khu vực qu{ch cũng không được tính
v|o đô th|nh.


(5) Kiến Khang thời Nam triều
Tại Kiến Khang – quốc đô của Nam triều (Tống, Tề, Lương, Trần, TK V – TK VI), khu vực
cung được gọi l| “cung th|nh” hay “đ|i th|nh”, được bao quanh bởi một lớp tường kiên cố có
thiết kế cả “trĩ điệp” (nữ tường để phòng ngự).
Bên ngo|i khu vực cung có một khu vực được gọi l| “đô th|nh”, “đô tường” hay “lục
môn chi nội”, như vậy cung được bao quanh bởi “đô tường” v| có bố trí 6 cửa. Có thể coi khu
vực n|y tương đương với khu vực th|nh. C{c nh| nghiên cứu cho rằng bên trong khu vực

th|nh có trụ sở của c{c cơ quan nh| nước cũng như khu cư trú của ho|ng tộcxiii. Tuy nhiên, có
một số căn cứ cho thấy thường d}n cũng sống bên trong khu vực th|nh của Kinh đô Kiến
Khang.
Tại Kinh đô Kiến Khang của Nam triều cũng x{c định được một khu vực đô thị rộng lớn
nằm bên ngo|i của khu vực th|nhxiv. Khu vực đó được gọi l| “qu{ch”. Trong khu vực qu{ch
của Kiến Khang, ngo|i c{c khu cư trú của d}n thường còn có nhiều dinh cơ của tầng lớp quan
lại, trong số đó có dinh thự của một số quan lại cao cấpxv.
Tuy nhiên, tại Kiến Khang của Nam triều, khu vực được gọi l| “đô th|nh” vẫn chỉ l| phần
bên trong của khu vực th|nh, chưa bao gồm khu vực qu{ch nằm bên ngo|i. Xung quanh khu
vực qu{ch chúng ta thấy có bố trí một số “li môn”. Căn cứ v|o tên gọi “li môn”, chúng ta có thể
suy đo{n rằng khu vực qu{ch được bao quanh bởi một hệ thống lũy đất hoặc lũy tre để ngăn
c{ch với khu vực bên ngo|ixvi. Ngo|i ra, cũng có một số ghi chép cho chúng ta thấy đương thời,
khu vực qu{ch n|y được coi l| vùng ngoại ô (cận giao) của khu vực th|nhxvii.
Ngo|i ra, trong khi lớp tường bao khu vực cung của kinh đô Kiến Khang được x}y dựng
kh{ kiên cố, lớp tường của khu vực th|nh lại không có nhiều tính chất phòng ngự. Đến khu vực
qu{ch, lớp tường bao lại c|ng đơn giản, chỉ l| một dạng lũy đất hoặc lũy tre (“li môn”) m| thôi.
Qua những ph}n tích trên đ}y, có thể nhận xét tại quốc đô Kiến Khang của Nam triều, đô
th|nh cũng chỉ l| phần bên trong của khu vực th|nh (khu vực th|nh bao lấy khu vực cung),
khu vực qu{ch bên ngo|i vẫn chưa được coi l| thuộc phạm vi của đô th|nh. Khu vực qu{ch
đương thời chỉ được l| khu vực ngoại ô (cận giao) tiếp nối với c{c vùng nông thôn ở xung
quanh.
2. Sự thay đổi của khái niệm đô thành trong thời Tùy – Đường
(1) Đại Hưng của nhà Tùy
V|o thời Tùy (581 – 618), Tùy Dượng Đế đã cho x}y dựng quốc đô Đại Hưng theo một
quy hoạch mới ở khu vực phía Đông Nam của th|nh Trường An vốn có từ thời H{n. Bên cạnh
đó, Kinh đô Lạc Dương cũng được Tùy Dượng Đế cho x}y dựng mới ở vị trí kh{c với th|nh Lạc
Dương của c{c thời kỳ trước. C{c kinh đô Đại Hưng v| Lạc Dương được x}y dựng mới v|o đời
Tùy sau n|y đã được nh| Đường kế thừa với tên gọi Trường An, Lạc Dương (hình 3).
Quốc đô Đại Hưng (sau n|y Trường An của nh| Đường) đã có một số thay đổi mang tính
bước ngoặt trong quy hoạch x}y dựng. Nếu như tại c{c kinh đô trước đó, khu vực th|nh

thường được x}y dựng ôm lấy khu vực cung thì sang đến Kinh đô Đại Hưng của nh| Tùy, khu
vực cung v| khu vực th|nh được x}y dựng liên kết với nhauxviii.


Một cải c{ch lớn nữa l| tại Kinh đô Đại Hưng, c{c khu d}n cư đã được di chuyển ra ngo|i
khu vực th|nh; khu vực th|nh (ho|ng th|nh) giờ đ}y chỉ còn l| nơi đặt trụ sở của c{c cơ quan
nh| nước. Đ}y l| điểm kh{c biệt rất lớn so với những thời kỳ trước đó, tại c{c kinh đô từ thời
Tiền H{n, Hậu H{n đến thời Nam Bắc triều, trong khu vực th|nh, c{c khu d}n cư v| cung thất
nằm xen lẫn với nhau. T{c giả chính của những cải c{ch lớn trong quy hoạch Kinh đô Đại Hưng
l| Vũ Văn Khải.
Còn một điểm thay đổi lớn nữa tại Kinh đô Đại Hưng l| việc tập trung thống nhất c{c
khu d}n cư v|o khu vực qu{ch. Tại c{c kinh đô từ thời Tiền H{n đến thời Nam Bắc triều, c{c
khu d}n cư nằm cả ở khu vực qu{ch lẫn khu vực nội th|nh. Tuy nhiên, tại kinh đô Đại Hưng
thời Tùy (sau n|y l| Trường An của nh| Đường), c{c khu d}n cư đã bị loại bỏ tại khu vực th|nh
v| được đưa ra khu vực qu{ch với quy hoạch phố phường theo hình b|n cờxix.
Hiện nay, chưa tìm thấy bằng chứng cho thấy lớp tường bao quanh khu vực qu{ch của
kinh đô Đại Hưng đời Tùy được x}y dựng kiên cố hơn so với thời Bắc Nguỵ. Ví dụ, theo c{c
bản vẽ di cấu (hình 4) của cuộc điều tra khảo cổ học tiến h|nh tại 2 cửa Kim Quang môn v|
Khải Hạ môn của Đại Hưng (Trường An), mặc dù c{c cửa n|y có chiều s}u kh{ lớn nhưng ở lớp
tường qu{ch nối kết với c{c cửa n|y, có những chỗ độ rộng ch}n tường chỉ d|y có 3m.

Hình 3. Bản vẽ phục dựng thành Đại Hưng (đời Tùy) – Trường An (Hán)
(theo Sueki, 1978)

Khu vực qu{ch của Đại Hưng cũng được x}y dựng vuông vức hơn so với kinh đô của c{c
giai đoạn trước. Đ{ng chú ý l| ở 3 mặt Đông, T}y, Nam của lớp tường qu{ch, chúng ta thấy có
bố trí 3 cổng. Dựa v|o điều n|y, có thể cho rằng Đại Hưng đã được x}y dựng trên cơ sở mô
hình “vương th|nh” được ghi chép trong s{ch Chu Lễ, với c{ch bố trí 3 cổng ở mỗi mặtxx. Điều
n|y có nghĩa l| trong quy hoạch x}y dựng của Kinh đô Đại Hưng, người ta đã coi khu vực
qu{ch cũng l| một bộ phận của “vương th|nh”, tức l| đô th|nh (kinh th|nh)xxi.



Tại Kinh đô Đại Hưng của nh| Tùy, tương ứng với những cải c{ch về mặt quy hoạch cấu
trúc, kh{i niệm đô th|nh cũng đã có sự thay đổi lớn khi đã coi khu vực qu{ch cũng thuộc phạm
vi của đô th|nh. Tuy nhiên, trong một số tư liệu đương thời, chúng ta vẫn thấy có những ghi
chép dựa trên kh{i niệm đô th|nh truyền thống đã tồn tại từ thời H{n đến thời Nam Bắc triều,
coi khu vực qu{ch không nằm trong đô th|nh. Như vậy, thời Tùy l| giai đoạn mang tính qu{ độ
trong qu{ trình thay đổi kh{i niệm đô th|nh ở Trung Quốc, trong giai đoạn qu{ độ n|y, có sự
tồn tại song song hai kh{i niệm đô th|nh kiểu truyền thống v| đô th|nh kiểu mới, chính vì vậy
đã xuất hiện sự lẫn lộn trong nhận thức về đô th|nh của nhiều người đương thờixxii.
(2) Đô thành thời Đường
Kinh đô Trường An của nh| Đường (618 – 907) đã kế thừa gần như nguyên vẹn Kinh đô
Đại Hưng của nh| Đường.

Hình 4. Bản vẽ thám trắc mặt bằng các cổng thành Trường An đời Đường
(Theo Ủy ban Quản lý văn vật tỉnh Thiểm Tây, 1958)

Nếu xem xét từ góc độ 3 vòng cung – th|nh – qu{ch, “cung th|nh” tương đương với khu
vực cung, khu vực thường được gọi l| “ho|ng th|nh” tương đương với khu vực th|nh, khu vực
bên ngo|i được quy hoạch theo hình b|n cờ tương đương với khu vực qu{ch. Quy hoạch x}y
dựng của Kinh đô Trường An cũng được x}y dựng trên cơ sở nhận thức coi đô th|nh bao gồm
cả khu vực qu{ch. Nếu ở thời Tùy, sự thay đổi của kh{i niệm đô th|nh vẫn còn đang ở giai
đoạn qu{ độ thì sang đến trung kỳ thời Đường, kh{i niệm đô th|nh bao gồm cả khu vực qu{ch


đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, nếu so s{nh với lớp tường bao quanh cung th|nh (khu vực
cung) hay ho|ng th|nh (khu vực th|nh), lớp tường bao quanh khu vực qu{ch vẫn được x}y
dựng kh{ đơn giản. Ngo|i ra, khu vực d}n cư, được tập trung v|o khu vực qu{ch, về mặt h|nh
chính vẫn chịu sự quản lý của hai huyện Trường An v| Vạn Niên như c{c khu vực nông thôn
xung quanh. Như vậy, đến thời Đường, khu vực qu{ch vẫn có sự liên kết với c{c khu vực xung

quanhxxiii.
3. Sự thay đổi khái niệm đô thành ở Trung Quốc và đô thành Nhật Bản cổ đại
Trong phần n|y, chúng tôi sẽ tập trung trình b|y những ảnh hưởng của việc thay đổi kh{i
niệm đô th|nh ở Trung Quốc đến cấu trúc c{c kinh đô của Nhật Bản thời kỳ cổ đại qua trường
hợp của Kinh đô Fujiwara (694 – 710) – nơi được coi l| cung đô được x}y dựng một c{ch b|i bản
đầu tiên của Nhật Bản.

Hình 5. Phục dựng Kinh đô Fujiwara
(theo Ozawa Tsuyoshi, Nghiên cứu cấu trúc cung đô Nhật Bản thời cổ đại)

Như đã trình b|y ở phần trước, trong c{c quốc đô của Trung Quốc từ thời Tiền H{n (thế
kỷ III tr. CN – thế kỷ I sau CN) đến thời Nam Bắc triều (thế kỷ V – thế kỷ VI), khu vực cung v|
khu vực th|nh bao bọc lấy nó, tức khu vực nội th|nh được coi l| đô th|nh, khu vực qu{ch bên
ngo|i (ngoại qu{ch) không nằm trong phạm vi của đô th|nh. Tuy nhiên, trải qua một giai đoạn
qu{ độ kéo d|i từ thời Tùy đến Đường sơ, sang đến trung kỳ thời Đường, kh{i niệm đô th|nh


kiểu mới coi khu vực qu{ch cũng nằm trong phạm vi của đô th|nh đã trở nên phổ biến. Đ}y
cũng chính l| thời kỳ Nhật Bản hướng đến x}y dựng một kinh đô b|i bản đầu tiên. Chính vì
vậy, nhiều khả năng sự thay đổi trong kh{i niệm đô th|nh của Trung Quốc đã có những ảnh
hưởng lớn đến cấu trúc kinh đô của Nhật Bản.
Tại c{c kinh đô cổ đại của Nhật Bản, khu vực thường được coi l| cung th|nhxxiv (cung
Fujiwara) có tính chất nội th|nh, trong khi khu vực có quy hoạch điều phường (quy hoạch b|n
cờ) bên ngo|i được coi l| tương đương với khu vực ngoại qu{ch. Trước đ}y, c{c học giả Nhật
Bản nhiều lần đã chỉ ra rằng tại Fujiwara – kinh đô đầu tiên được x}y dựng một c{ch b|i bản
của Nhật Bản (694 – 710), khu vực được x}y dựng theo quy hoạch b|n cờ ở bên ngo|i chỉ l| khu
vực phụ cho khu vực cung th|nh (cung Fujiwara)xxv. Quan niệm coi đô th|nh chỉ bao gồm khu
vực cung v| khu vực th|nh, không bao gồm khu vực qu{ch của kinh đô Fujiwara rất giống với
kh{i niệm đô th|nh truyền thống của Trung Quốc.
Theo một số t|i liệu như s{ch Tục Nhật Bản kỷ, khu vực có tính chất nội th|nh (cung

Fujiwara) đương thời cũng được gọi l| “kinh th|nh” – đồng nghĩa với đô th|nh. Nếu đúng như
vậy, tại Kinh đô Fujiwara, khu vực cung th|nh l| đô th|nh, khu vực được quy hoạch b|n cờ
tương đương với khu vực qu{ch không nằm trong phạm vi của đô th|nh.
Trong nhiều năm trở lại đ}y, quan điểm cho rằng quy hoạch tổng thể của Kinh đô
Fujiwara (bao gồm cả khu vực quy hoạch b|n cờ - điều phường) được x}y dựng trên mô hình lý
tưởng của Nho gi{o về vương th|nh được ghi chép trong s{ch Chu Lễ do hai học giả Ozawa
Tsuyoshi v| Nakamura Taichi đề xướng được nhiều người ủng hộxxvi. Tuy nhiên, theo những
ph}n tích ở trên, khu vực được quy hoạch tương ứng với ghi chép của s{ch Chu Lễ không phải
l| to|n bộ Kinh đô Fujiwara m| chỉ l| khu vực cung Fujiwara.
Ozawa Tsuyoshi v| Nakamura Taichi khi tiến h|nh so s{nh quy hoạch tổng thể của kinh
đô Fujiwara với s{ch Chu Lễ đã giải thích yếu tố “cửu kinh cửu vĩ” chép trong s{ch Chu Lễ l| có
9 con đường theo chiều ngang v| 9 con đường theo chiều dọc c{ch đều nhau (hình 5). Tuy
nhiên, theo chú thích của Trịnh Huyền đời Hậu H{n v| Giả Công Ngạn đời Đường (những chú
thích Chu Lễ phổ biến ở cả Trung Quốc v| Nhật Bản đương thời), ý nghĩa của “cửu kinh cửu vĩ” ở
đ}y phải hiểu l| ở mỗi mặt của vương th|nh sẽ bố trí 3 cửa (tổng cộng l| 12 cửa), ở mỗi cửa sẽ có
3 con đường nhỏ chạy v|o bên trong vương th|nh (điều n|y cũng được thể hiện tên bản vẽ của
Nhiếp Sùng Nghĩa đời Bắc Tống (hình 6). Nếu đứng trên c{ch giải thích n|y để xem xét quy
hoạch tổng thể của Kinh đô Fujiwara, so s{nh vị trí của c{c cổng cũng như cấu trúc của mỗi cổng
(có 3 lối ra v|o), có vẻ như cung th|nh (cung Fujiwara) mới l| khu vực tương đương với ghi chép
trong s{ch Chu Lễ (hình 7).


Hình 6. Hình vẽ vương thành trong sách Tam lễ đồ
của Nhiếp Sùng Nghĩa
(theo Tân đính tam lễ đồ, 1984)

Hình 7. Bản vẽ phục dựng Kinh đô Fujiwara
(theo Terasaki Yasuhiro, 2002)

Sang đến Kinh đô Heijo (710 – 784), chúng ta bắt đầu thấy xuất hiện những yếu tố cho

thấy sự học tập quy hoạch tổng thể Kinh đô Trường An của nh| Đườngxxvii. Cùng với đó, cũng
bắt đầu xuất hiện nhận thức coi kinh th|nh bao gồm cả khu vực quy hoạch b|n cờ (tương
đương với khu vực qu{ch). Đ}y có thể coi l| việc tiếp nhận quan niệm mới về đô th|nh, ở thời
điểm đó đã trở nên phổ biến ở nh| Đường, coi đô th|nh bao gồm cả qu{ch. Tuy nhiên, không
chỉ ở Kinh đô Heijo m| cả ở c{c kinh đô sau đó như Kinh đô Nagaoka (cuối thế kỷ VIII), Kinh
đô Heian (từ năm 794), 12 cổng th|nh – một tiêu chuẩn của vương th|nh kiểu Chu Lễ vẫn tiếp
tục được bố trí trên lớp tường của cung th|nh. Điều n|y cho thấy cấu trúc của Kinh đô Fujiwara
đã trở th|nh một quy phạm truyền thống đã b{m rễ s}u v|o xã hội Nhật Bản v| được c{c giai
đoạn sau kế thừa.
Kết luận
C{c kinh đô của Trung Quốc từ thời H{n đến thời Nam Bắc triều đều có cấu trúc
3 vòng cung – th|nh (bao lấy khu vực cung) – qu{ch (bao bên ngo|i). Cấu trúc n|y có thể được
gọi dưới một tên gọi kh{c l| cấu trúc nội th|nh (bao gồm khu vực cung v| khu vực th|nh) –
ngoại qu{ch. Từ thời H{n đền thời Nam Bắc triều, phạm vi được coi l| đô th|nh chỉ l| khu vực
nội th|nh, khu vực qu{ch bên ngo|i chưa được coi l| thuộc phạm vi đô th|nh (hệ thống hình
mô phỏng 1).
V|o thời Tùy, đã có những thay đổi lớn trong quy hoạch kiến trúc của quốc đô Đại Hưng
(đến thời Đường được đổi tên th|nh Trường An). Khu vực cung v| khu vực th|nh được x}y
dựng liên kết với nhau, được đặt tên l| “cung th|nh” v| “ho|ng th|nh”. Bên trong khu vực
th|nh, người ta không cho x}y dựng c{c khu d}n cư hay tự viện nữa, m| quy hoạch khu vực
n|y trở th|nh nơi đặt trụ sở c{c cơ quan nh| nước. Khu vực qu{ch được quy hoạch theo hình
b|n cờ v| trở th|nh nơi tập trung c{c khu d}n cư. Tương ứng với sự thay đổi quy hoạch cấu
trúc tại Kinh đô Đại Hưng của nh| Tùy, “kinh th|nh” – kh{i niệm đồng nghĩa với đô th|nh
cũng được mở rộng, bao gồm cả 3 khu vực cung – th|nh - qu{ch. Tuy nhiên, v|o thời Tùy, kh{i
niệm đô th|nh truyền thống không bao gồm khu vực qu{ch vẫn tiếp tục tồn tại song song với


kh{i niệm đô th|nh mới. Tuy nhiên, đến trung kỳ thời Đường, kh{i niệm đô th|nh mới bao
gồm cả khu vực qu{ch đã trở nên phổ biến (hệ thống hình mô phỏng 1).
Tại Kinh đô Khai Phong thời Bắc Tống (960 – 1127), đô th|nh cũng bao gồm cả khu vực

qu{ch. Cùng với đó, lớp tường bao của khu vực qu{ch cũng được x}y dựng một c{ch kiên cố.
Có thể nói, Kinh đô Khai Phong đã kế thừa v| ph{t triển những cải c{ch v| thay đổi của thời
Tùy – Đường. Tuy nhiên, từ thời Nguyên (1271 – 1361) trở đi, nhận thức đô th|nh lại quay trở
lại với kh{i niệm đô th|nh truyền thống khi chỉ coi khu vực nội th|nh l| đô th|nh. Bắc Kinh của
thời Minh – Thanh cũng coi khu vực nội th|nh l| đô th|nh (kinh th|nh), khu vực tương đương
với khu vực qu{ch (bao gồm Thiên Đ|n ở phía Nam) không được tính v|o phạm vi đô th|nh.
Như vậy, từ thời Nguyên trở đi, nhận thức về đô th|nh ở Trung Quốc đã có sự quay về với kh{i
niệm đô th|nh truyền thống tồn tại từ thời H{n đến thời Nam Bắc triều (hệ thống hình mô
phỏng 1).
Tại c{c Kinh đô Trường An v| Lạc Dương của nh| Đường, tuy kh{i niệm đô th|nh bao
gồm cả khu vực qu{ch đã dần trở nên phổ biến, nhưng về mặt h|nh chính, khu vực qu{ch vẫn
xxviii
bị đặt dưới quyền quản lý của c{c ch}u huyện giống như c{c khu vực nông thôn bên ngo|i
.
Dưới thời Nam Bắc triều, có tư liệu cho thấy đô (kinh) th|nh (bao gồm khu vực cung v| khu
vực th|nh) nằm ngo|i sự quản lý của ch}u huyện. Nếu xét từ góc độ đó, v|o thời Tùy – Đường,
do khu vực qu{ch đã được đặt trong phạm vi của đô th|nh, lẽ ra khu vực qu{ch cũng phải nằm
ngo|i sự quản lý của c{c ch}u huyện. Tuy nhiên, trên thực tế, khu vực qu{ch vẫn tiếp tục bị đặt
dưới quyền quản lý của ch}u huyện dưới thời Tùy – Đường giống như c{c thời kỳ trước đó.
Đ}y l| điểm kh{c biệt rất lớn về với c{ch ph}n chia trong ngo|i so với c{c đô thị ch}u Âu thời
trung thế. Chúng tôi cho rằng nguyên nh}n của hiện tượng n|y có liên quan đến việc khu vực
qu{ch luôn đóng vai trò như l| một phần của vùng ngoại ô (giao). Tại Trung Quốc, nhận thức
cho rằng kinh đô được cấu th|nh bởi 2 bộ phận: th|nh của nh| vua (đô th|nh) v| khu vực
qu{ch đã b{m rễ rất s}u trong xã hội Trung Quốc. Việc c{c đô th|nh từ thời Nguyên trở về sau
lại quay trở lại với kh{i niệm đô th|nh kiểu cũ có lẽ cũng bắt nguồn từ nhận thức n|y. Gốc rễ
s}u xa của nhận thức n|y có lẽ bắt nguồn từ quan niệm không gian thống trị của ho|ng đế
Trung Quốc không chỉ giới hạn trong phạm vi đô th|nh m| mở rộng ra bốn phương theo
những vòng tròn đồng t}m với ho|ng đế l| trung t}m.



Hệ thống hình mô phỏng 1. Quá trình biến đổi của khái niệm đô thành nhìn
từ góc độ 3 vòng cung – thành – quách (Toyoda, 2010)


Giai đoạn qu{ độ của sự thay đổi kh{i niệm đô th|nh ở Trung Quốc cũng chính l| thời kỳ
Nhật Bản tìm kiếm mô hình x}y dựng đô th|nh đầu tiên của mình. Kinh đô Fujiwara – kinh đô
được x}y dựng một c{ch b|i bản đầu tiên của Nhật Bản, đã được x}y dựng dựa trên quan niệm
đô th|nh truyền thống tồn tại từ thời Tiền H{n đến thời Nam Bắc triều vốn coi đô th|nh (kinh
th|nh) không bao gồm khu vực qu{ch. Kinh đô Fujiwara cũng {p dụng cấu trúc vương th|nh lý
tưởng được ghi chép trong s{ch Chu Lễ - kinh điển của Nho gi{o. 12 cổng th|nh (một đặc điểm
của vương th|nh kiểu Chu Lễ) đã được bố trí ở khu vực cung th|nh (cung Fujiwara) (hệ thống
hình mô phỏng 2).
Đến thời Kinh đô Heijo, Nhật Bản đã du nhập kh{i niệm đô th|nh kiểu mới bao gồm cả
qu{ch khi ấy đã trở nên phổ biến ở Đường. To|n bộ kinh đô đã được coi l| đô th|nh. Tuy nhiên,
tại c{c kinh đô sau Heijo như kinh đô Nagaoka hay Heian, yếu tố 12 cổng th|nh vẫn được bố trí
ở khu vực cung th|nh. Điều n|y cho thấy cấu trúc dựa trên kh{i niệm đô th|nh cổ đã được x{c
lập từ thời Kinh th|nh Fujiwara sau n|y vẫn tiếp tục được kế thừa dù có phai nhạt ít nhiều.
Song song với nó, Kinh đô Heian cũng kế thừa cấu trúc của Kinh th|nh Heijo vốn dựa trên kh{i
niệm đô th|nh kiểu mới của thời Tùy Đường (hệ thống hình mô phỏng 2)xxix.

Hệ thống hình mô phỏng 2. Quá trình biến đổi khái niệm đô thành ở Nhật Bản (Toyoda, 2010)


Trong những nghiên cứu của mình, chúng tôi đã trình b|y sự thay đổi về kh{i niệm đô
th|nh tại Trung Quốc v| Nhật Bản. GS Momoki cũng chỉ ra rằng có khả năng sự thay đổi kh{i
xxx
niệm về đô th|nh cũng xuất hiện tại Việt Nam . Vấn đề về sự thay đổi kh{i niệm đô th|nh
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu c{c kinh đô ở Trung Quốc v| Nhật Bản nói
riêng cũng như khu vực phía Bắc của đại lục ch}u Á nói chung, cũng như trong việc nghiên cứu
so s{nh với c{c khu vực kh{c như ch}u Âu.

Trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục nghiên cứu s}u hơn về c{c kinh đô của Trung
Quốc v| Nhật Bản, chúng tôi cũng muốn nghiên cứu kinh đô Thăng Long ở Việt Nam theo c{c
hướng sau đ}y.
Ở Trung Quốc, khu vực trung t}m cung điện có thể có nhiều khu vực có trục đối xứng,
hoặc trong một khu vực quan trọng bên cạnh trục đối xứng chính lại có nhiều trục đối xứng
phụ. Chúng tôi cho rằng tại Kinh th|nh Thăng Long cũng có khả năng có nhiều khu vực có trục
đối xứng, hoặc bên cạnh trục trung t}m chính còn có một số trục đối xứng kh{c. Chúng tôi sẽ
tiếp tục tìm hiểu về vấn đề n|y cũng như mối quan hệ của nó với c{c nguyên lý cấu trúc không
gian dựa trên lễ chế của Nho gi{o như Tam triều chế.
Liên quan đến Kinh đô Thăng Long thời Lý, có khả năng Kinh đô Thăng Long thời kỳ n|y
cũng chịu ảnh hưởng từ Kinh đô Khai Phong của Bắc Tống hoặc từ chính kinh đô Lạc Dương
của nh| Đường (bản th}n kinh đô Khai Phong đã chịu ảnh hưởng từ Lạc Dương đời Đường).
Ngo|i ra, cũng có thể Kinh đô Thăng Long của nh| Trần có chịu ảnh hưởng từ kinh đô L}m An
(H|ng Ch}u) của Nam Tống. Ngo|i ra, Kinh đô Thăng Long đời Hậu Lê có lẽ chịu ảnh hưởng
từ Nam Kinh hơn l| Bắc Kinh của đời Minh. Chúng tôi rất hy vọng có thể tiến h|nh những
nghiên cứu so s{nh theo c{c hướng như trên.
Ngo|i ra, trong nhiều nguồn tư liệu, có thể thấy quốc gia Đại Việt luôn tự nhận thức mình
l| Nam triều, đối lập với Trung Quốc l| Bắc triều. Ý thức đối lập với phương Bắc đó không chỉ
có ý nghĩa về mặt lãnh thổ m| có thể còn tồn tại dưới hình thức Đại Việt du nhập c{c yếu tố cổ
điển hay c{c cấu trúc x}y dựng của những vương triều cổ của Trung Quốc để thể hiện uy thế
đối lập, ngang bằng với vương triều hiện tại của Trung Quốc. Chúng tôi cũng rất muốn nghiên
cứu theo hướng so s{nh về mặt cấu trúc của kinh đô Thăng Long với c{c kinh đô ở miền Nam
Trung Quốc hoặc c{c hình mẫu kinh đô của Trung Quốc.
Khi tìm hiểu về cấu trúc không gian của Kinh đô Việt Nam, chúng tôi cho rằng kh{i niệm
ho|ng th|nh l| một chìa khóa quan trọng để chúng ta có được những nhận thức s}u hơn.
Chúng tôi cũng rất muốn tìm hiểu sự biến thiên của kh{i niệm ho|ng th|nh.
C{c di tích th|nh Cổ Loa, th|nh Thăng Long hay th|nh Nh| Hồ l| những di tích hết sức
quan trọng không chỉ của lịch sử Việt Nam m| còn rất quan trọng đối với việc l|m rõ bản chất
xxxi
đô thị trên thế giới . Chính vì vậy, chúng tôi rất hy vọng mình có thể học hỏi được nhiều từ

việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam./

CHÚ THÍCH
i

Lưu Kh{nh Trụ, Lý Dục Phương (2003).

ii

Goi Naohiro (1987). Dương Khoan (1987).

iii

Goi Naohiro (1987).


iv

Dương Khoan (1987).

v

Toyoda Hiroaki (1998).

vi

Viện KHXH Trung Quốc (1973, 1998).

vii


Miyakawa Hisayuki (1956). Trong Nho gi{o, chế độ đời Chu được cho l| lý tưởng. Từ thời Hậu H{n, người ta đã
cố gắng tìm hiểu về chế độ đời Chu qua c{c kinh điển của Nho gi{o như s{ch Chu Lễ. Tuy nhiên, những tìm hiểu
n|y phần lớn l| từ góc độ từ chương, chưa chắc đã phản ảnh đúng thực trạng của nh| Chu. Tuy nhiên, đứng góc
độ kinh học từ chương, những thứ được cho l| thuộc nh| Chu luôn được coi l| hình mẫu lý tưởng.

viii

Dương Khoan (1987).

ix

Viện KHXH Trung Quốc (1973-3, 1973-4).

x

Đỗ Ngọc Sinh (1993).

xi

Toyoda Hiroaki (1998, 2002, 2003, 2008).

xii

Chu Nham Thạch (2004).

xiii

Nakamura Keiji (1984, 1988).

xiv


Akiyama Hideo (1984).

xv

Nakamura Keiji (1984).

xvi

Akiyama Hideo (1984). Ở th|nh Nh| Hồ của Việt Nam cũng có một lớp như con đê bên ngo|i giống như La
th|nh trồng tre, chúng ta có thể dựa v|o đ}y để tham khảo tính chất lũy tre của khu vực qu{ch tại Kinh đô Kiến
Khang. Chúng ta suy đo{n rằng La th|nh Việt Nam cũng có cấu trúc tương tự.

xvii

Toyoda Hiroaki (1993, 1998, 2008).

xviii

Từ thời Tiền H{n đến thời Nam Bắc triều, khu vực đô th|nh l| phần bên trong của khu vực th|nh (có bao lấy khu
vực cung), khu vực đô th|nh n|y cũng được gọi dưới nhã hiệu l| “ho|ng th|nh”. Tuy nhiên, đến thời Đường,
khu vực cung v| khu vực th|nh được x}y dựng liên kết với nhau nên chỉ có khu vực th|nh được gọi l| “ho|ng
th|nh”. Từ thời Tống trở đi, kh{i niệm “ho|ng th|nh” lại có ý nghĩa c|ng đặc biệt. Có khả năng, hai chữ “ho|ng
th|nh” của Kinh đô Thăng Long cũng mang ý nghĩa đặc biệt như kh{i niệm “ho|ng th|nh” đã được ph{t triên
thêm từ thời Tống. Liên quan đến vấn đề ho|ng th|nh, chúng tôi sẽ trình b|y kỹ hơn ở một b|i viết kh{c.

xix

Ủy ban quản lý văn vật tỉnh Thiểm T}y (biên soạn) (1959), Tìm hiểu bước đầu về nền móng thành Trường An đời
Đường, Tạp chí Khảo cổ học b{o, Số 3 - 1959.


xx

Học giả Imo’o Tatsuhiko (2001) cũng chỉ ra trong quy hoạch Kinh đô Trường An thời Tùy – Đường có tham khảo
mô hình vương th|nh trong s{ch Chu Lễ.

xxi

Ở Đại Hưng đời Tùy (sau đó l| Trường An đời Đường) cũng có những yếu tố cho thấy có tham khảo mô hình
Chu Lễ. C{c vương triều sau n|y cũng đều có xu hướng tham khảo mô hình Chu Lễ.

xxii

Toyoda Hiroaki (1998, 2002, 2008).

xxiii

Chúng tôi cho rằng vấn đề n|y có liên quan mật thiết đến c{ch thức thống kê nh}n khẩu một c{ch thống nhất ở
khu vực th|nh thị v| nông thôn ở Trung Quốc. Chính vì nguyên nh}n n|y nên chúng tôi cho rằng khu vực th|nh
có tính chất như l| khu vực để bảo vệ ho|ng đế, c{c cơ quan quyền lực của nh| nước cũng như những người hỗ
trợ cho vương quyền. Khu vực qu{ch vốn được hình th|nh một c{ch trên cơ sở việc cưỡng chế di trú một số tầng
lớp cũng như dòng di d}n tự nhiên, nên nó có tính chất như một khu vực trung gian kết nối với c{c vùng nông
thôn xung quanh. Chính vì vậy, khu vực qu{ch dù có tường bao thì tường đó cũng được x}y dựng hết sức đơn
giản. Liên quan đến vấn đề n|y, chúng ta cần thiết phải có những so s{nh với c{c đô thị kh{c trên thế giới, đ}y
cũng l| một hướng nghiên cứu m| tôi muốn triển khai s}u hơn.

xxiv

Ở Nhật Bản, khu vực tương đương với nội th|nh thường được gọi l| “cung”, ví dụ cung Fujiwara, cung Heijo.
Đ}y l| c{ch gọi xuất ph{t từ kh{i niệm “cung” của c{c Đại vương Nhật Bản (tên gọi cổ hơn của vị trí Thiên

ho|ng) thời kỳ trước khi Nhật Bản bắt tay v|o x}y dựng c{c kinh đô b|i bản kiểu Trung Quốc. Khu vực “cung”
của Nhật Bản hiểu theo nghĩa hẹp l| khu vực trung t}m cung điện (nội lý).

xxv

Yamanaka Sho (1993), Nito Atsushi (1992), Hayashibe Hitoshi (1993, 1999).

xxvi

Ozawa Tsuyoshi (1997, 2003), Nakamura Taichi (1996, 1999), Ngo|i ra trước đó Kusumoto Tesuo (1983) cũng đề
cập đến vấn đề n|y.


xxvii

Vương Duy Khôn (1997). Inoue (2003, 2005).

xxviii

Otagi Hazime (1981).

xxix

Kinh th|nh Heian sau được gọi l| Kyoto (kinh đô). Theo thời gian, Kinh th|nh Heian nguyên gốc dần dần bị
hoang phế, nhưng đến tận thời Kamakura, những nhận thức về Đại nội (Nội lý), Ho|ng th|nh, Kinh th|nh vẫn
tiếp tục tồn tại. Đến thế kỷ XVI, sau khi Toyotomi Hideyoshi tiến h|nh quy hoạch lại Kyoto, nơi ở của Thiên
ho|ng được gọi l| Cấm lý, khu cư trú của quý tộc được gọi l| Ho|ng th|nh, khu vực bên trong tường lũy bao
quanh được gọi l| th|nh Heian. Ở Trung Quốc, từ thời Nguyên trở đi, kh{i niệm đô th|nh cũng quay trở lại với
quan niệm truyền thống chỉ riêng khu vực nội th|nh, nhưng ở Nhật Bản, từ sau kinh th|nh Heijo vẫn tồn tại song
song 2 kh{i niệm đô th|nh kiểu truyền thống v| đô th|nh kiểu mới đến tận thời cận thế.


xxx

Momoki Shiro (2008), Momoki Shiro – Toyoda Hiroaki (2010).

xxxi

Hiện nay, Việt Nam đang tiến h|nh công t{c bảo tồn c{c tòa th|nh Cổ Loa, th|nh Thăng Long, th|nh Nh| Hồ, đặc
biệt l| th|nh Cổ Loa v| th|nh Nh| Hồ vẫn lưu giữ được cảnh quan thiên nhiên hết sức tươi đẹp. Liên quan đến
hoạt động bảo tồn, theo chúng tôi có thể tham khảo c{ch thức bảo tồn khu vực Asuka của Nhật Bản, tiến h|nh
hoạt động bảo tồn bên cạnh việc giữ gìn cảnh quan thiên nhiên.



×