Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

thí nghiệm trong dạy học vật lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.62 KB, 17 trang )

A. MỞ ĐẦU
Hiện nay, cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, ngành giáo dục cũng
đang thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực
hoạt động nhận thức của học sinh. Trong đó, việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học càng
được chú trọng hơn trước bởi hiệu quả của nó trong việc nâng cao khả năng nhận thức
của học sinh.
Trong dạy học Vật Lý, thí nghiệm không những là phương tiện để thu nhận tri thức
mà còn là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, của việc vận dụng tri thức
đã thu được vào thực tiễn.
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về các
hiện tượng Vật lý. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp họ tự nghiên
cứu Vật lý bởi vì trước một hiện tượng vật lý, học sinh có thể có những hiểu biết khác
nhau, thậm chí là sai.
Vì vậy, khi giảng dạy Vật lý, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm
sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lý, bổ sung, hệ thống hoá những kinh
nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lý, nhờ đó mà
tránh được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy.
Làm các thí nghiệm Vật lý có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của
học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em
được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần cho việc
giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. Do được
tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng,..., các em có thể
nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau
này.

1


B. NỘI DUNG
I. Chức năng của thí nghiệm trong dạy học Vật Lý
Theo quan điểm của lý luận nhận thức


Theo quan điểm của lý luận nhận thức, trong dạy học vật lý ở trường phổ thông, thí
nghiệm có các chức năng sau:
a)
Thí nghiệm là phương tiện để thu nhận tri thức
Vai trò của thí nghiệm trong mỗi giai đoạn của quá trình nhận thức phụ thuộc vào
vốn hiểu biết của con người vào đối tượng cần nghiên cứu. Nếu học sinh hoàn toàn chưa
có hoặc có ít hiểu biết về đối tượng cần nghiên cứu thì thí nghiệm được sử dụng để thu
nhận những kiến thức đầu tiên về nó. Khi đó, thí nghiệm được sử dụng như là “câu hỏi
đối với tự nhiên” và chỉ có thể thông qua thí nghiệm mới trả lời được câu hỏi này. Việc
thiết kế phương án thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, và xử lý kết quả quan sát, đo đạc
chính là quá trình tìm câu trả lời cho câu hỏi đã đặt ra. Hay nói cách khác, thí nghiệm
được sử dụng để phân tích hiện thực khách quan và thông qua quá trình thiết lập nó một
cách chủ quan để thu nhận tri thức khách quan.
Trong quá trình dạy học vật lý, nhất là ở các lớp dưới và ở giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức một hiện tượng, quá trình vật lý nào đó, khi học sinh còn chưa có hoặc có
hiểu biết ít ỏi về hiện tượng, quá trình vật lý cần nghiên cứu thì thí nghiệm được sử dụng
để cung cấp cho học sinh những dữ liệu cảm tính về hiện tượng, quá trình vật lý này. Các
dữ liệu này tạo điều kiện cho học sinh đua ra những giả thuyết, là cơ sở cho những khái
quát hoá về tính chất hay mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật của các đại lượng vật lý
trong hiện tượng, quá trình vật lý được nghiên cứu.
b)
Thí nghiệm là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức
• Theo quan điểm của lý luận nhận thức, một trong các chức năng của thí nghiệm trong dạy
học vật lý là dùng để kiểm tra tính đúng đắn của các tri thức mà học sinh đã thu được
trước đó. Trong nhiều trường hợp, kết quả của thí nghiệm phủ định tính đúng đắn của tri
thức đã biết, đòi hỏi phải đưa ra giả thuyết khoa học mới và lại phải kiểm tra nó ở các thí
nghiệm khác. Nhờ vậy, thường ta sẽ thu nhận được những tri thức có tính khái quát hơn,
bao hàm các tri thức đã biết trước đó như là những trường hợp riêng, trường hợp giới hạn.
• Trong dạy học vật lý ở trường phổ thông, có một số kiến thức được rút ra từ suy luận
lôgic một cách chặt chẽ từ các kiến thức đã biết. Trong những trường hợp này, cần tiến

hành thí nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của chúng
c)
Thí nghiệm là phương tiện của việc vận dụng tri thức đã thu được vào
thực tiễn
1.

2


Trong việc vận dụng các tri thức lý thuyết vào việc thiết kế, chế tạo các thiết bị kỹ
thuật, người ta thường gặp nhiều khó khăn do tính trừu tượng của tri thức sử dụng, tính
phức tạp chịu sự chi phối bởi nhiều định luật của các thiết bị cần chế tạo, hoặc do lý do về
kinh tế hay những nguyên nhân về mặt an toàn. Khi đó, thí nghiệm được sử dụng như là
phương tiện tạo cơ sở cho việc vận dụng các tri thức đã thu được vào thực tiễn. Cơ sở của
việc này là tiến hành thí nghiệm với các mô hình, làm tiền đề cho việc chế tạo những
dụng cụ, những thiết bị sử dụng trong thực tế.
Lịch sử phát triển của vật lý còn làm xuất hiện nhiều ngành vật lý mới, ví dụ như thí
nghiệm về hiệu ứng quang điện tạo cơ sở cho sự ra đời của ngành kỹ thuật quang điện.
Chương trình vật lý ở trường phổ thông đề cập tới một loạt các ứng dụng của vật lý
trong đời sống và sản xuất. Việc tiến hành thí nghiệm tạo cơ sở để học sinh hiểu được các
ứng dụng của những kiến thức đã học trong thực tiễn.
Thí nghiệm không những cho học sinh thấy được những ứng dụng trong thực tiễn
mà còn là bằng chứng sự đúng đắn của các kiến thức này.
d)
Thí nghiệm là một bộ phận của phương pháp nhận thức Vật Lý
• Vai trò của thí nghiệm trong phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm bao gồm 4 giai đoạn:
- Làm nảy sinh vấn đề cần giải đáp, câu hỏi cần trả lời.
- Đề xuất giả thuyết.
- Từ giả thuyết, dùng suy luận lôgic để rút ra hệ quả có thể kiểm tra được bằng thí

nghiệm.
- Xây dựng và thực hiện phương án thí nghiệm để kiểm tra hệ quả đã rút ra. Nếu kết
quả thí nghiệm phù hợp với hệ quả đã rút ra thì giả thuyết là chân thực, nếu không phù
hợp thì phải đề xuất giả thuyết mới.
Như vậy, thí nghiệm đóng vai trò quan trọng ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của
quá trình thực nghiệm. Ở giai đoạn đầu, đa số các thông tin về đối tượng cần nghiên cứu
thường được thu nhận trong các thí nghiệm. Đặc biệt, ở giai đoạn cuối của phương pháp
thực nghiệm, việc kiểm tra tính đúng đắn của hệ quả rút ra phải thông qua việc xây dựng
và thực hiện phương án thí nghiệm để nghiên cứu một hiện tượng, một mối quan hệ đã
được loại bỏ các yếu tố không quan tâm.
• Vai trò của thí nghiệm trong phương pháp mô hình
Phương pháp mô hình gồm 4 giai đoạn sau:
- Thu thập các thông tin về đối tượng gốc.
- Xây dựng mô hình.
- Thao tác trên mô hình để suy ra các hệ quả lý thuyết.
- Kiểm tra hệ quả trên đối tượng gốc.

3


Ở giai đoạn đầu trong phương pháp mô hình, các thông tin về đối tượng gốc thường
được thu thập nhờ thí nghiệm. Thông qua thí nghiệm, nhờ việc chủ động loại bỏ những
yếu tố không quan tâm, tác động lên đối tượng, bố trí các dụng cụ quan sát, thu thập và
xử lý số liệu, ta mới có thể tìm ra được các thuộc tính, các mối quan hệ bản chất của đối
tượng gốc, để đưa ra được mô hình phản ánh các mối quan hệ chính mà ta quan tâm. Ở
giai đoạn 3, cho mô hình vận động, đối với mô hình vật chất ta phải tiến hành các thí
nghiệm thực với nó. Ở giai đoạn 4, thông qua thí nghiệm trên vật gốc, đối chiếu kết quả
thu được trên mô hình với những kết quả thu được trên vật gốc, ta kiểm tra được tính
đúng đắn của mô hình và rút ra giới hạn áp dụng của mô hình.
2.

Theo quan điểm của lý luận dạy học
a)
Thí nghiệm có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của
quá trình dạy học
Thí nghiệm có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy
học: đề xuất vấn đề cần nghiên cứu; hình thành kiến thức, kỹ năng mới; củng cố kiến
thức, kỹ năng đã thu nhận được và kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của học sinh.
• Ở giai đoạn định hướng mục đích nghiên cứu, có thể sử dụng thí nghiệm để đề xuất vấn
đề cần nghiên cứu. Đặc biệt có hiệu quả là việc sử dụng thí nghiệm để tạo tình huống có
vấn đề. Do kết quả của thí nghiệm mâu thuẫn với kiến thức đã biết, với kinh nghiệm sẵn
có hoặc trái ngược với sự chờ đợi của học sinh nên nó tạo ra nhu cầu, hứng thú tìm tòi
kiến thức mới của học sinh.Các thí nghiệm được sử dụng để tạo tình huống có vấn đề
thường là các thí nghiệm đơn giản, tốn ít thời gian chuẩn bị và tiến hành.
Thí nghiệm có vai trò quan trọng, không gì thay thế được trong giai đoạn hình thành kiến
thức mới. Nó cung cấp một cách hệ thống các cứ liệu thực nghiệm, để từ đó khái quát hoá
quy nạp, kiểm tra được tính đúng đắn của giả thuyết hoặc hệ quả lôgic rút ra từ giả thuyết
đã đề xuất, hình thành kiến thức mới.
Trong chương trình vật lý ở trường phổ thông, một số kiến thức được rút ra bằng
phép suy luận lôgic chặt chẽ từ các kiến thức đã được xác nhận là chính xác. Vì vậy, các
kiến thức rút ra này là đúng đắn. Tuy nhiên, để thể hiện tính chất thực nghiệm của khoa
học vật lý và làm tăng sự tin tưởng của học sinh vào tính chân thật của kiến thức thu
được, giáo viên cũng cần tiến hành các thí nghiệm kiểm nghiện lại chúng.
• Thí nghiệm có thể được sử dụng một cách đa dạng trong quá trình củng cố kiến thức, kỹ
năng của học sinh. Việc củng cố kiến thức, kỹ năng của học sinh được tiến hành ngay ở
mỗi bài học nghiên cứu tài liệu mới, trong các bài học dành cho việc luyên tập, các tiết ôn
tập và các giừo thí nghiệm thực hành sau mỗi chương, mỗi phần của chương trình vật lý
phổ thông. Quá trình củng cố kiến thức, kỹ năng của học sinh không những diễn ra trong
các giờ học nội khoá mà cả trong các giờ học ngoại khoá, ở lớp và ở nhà.
• Thí nghiệm là phương tiện để kiểm tra, đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh.
Thông qua các hoạy động trí tuệ - thực tiễn của học sinh trong quá trình thí nghiệm (thiết

4


kế phương án thí nghiệm, dự đoán giải thích hiện tượng, quá trình vật lý diễn ra trong thí
nghiệm, lựa chọn các dụng cụ thí nghiệm cần thiết, lắp ráp các dụng cụ và bố trí thí
nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thu nhận và xử lý kết quả thí nghiệm…), học sinh sẽ chứng
tỏ không những kiến thức về sự kiện mà cả kiến thức về phương pháp, kỹ năng của mình.
Để kiểm tra, đánh giá mức độ nắm vững kiến thức và kỹ năng của học sinh, giáo viên có
nhiều cách thức sử dụng thí nghiệm khác nhau, từ dụng cụ quen thuộc đến xa lạ, mới mẻ,
từ bố trí đơn giản đến yêu cầu bố trí phức tạp, v.v.
b)
Thí nghiệm là phương tiện góp phần phát triển toàn diện nhân cách của
học sinh
Việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý góp phần quan trọng vào việc phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh.
• Thí nghiệm là phương tiện để nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo
về vật lý của học sinh.
Chất lượng kiến thức của học sinh được xem xét theo các dấu hiệu: tính chính xác,
tính khái quát, tính hệ thống, tính bền vững và tính vận dụng được. Bởi vì thí nghiệm
luôn có mặt trong các quá trình nghiên cứu các hiện tượng, quá trình vật lý, soạn thảo
khái niệm, định luật vật lý, xây dựng các thuyết vật lý, đề cập các ứng dụng trong sản
xuất và đời sống. Vì vậy, nó là phương tiện góp phần nâng cao chất lượng kiến thức của
học sinh theo các dấu hiệu trên.
Thí nghiệm vật lý góp phần phát hiện và khắc phục các sai lầm của học sinh và
khẳng định các dự đoán đúng.
Do thí nghiệm vật lý là một bộ phận của phương pháp nhận thức vật lý nên trong
mối quan hệ với quá trình thí nghiệm, học sinh sẽ được làm quen và vận dụng các
phương pháp nhận thức này. Các kiến thức về phương pháp mà học sinh lĩnh hội có ý
nghĩa quan trọng, vượt khỏi giới hạn môn vật lý.
Trong các thí nghiệm do mình tự tiến hành, học sinh được rèn luyện các kỹ năng, kỹ

xảo thí nghiệm như: sử dụng các nguồn điện, dụng cụ đo, đọc và lắp ráp thí nghiệm theo
sơ đồ thí nghiệm, sơ đồ mạch điện,…và được giáo dục các thói quen làm việc khoa học
của người làm thí nghiệm như: lựa chon dụng cụ, bố trí thí nghiệm, lắp ráp các bộ phận
thí nghiệm, xử lý các kết quả thí nghiệm, bảo đảm các điều kiện mà thí nghiệm phải thoả
mãn, đánh giá, phân tích sai số khi xử lý kết quả thí nghiệm,…
• Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập vật lý, tổ chức quá trình học tập
tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình thí nghiệm, học sinh phải tiến hành một loạt các hoạt động trí tuệ thực tiễn: thiết kế phương án, kế hoạch thí nghiệm, vẽ sơ đồ thí nghiệm, lập bảng giá trị
đo, lựa chọn dụng cụ, bố trí và tiến hành thí nghiệm, thu nhận và xử lý kết quả thí

5


nghiệm, tính toán sai số, xác định nguyên nhân gây sai số. Chính vì vậy, thí nghiệm là
phương tiện hữu hiệu để bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình thí nghiệm, việc bồi dưỡng các yếu tố của năng lực thực nghiệm
phải được gắn kết với việc bồi dưỡng các yếu tố của năng lực hoạt động trí tuệ như: năng
lực đề xuất giả thuyết, phân tích, mô tả các hiện tượng, quá trình vật lý,tổng hợp các mặt,
các khía cạnh trong mối liên hệ với nhau, khái quát hoá thành những kết luận tổng quát
nhờ phép quy nạp, sau đó đối chiếu các kết luận này với giả thuyết đã đề xuất, và giải
thích, so sánh các hiện tượng, quá trình vật lý, các ứng dụng trong sản xuất và đời sống
của kiến thức đã học.
Quá trình làm việc tự lực với thí nghiệm của học sinh sẽ khêu gợi sự hứng thú nhận
thức, lòng ham muốn nghiên cứu, tạo niềm vui của sự thành công khi giải quyết được
nhiệm vụ đặt ra và góp phần phát triển động lực quá trình học tập của học sinh.
• Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc tập thể khác nhau, bồi dưỡng
các phẩm chất đạo đức của học sinh.
Các thí nghiệm do các nhóm học sinh tiến hành đòi hỏi sự phân công, phối hợp
những công việc tự lực của học sinh trong tập thể. Vì vậy, trong quá trình thí nghiệm đã
diễn ra một quá trình bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, xây dựng các chuẩn mực hành

động tập thể.
Trong mối liên hệ với quá trình tự lực xây dựng kiến thức ở các thí nghiệm, học
sinh thu nhận được những quan điểm quan trọng của thế giới quan duy vật, đặc biệt là vai
trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức thế giới, có niềm tin vào khoa học và nhận
thức các sự vật, hiện tượng của tự nhiên.
c)
Thí nghiệm là phương tiện đơn giản hoá và trực quan trong dạy học Vật

• Trong tự nhiên và kỹ thuật, rất ít các hiện tượng, quá trình vật lý xảy ra dưới dạng thuần
khiết. Chính nhờ thí nghiệm, ta có thể nghiên cứu các hiện tượng, quá trình xảy ra trong
những điều kiện có thể khống chế được, thay đổi được, có thể quan sát, đo đạc đơn giản
hơn, dễ dàng hơn để đi tới nhận thức được nguyên nhân của mỗi hiện tượng và mối quan
hệ có tính quy luật giữa chúng.
• Thí nghiệm là phương tiện trực quan giúp học sinh nhanh chóng thu nhận được những
thông tin chân thực về các hiện tượng, quá trình vật lý. Đặc biệt trong việc nghiên cứu
các lĩnh vực của vật lý mà ở đó, đối tượng cần nghiên cứu không thể tri giác trực tiếp
bằng các giác quan của con người thì việc sử dụng trong dạy học vật lý các thí nghiệm
mô hình để trực quan hoá các hiện tượng, quá trình cần nghiên cứu là không thể thiếu
được.

6


II. Phân loại thí nghiệm vật lý
1. Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên

1.1. Khái niệm
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do GV tiến hành trên lớp, trong các giờ học
nghiên cứu kiến thức mới và các giờ ôn tập, cũng cố. Còn HS chỉ tham gia với mức độ
hạn chế.

Đây là loại thí nghiệm dễ tổ chức, có hiệu lực ngay và không đòi hỏi số lượng thiết
bị nhiều. Tuy nhiên, các thí nghiệm biểu diễn có những hạn chế, chẳng hạn như khi giáo
viên làm thí nghiệm, học sinh chỉ quan sát chứ không trực tiếp làm nên có những điều HS
chưa kịp nhận ra. Hơn nữa, thí nghiệm biểu diễn cũng có hạn chế trong việc phát triển kĩ
năng thực hành và thói quen thực nghiệm của HS
1.2. Vai trò
Việc tổ chức các thí nghiệm biễu diễn của GV nhằm giới thiệu một cách tương đối
nhanh với học sinh chủ yếu làm mặt định tính của các hiện tượng, các quá trình và các
quy luật nghiên cứu, cấu tạo và hoạt động của một vài dụng cụ và thiết bị kĩ thuật những
cái mà học sinh có thể cảm thụ bằng mắt và tai được.
Thí nghiệm biểu diễn giúp tích lũy những sự kiện để xây dựng mô hình trừu tượng
làm cơ sở cho các thuyết, dùng để kiểm tra thực tế tính đúng đắn của các kết luận lý
thuyết cũng như để giải thích nguyên tắc hoạt động của các thiết bị kỹ thuật.
Nhờ thí nghiệm biểu diễn, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh các thao tác và
các bước tiến hành thí nghiệm, giúp học sinh tự tiến hành thí nghiệm một cách độc lập
Thí nghiệm biểu diễn giữ một vai trò quan trọng bởi các nguyên nhân sau:
 Nhiều thí nghiệm khá phức tạp đòi hỏi GV phải trực tiếp làm.
 Các thí nghiệm thường tinh vi ,nhạy ,dễ vỡ đôi khi có thể gây nguy hiểm , do
đó cần có sự khéo léo và kinh nghiệm của GV
 Một thí nghiệm nếu được tiến hành đúng kế hoạch, đúng thời gian và đạt kết
quả tốt thì mới có tác dụng tích cực đến tư duy HS .Muốn thế GV phải trực
tiếp tiến hành thí nghiệm
 Vì vậy mặc dù còn một số hạn chế do học sinh chưa được trực tiếp làm thí
nghiệm nhưng thí nghiệm biểu diễn vẫn được xem trọng và được áp dụng
rộng rãi ở trường PT
1.3. Phân loại
Tùy theo mục đích sử dụng thí nghiệm biễu diễn theo các bước khác nhau của tiến
trình dạy học, các thí nghiệm biểu diễn có thể phân thành ba loại : thí nghiệm mở đầu, thí
nghiệm nghiên cứu hiện tượng và thí nghiệm củng cố.
a) Thí nghiệm biểu diễn mở đầu

7


Thí nghiệm mở đầu là những thí nghiệm được dùng nhằm mục đích đề xuất vấn đề
nghiên cứu thường là thí nghiệm nhỏ do GV tiến hành để đặt vấn đề cho bài học mới
nhằm kích thích học sinh có hứng thú tìm hiểu vấn đề mới đó
b) Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới
Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng là những thí nghiệm nhằm xây dựng, chứng
minh kiến thức mới, bao gồm :
- Thí nghiệm khảo sát xây dựng kiến thức : thí nghiệm nhằm khảo sát sự
kiện, thu lượm dữ liệu thực nghiệm để từ đó rút ra kết luận khái quát, là kiến thức
mới cần xây dựng.
- Thí nghiệm kiểm chứng kiến thức : thí nghiệm nhằm kiểm tra để xác nhận
trên thực tế điều kết luận đã được nêu ra, là kiến thức mới cần dạy.
c) Thí nghiệm củng cố
Thí nghiệm củng cố là những thí nghiệm giáo viên dùng trong khâu cũng cố bài học
nhằm giúp cho học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải thích, dự đoán hiện tượng, qua
đó nắm vững được kiến thức đã học.
1.4. Yêu cầu
a) Cần đảm bảo cho học sinh ý thức được sự cần thiết tiến hành thí nghiệm, phương
án tiến hành thí nghiệm, mục đích của thí nghiệm, phương án tiến hành thí nghiệm
và tham gia quan sát thí nghiệm, phân tích kết quả thí nghiệm.
b) Thí nghiệm biểu diễn phải gắn liền hữu cơ với bải giảng
Cần xác định rõ logic của tiến trình dạy học, trong đó việc tiến hành biểu diễn thí
nghiệm của giáo viên xuất hiện đúng lúc cần thiết với việc giáo viên giảng giải.
c) Thí nghiệm biểu diễn phải ngắn gọn, hợp lý
Thời gian một tiết học là có giới hạn, trong khi người giáo viên phải truyền tải được
nhiều nội dung kiến thức. Thí nghiệm chỉ là một khâu trong tiến trình dạy học, vì vậy nếu
kéo dài khâu này sẽ ảnh hưởng đến các khâu khác, tức là ảnh hưởng đến tiến trình dạy
học chung. Bởi vậy giáo viên cần phân bố thời gian thích hợp trong quá trình làm thí

nghiệm biểu diễn
Trong một giờ học không nên có quá nhiều thí nghiệm biểu diễn làm phân tâm sự
chú ý của học sinh khỏi những vấn đề chủ yếu của kiến thức
d) Thí nghiệm phải đảm bảo cả lớp quan sát được
Cố gắng sao cho các thành phần căn bản , các chi tiết quan trọng của thiết bị dụng
cụ đều được mọi học sinh trong lớp nhìn rõ. Muốn vậy cần chú ý kích thước của dụng cụ
đủ lớn, các dụng cụ chính yếu thì để hở dễ quan sát. Nếu cần thiết có thể sử dụng các
phương tiện kĩ thuật như camera, đèn chiếu, máy chiếu qua đầu, máy vi tính,….để hỗ trợ.
Đảm bảo cho mổi học sinh tri giác được rõ ràng hiện tượng biểu diễn
e) Thí ngiệm cần đảm bảo thành công và đủ sức thuyết phục
8


Để đảm bảo đủ sức thuyết phục, trước hết thí nghiệm biểu diễn phải thành công.
Muốn vậy, mỗi thí ngiệm cần được chuẩn bị cẩn thận, thử đi thử lại để đảm bảo thành
công ngay. Nếu không thành công ngay mà phải làm đi làm lại thì sẽ mất nhiều thời gian,
đặc biệt là mất niềm tin của học sinh vào kết quả thí nghiệm
Bên cạnh đó, muốn thí nghiệm biểu diễn đủ sức thuyết phục thì lập luận của giáo
viên đi đến kết luận phải logic, tự nhiên, không gượng ép, áp đặt, không ép học sinh phải
chấp nhận.
f) Khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn phải đảm bảo an toàn
Phải thận trọng với các thí nghiệm có dùng thủy ngân và các hóa chất độc hại, các
hóa chất có thể gây nổ… chẳng hạn khi biểu diễn nguyên tắc hoạt động của ắc quy axit
H2SO4. Cần tránh gây đổ vỡ, không nên đặt gần lửa, hay tắt cẩn thận khi dùng xong các
đèn cồn, dầu hỏa
Tránh dùng các thiết bị có nguồn điện áp cao, các nguồn có phóng xạ hoặc các
nguồn có tia X, nếu sử dụng thì không cho học sinh đứng gần quá hoặc thời gian thí
nghiệm quá dài
Nếu thí nghiệm có bay hơi, cháy nổ hoặc vật chuyển động, phải lưu ý trước với HS
và tuyệt đối không hướng luồng khí hoặc hướng chuyển động của vật về phía HS

1.5. Kĩ thuật biểu diễn thí nghiệm
a) Sắp xếp dụng cụ
Các thủ thuật biểu diễn thí nghiệm đều nhằm đảm bảo tính nhìn rõ các hiện tượng
và chi tiết được, đồng thời tập trung được sự chú ý của học sinh và hiện tượng (đối tượng)
cần nghiên cứu.
Trên bàn thí nghiệm chỉ đặt những dụng cụ dành cho thí nghiệm, các thiết bị chưa
cần thì cần che khuất, các bộ phận cần quan sát thì phải làm nổi bật lên bằng cách sư
dụng các vật chỉ thị.
Các bộ phận của thiết bị cần đặt ở các độ cao khác nhau, bộ phận chủ yếu thì đặt cao
hơn các bộ phận phụ.
Nên bố trí các thiết bị trên mặt phẳng thẳng đứng. Với các thí nghiệm có chi tiết nhỏ
hoặc không sắp xếp được trên mặt phẳng thẳng đứng thì nghiên cứu sử dụng đèn chiếu.
b) Dùng vật chỉ thị

Dùng màu pha vào nước khi đựng trong vật liệu trong suốt
Dùng hạt màu trong thí nghiệm về hiện tượng đối lưu của chất lỏng
Sử dụng các vạch màu đánh dấu sự thay đổi của hiện tượng

9


Quan sát hiện tượng gián tiếp qua các vật chỉ thị ( ví dụ: mạt sắt để nghiên cứu từ
phổ).
c) Dùng các phương tiện hỗ trợ
Đối với những thí nghiệm cần các dụng cụ có kích thước nhỏ mà học sinh khó quan
sát được ta có thể sử dụng đèn chiếu, video camera để phóng to, giúp học sinh dễ dàng
trong việc quan sát thí nghiệm
Một vài thí nghiệm chỉ cho kết quả trong trường hợp đặt trong mặt phẳng nằm
ngang (vd: thí nghiệm từ phổ và giao thoa sóng nước) giáo viên có thể sử dụng gương
phẳng lớn đặt nghiêng 45 0 hướng về phía học sinh để các em quan sát được hiện tượng

xảy ra
d) Thông thường thí nghiệm biểu diễn được tiến hành theo 7 bước cơ bản sau:
 Bước 1: nêu mục đích tiến hành thí nghiệm.
 Bước 2: vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.
 Bước 3: sắp đặt bố trí giới thiệu dụng cụ
 Bước 4 : kiểm tra lại sự chuẩn bị và và điều kiện theo dõi của học sinh.
 Bước 5: tiến hành thí nghiệm theo kế hoạch đã định và cố gắng cho học sinh

tham gia tối đa , sau đó ghi nhận kết quả lên bảng
 Bước 6 : phân tích kết quả thí nghiệm rồi khái quát để rút ra kết luận .
Thí nghiệm học sinh
2.1. Khái niệm
Là thí nghiệm do giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành các thí nghiệm trên lớp,
trong phòng thí nghiệm, thực nghiệm ngoài vườn trường, nhằm khảo sát hoặc kiểm chứng
một hiện tượng, một định luật, một công thức,….
Đây là thí nghiệm mà học sinh được trực tiếp hoạt động để tìm tòi kiến thức mới và
vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn nên dễ dàng khắc sâu kiến thức mới. Tuy
nhiên đây là phương pháp tốn khá nhiều thời gian tổ chức.
2.2. Phân loại
a) Thí nghiệm trực diện đồng loạt của học sinh
Khái niệm
2.

Thí nghiệm do học sinh trực tiếp tiến hành đồng loạt cần thiết để tích lũy các sự
kiện nhằm khái quát hóa lý thuyết và chủ yếu là để kiểm tra tính đúng đắn của các hệ quả
lý thuyết. Chúng giúp học sinh cụ thể hóa hoàn thiện và phát triển những kiến thức đã
học, nghiên cứu các hiện tượng về mặt định lượng, rèn luyện kĩ năng và thói quen ban
đầu sự dụng các dụng cụ.
Thí nghiệm trực diện có những đặc trưng cơ bản sau:
10





Luôn liên hệ chặt chẽ với tài liệu nghiên cứu trong giờ học, nó là một phần hữu
cơ của tiến trình dạy học.
− Trong khi tiến hành thí nghiệm, hoạt động học tập của học sinh diễn ra cùng một
nhịp điệu, liên tục, có quy tắc, dưới sự tổ chức, chỉ đạo, theo dõi và hướng dẫn
của thầy giáo.
− Hoạt động của học sinh được quy định trong một thời gian khống chế xác định và
tương đối ngắn.
− Giáo viên có thể kiểm tra trực tiếp quá trình làm việc của từng nhóm học sinh.
− Tính tập thể và sự hợp tác phối hợp có điều kiện được phát huy.
Vai trò
Thí nghiệm trực diện giữ một vai trò rất quan trọng trong dạy học vật lý ở trường
phổ phông. Trước hết, nó có tác dụng tăng cường tính trực quan (dụng cụ thí nghiệm có
trước mặt mỗi học sinh) giúp cho học sinh trực tiếp theo dõi hiện tượng, quá trình biểu
diễn thí nghiệp và do đó hiểu bài dễ hơn.
Đặc biệt thí nghiệp trực diện góp phần quan trọng trong việc củng cố niềm tin khoa
học cho các em. Học sinh sẽ tin tưởng hơn vào kết quả thí nghiệp và những kết luận được
rút ra từ kết luận đó, bởi thí nghiệm là do các em tự tay tiến hành.
Ngoài ra, thí nghiệm trực diện còn có tác dụng rất tốt trong việc rèn luyện kỹ năng,
kĩ xảo thực hành cho học sinh. Với thí nghiệm trực diện, học sinh có cơ hội để tự mình
lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm và đo đạc kết quả.
Ưu điểm
Thí nghiệm trực diện có ưu điểm nổi bật do có nhiều nhóm học sinh tiến hành thí
nghiệm đồng thời, nên tuy trong một thời gian ngắn, thí nghiệm trực diện có thể thu được
nhiều kết quả từ nhiều nhóm học sinh khác nhau. Do đó, sẽ rất thuận lợi cho việc lập luận
khái quát đi đến các khái niệm, định luật…Thêm vào đó, những số liệu thu được của một
nhóm học sinh có thể được bổ sung bằng số liệu của nhóm khác. Điều đó giúp cho học

sinh thấy được tính khách quan của các quy luật vật lý đang được nghiên cứu. Mặt khác,
những kết quả thí nghiệm lại cho chính học sinh tự thao tác và tự thu nhận, nên tính
thuyết phục của chúng sẽ cao hơn và học sinh sẽ thật sự tin tưởng vào những kiến thức
các em thu nhận được.
Thí nghiệm trực diện có thể là thí nghiệm định tính hoặc thí nghiệm định lượng tùy
vào nội dung tài liệu mà giáo viên cần trình bày cho học sinh. Thí nghiệm trực diện có
mối liên hệ rất chặt chẽ với thí nghiệm biểu diễn và thí nghiệm thực hành vật lý. Thí
nghiệm trực diện có thể xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình dạy học, thùy vào mục
đích sử dụng. Song dù tiến hành ở khâu nào thì nó cũng nhằm mục đích là dưới sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh tự tay làm thí nghiệm để tìm tòi kiến thức. Vì thế, thí nghiệp
trực diện không chỉ giúp học sinh nắm vững và vận dụng kiến thức vào thực tiễn, mà còn
11


có tác dụng rèn luyện cho học sinh kĩ năng kĩ xảo thực hành, qua đó góp phần giáo dục kĩ
thuật tổng hợp cho học sinh.
Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật của thí nghiệm trực diện, nó cũng có một số hạn
chế nhất định, đó là :
Do thời gian dành cho thí nghiệm trực diện tương đối ít và yêu cầu là phải kết thúc
thí nghiệm cùng một lúc, do đó có thể có một số nhóm học sinh phải bỏ dở công việc,
chưa đi đến kết quả hoặc tiến hành một cách vội vàng nên thu được kết quả không chính
xác. Điều đó sẽ gây ra những khó khăn cho việc khái quát, rút ra kết luận cuối cùng.
Trong trường hợp đó, tính thuyết phục của thí nghiệm sẽ bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến
kết quả dạy học.
Mặt khác, do có nhiều nhóm học sinh tiến hành thí nghiệm cùng một lúc, nên đòi
hỏi phải có nhiều bộ thí nghiệm giống nhau, trong khi điều kiện cơ sở vật chất của trường
phổ thông chưa đảm bảo được.
Việc tổ chức và điều khiển lớp học đối với giáo viên sẽ khó khăn hơn, vì cùng một
lúc phải tập trung theo dõi nhiều nhóm học sinh khác nhau làm thí nghiệm, kịp thời phát

hiện sai sót của học sinh để điều chỉnh.
Hướng khắc phục
Để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên phải chú ý phân chia nhóm học sinh
cho đồng đều trong từng nhóm, trong đó có giỏi, khá , trung bình, yếu. Không để học sinh
tự chọn nhóm, vì như vậy có thể các em giỏi sẽ tập trung vào một nhóm, kết quả có nhóm
chưa hết giờ đã làm xong, ngược lại có những nhóm bỏ dở công việc, hoặc tiến hành vội
vàng cho ra kết quả sai.
Nhằm khắc phục tình trạng thiếu cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm, một mặt cần có
kế hoạch xậy dựng và phát triển các phòng thí nghiệm, phòng bộ môn, phải đầu tư thích
đáng về kinh phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị thí nghiệm cho trường
phổ thông. Mặt khác giáo viên cần chủ động tự tạo và sử dụng các thí nghiệm đơn giản,
rẻ tiền trong dạy học.

b) Thí nghiệm thực hành vật lý

Khái niệm
12


Thí nghiệm thực hành là những thí nghiệm được tiến hành trong phòng thí nghiệm
sau khi đã nghiên cứu xong một phần hay một chương nào đó của chương trình, nhằm
xác định một đại lượng, một hằng số hay kiểm chứng một quy tắc, một định luật vật lý
nào đó.
Vai trò
Thí nghiệm thực hành vật lý có tác dụng giúp học sinh ôn tập, đào sâu kiến thức,
khái quát hóa những vẫn đề cơ bản của giáo trình đã học. Đồng thời, thí nghiệm thực
hành là cơ hội tốt nhất để rèn luyện cho học sinh kĩ năng, kĩ xảo lắp ráp và tiến hành thí
nghiệm. Qua đó, góp phần qua trọng trong việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh,
giúp các em làm quen dần với kĩ thuật và thực tiễn sản xuất.
Thí nghiệm thực hành vật lý có thể có nội dung định tính hay định lượng, song chủ

yếu là nhằm kiểm chứng lại các định luật, các quy tắc hay xác định một đại lượng, một
hằng số vật lý nào đó. Do được tiến hành sau khi học xong một phần hay một chương nào
đó trong chương trình, nên thí nghiêm thực hành vật lý thường có nội dung phong phú,
với những yêu cầu nhiều mặt và được tiến hành trong một thời gian đủ dài từ 1 đến 2 tiết.
Để phát huy hiệu quả của thí nghiệm thực hành, cần phải có sự chuẩn bị chu đáo về mặt
nội dung cũng như thiết bị và cơ sở vật chất.
Các bước tiến hành
1) Chuẩn bị

Để giờ học thực hành có hiệu quả thực sự, thầy giao cần yêu cầu học sinh ôn tập
trước ở nhà những kiến thức liên quan đến nội dung thực hành. Muốn vậy, thầy
giáo phải đưa ra những yêu cầu cụ thể về những nội dung liên quan đến đề tài
được thực hiện trong giờ thực hành. Về phần mình, thầy giáo cần phải vào phòng
thí nghiệm để tìm hiểu khả năng thiết bị, chuẩn bị các bộ thí nghiệm cần thiết và
tiến hành thử các thí nghiệm nhằm phát hiện những khó khăn, những hạn chế của
từng thí nghiệm, cũng như từng dụng cụ thí nghiệm, để khắc phục trước, tránh
những trục trặc có thể nảy sinh trong lúc tiến hành thí nghiệm ở trên lớp.
2) Tiến trình của giờ học.
Một giờ học thực hành có thể được tiến hành theo các bước sau:
a) Xác định mục đích, nội dung và yêu cầu của giờ thực hành.
b) Ôn tập lý thuyết có liên quan đến nội dung bài thực hành.
c) Giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm (nhất là những dụng cụ mới đối với học
sinh). Đề xuất các phương án thí nghiệm và sơ đồ bố trí thí nghiệm tương
ứng khuyến khích học sinh đề xuất phương án, trao đổi thảo luận... để lựa
chọn phương án tối ưu).
d) Giáo viên hướng dẫn các bước tiến hành thí nghiệm: lắp ráp, tiến hành thí
nghiệm, thu thập, xử lý số liệu và viết báo cáo.
13



e) Học sinh tiến hành thí nghiệm, giáo viên theo dõi, giúp đỡ và hướng dẫn

từng nhóm.
f) Tổng kết giờ thực hành
Hình thức tổ chức
Có hai hình thức tổ chức giờ học thực hành vật lý, đó là: thực hành cá thể và thực
hành đồng loạt..
Với hình thức thực hành cá thể, các nhóm học sinh khác nhau tiến hành thí nghiệm
trong cùng một thời gian như nhau nhưng với những đề tài khác nhau, hoặc cùng một đề
tài nhưng với những bộ dụng cụ thí nghiệm khác nhau (với các phương án khác nhau).
Hình thức này khắc phục được khó khăn về mặt thiếu thiết bị thí nghiệm. Tuy nhiên, việc
tổ chức hướng dẫn của giáo viên có nhiều khó khăn hơn, phức tạp hơn vì cùng một lúc
phải theo dõi, hướng dẫn học sinh tiến hành thí nghiệm theo những đề tài khác nhau hoặc
với nhiều bộ dụng cụ khác nhau. Vì vậy, khi học sinh tiến hành thí nghiệm, giáo viên khó
bao quát tất cả các nhóm và khó theo dõi hoạt động của từng nhóm để kịp thời uốn nắn và
khắc phục những sai sót của học sinh. Ngoài ra, trong khâu chuẩn bị cho giờ học thực
hành cũng phức tạp hơn và đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian hơn.
Theo hình thức thực hành đồng loạt, học sinh trong một lớp được chia thành nhiều
nhóm và tất cả các nhóm tiến hành thí nghiệm cùng một đề tài và với cùng những bộ thí
nghiệm như nhau. Hình thức này có ưu điểm là học sinh có thể bổ sung hoặc tranh luận
với nhau về các kết quả thí nghiệm. Ngoài ra việc chỉ đạo theo dõi của giáo viên tương
đối dễ dàng, có thể giải thích, hướng dẫn cách tiến hành thí nghiệm, cũng như uốn nắn
những sai sót cho tất cả các nhóm và tổng kết thí nghiệm một cách đơn giản. Tuy nhiên,
nó cũng gặp phải một số khó khăn, nhất là về mặt thiết bị. Vì các nhóm đều phải có
những bộ dụng cụ giống nhau, nên khi tiến hành thí nghiệm với các lớp học sinh có số
lượng đông như hiện nay, thì việc đáp ứng về dụng cụ thí nghiệm không hoàn toàn đơn
giản.


c) Các bài tập thí nghiệm


Khái niệm

Bài tập thí nghiệm là những bài tập chỉ mặt kết quả của các thí nghiệm đang khảo
sát. Các bài tập này được giải bằng cách vận dụng tổng hợp các kiến thức lý thuyết và
thực nghiệm, các kĩ năng hoạt động trí óc và thực hành, các vốn hiều biết về vật lý, kĩ
thuật và thực tế đời sống.
Việc giải các bài tập thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải tự mình xây dựng phương án,
lựa chọn phương tiện, tự mình thực hiện thí nghiệm theo quy trình để thu thập, xử lí kết
quả nhằm giải quyết một cách khoa học, tối ưu bài toán cụ thể được đặt ra.
14




Vai trò

Các bài tập thí nghiện giúp phát triển toàn diện năng lực học sinh trong việc đào tạo,
nắm vững các kiến thức kĩ năng cơ bản về lý thuyết và thực nghiệm của môn vật lý.
Thông qua các bài tập thí nghiệm học sinh được bồi dưỡng, phát triển năng lực tư duy,
năng lực hoạt động tự lực, sáng tạo, phát huy khả năng tổng hợp kiến thức lý thuyết và
thực nghiệm, các kỹ năng hoạt động trí óc và thực hành một cách khéo léo.
Bài tập thí nghiệm tạo ra ở học sinh động cơ học tập, sự hăng say tò mò khám phá
xây dựng phương án, gây cho học sinh sự hứng thú, tự giác tư duy độc lập, tích cực.
Trong quá trình đề xuất phương án thí nghiệm học sinh có thể tranh luận gây ra không khí
sôi nổi trong lớp học










Các bước tiến hành giải bài tập thí nghiệm
Bước 1: Đọc hiểu đề bài
Bước 2: Phân thích nội dung bài tập thí nghiệm
Bước 3: Xác định phương án thí nghiệm
Bước 4: Tiến hành thao tác thí nghiệm
Bước 5: Kiểm tra câu trả lời so với kết quả thí nghiệm
d) Thí nghiệm và quan sát ở nhà
Khái niệm

Thí nghiệm ở nhà là một loại bài thực hành mà giáo viên giao cho từng học sinh hoặc
từng nhóm học sinh thực hiện ở nhà với những dụng cụ thông thường, đơn giản và dễ
kiếm, nhằm tìm hiểu một hiện tượng, xác định một đại lượng, kiểm chứng một định luật
một quy tắc vật lý nào đó. Hoặc có thể chỉ là quan sát một hiện tượng vật lý thường xảy
ra trong cuộc sống hằng ngày.


Vai trò

Thí nghiệm ở nhà được tiến hành trong điều kiện không có sự giúp đỡ, hướng dẫn
và kiểm tra trực tiếp của giáo viên. Do đó, nó có tác dụng tốt trong việc phát huy tính tự
giác và tự lực của học sinh trong học tập. Thí nghiệm ở nhà chỉ đòi hỏi học sinh tiến hành
với những dụng cụ thí nghiệm tự kiếm hoặc những dụng cụ tự tạo từ những vật dụng đơn
giản . Chính đặc điểm này đã tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển hứng thú học tập và sự
ham mê yêu thích môn học của học sinh. Thí nghiệm ở nhà là cơ hội tốt để rèn luyện cho
học sinh, kỹ năng, kĩ xảo thực hành, khả năng quan sát là điều kiện tốt để giáo dục kỹ

thuật tổng hợp cho học sinh .

15


Khi tiến hành thí nghiệm ở nhà, đòi hỏi học sinh phải phát huy nhiều mặt, nhiều
năng lực khác nhau, nên nó có tác dụng tốt đối với sự phát triển toàn diện của học sinh.
2.3. Yêu cầu
a) Yêu cầu đối với thí nghiệm trực diện của học sinh
Có thể sử dụng thí ngiệm trực diện trong thời gian ngắn từ 5 + 10 phút nhằm tích
cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình giáo viên giảng giải kiến thức
mới. Thí dụ: thực hiện một thí nghiệm định tính đơn giản (quan sát hiện tượng dẫn nhiệt),
nghiên cứu cấu tạo hoạt động của một dụng cụ nào đó (lực kế, nhiệt kế, áp kế, biến trở),
xác định gần đúng một đại lượng vật lý (tiêu cự của thấu kính 2 mật lồi), phát hiện một
quy luật đơn giản (độ dãn của lò xo ti lệ với trọng tải). Hoặc có thể là thí nghiệm trực
diện dược dự tính trong khoảng 1 giờ, dành cho việc kiểm nghiệm quy luật nào đó (ví dụ
diều kiện cân bằng của đòn bẩy, định luật bôilơ – mariot), đo một đại lượng vật lý nào đó
(ví dụ hệ số ma sát, điện trở suất, sức căng mặt ngoài).
Công việc thí nghiệm cần được tiến hành đồng thời với cả lớp và với cùng một loại
thiết bị đơn giản
Những chỉ dẫn bằng lời của giáo viên trong tiến trình thí nghiệm của học sinh là cần
thiết. Khi cần thì hướng dẫn học sinh thảo luận tập thể kết quả thí nghiệm để rút ra kết
quả.
b) Yêu cầu đối với thí nghiệm thực hành của học sinh

Thí nghiệm thực hành được tiến hành khi học sinh đã có những kĩ năng thí nghiệm
ban đầu qua các thí nghiệm trực diện. Học sinh sử dụng các thiết bị phức tạp hơn và phải
am hiểu việc sử dụng hợp lý các dụng cụ đo lường.
Để làm thí nghiệm thực hành học sinh được chia thành từng nhóm 2-3 học sinh.
Mỗi nhóm nhận một bản hướng dẫn thực hiện. Nội dung bản hướng dẫn bao gồm các

điểm sau:
Đề tài thí nghiệm .
Mô tả dụng cụ, thiết bị (sơ đồ bố trí thí nghiệm ).
Trình tự thao tác tiến hành thí nghiệm .
Sơ đồ ghi các kết quả quan sát và phương pháp xủ lý kết quả.
Những câu hỏi đòi hỏi phải hiểu sâu sắc thí nghiệm mới trả lời được và đôi khi có thể
đề ra thí nghiệm bổ sung.
- Nội dung cần viết báo cáo thí nghiệm .
c) Yêu cầu đối với các bài tập thí nghiệm
Trong các bài toán thí nghiệm, thí nghiệm thường được sử dụng như một trong
những phương tiện quan trọng nhằm thu thập các số liệu cần thiết để giải, và như một
phương tiện kiểm tra tính đúng đắn của các kết quả thu được bằng con đường tính toán lý
-

16


thuyết học sinh luyện tập việc áp dụng những kiến thức đã có và những kĩ xảo thí nghiệm
để giải quyết những vấn đề cụ thể có liên quan tới thực hành. Trong trường hợp này các
em phải tự xây dựng phương án thí nghiệm, sử dụng thiết bị vật lý và lắp ráp các thí
nghiệm khác nhau trong quá trình học tập.
d) Yêu cầu đối với thí nghiệm và quan sát ở nhà
Những thí nghiệm và quan sát tự lực được học sinh thực hiện theo nhiệm vụ mà
giáo viên giao cho ở nhà hay ở các nhóm. Chúng phải có liên quan chặt chẽ tới tài liệu
học tập . Khi xây dựng những bài làm như thế cần quan tâm không những đến việc học
sinh có sẵn sàng hoàn thành công việc không, mà đến cả khả năng sử dụng “ Phòng thí
nghiệm ở nhà”. Có thể áp dụng một cách có hệ thống những bài làm thực nghiệm ở nhà
ngay cả trong trường hợp học sinh chỉ có những vật dụng sinh hoạt thông thường, chẳng
hạn như thước dây, thước gấp, cân nhà bếp, bình chè, nhiệt kế y học hay nhiệt kế thường,
đèn pin, lọ nước hoa, kim găm, gương soi, mắt kính….

Khi sử dụng loại thí nghiệm này, giáo viên cần lựa chọn những đề tài phù hợp với
khả năng và điều kiện của học sinh, nhất là trong khâu tìm kiếm dụng cụ, cũng như tiến
hành thí nghiệm.

17



×