Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty PVI Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.96 KB, 63 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
SẢN PHẨM BẢO HIỂM CON NGƯỜI PHI NHÂN THỌ
TẠI CÔNG TY PVI ĐÔNG ĐÔ

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Mai
Mã sinh viên
: 14A4030076
Lớp
: QTDN B
Khóa
: 14
Khoa
: Quản trị kinh doanh

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong chuyên đề thực tập này là do tôi tự thu thập, trích dẫn, tuyệt đối không
sao chép từ bất kỳ một tài liệu nào.


Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2015
Tác giả chuyên đề thực tập

Nguyễn Thị Thanh Mai


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Biểu 2.1:
Biểu 2.2:
Biểu 2.3:

Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của PVI Đông Đô giai
đoạn 2010 – 2014...........................Error: Reference source not found
Cơ cấu doanh thu phí BH các nghiệp vụ của PVI Đông Đô năm
2014................................................Error: Reference source not found
Doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
năm 2013 – 2014...........................Error: Reference source not found

SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1:

Cơ cấu tổ chức của Công ty Bảo hiểm PVI Đông Đô................Error:
Reference source not found


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHCN
BHYT
BHXH
BHCN PNT
BHPNT
BHNT
DNBH
DNBH PNT
NLCT
STBH
STBT
BH TS – KT

: Bảo hiểm con người
: Bảo hiểm y tế
: Bảo hiểm xã hội
: Bảo hiểm con người phi nhân thọ
: Bảo hiểm phi nhân thọ
: Bảo hiểm nhân thọ
: Doanh nghiệp bảo hiểm
: Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
: Năng lực cạnh tranh
: Số tiền bảo hiểm
: Số tiền bồi thường
: Bảo hiểm tài sản kỹ thuật


1

LỜI MỞ ĐẦU

Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người, vì vậy việc chăm sóc bảo
vệ sức khỏe là nhu cầu và cũng là đòi hỏi thiết yếu mà cộng đồng và mỗi cá nhân
quan tâm. Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta khó tránh khỏi những lúc ốm đau,
bệnh tật do tác động của tuổi tác cũng như môi trường sống… Bảo hiểm y tế
(BHYT) Việt Nam ra đời là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống
an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm giúp đỡ người lao động gia đình họ khi
gặp rủi ro về sức khỏe để ổn định cuộc sống, góp phần vào sự phát triển ổn định của
đất nước. Nhưng có một thực tế hiện nay là số người khám chữa bệnh ngày càng
tăng, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh… dẫn đến việc quá
tải tại nhiều bệnh viện. Điều này cho thấy người dân phải chịu nhiều hơn cho chi
phí y tế so với trước kia. Đối với những người có bảo hiểm y tế thì khoản chi phí
này có thể được hỗ trợ một phần. Tuy nhiên, nhiều người bệnh có thể sẽ gặp khó
khăn khi khám và điều trị trái tuyến. Hơn nữa chất lượng dịch vụ khi khám chữa
bệnh bằng BHYT còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của
nhiều đối tượng khác nhau. Đối với bản thân người bệnh và gia đình, bệnh tật
không chỉ là gánh nặng tinh thần mà còn là gánh nặng vật chất, vì không chỉ tốn
tiền mà còn có nguy cơ làm gián đoạn công việc, gián đoạn thu nhập. Vì vậy, nếu
như có được sự hỗ trợ kịp thời sẽ giúp người bệnh và gia đình lấy lại được “thăng
bằng” tài chính. Hiểu được nhu cầu đó, một loại hình bảo hiểm đã ra đời nhằm đáp
ứng được những mong muốn của người dân và một phần khắc phục được những
hạn chế của chế độ BHYT. Đó chính là bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói
chung và Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng. Nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân
thọ cũng ngày càng được quan tâm phát triển. Doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ
bảo hiểm này luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu của các công ty bảo
hiểm phi nhân thọ. Tổng công ty cổ phần PVI luôn là công ty có doanh thu nghiệp
vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thuộc top đầu trong nhưng doanh nghiệp bảo
hiểm hiện nay. Là một trong những công ty bảo hiểm thành viên, Công ty PVI
Đông Đô đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của Tổng công ty cổ
phần PVI, giúp củng cố thương hiệu Bảo hiểm PVI trên thị trường, hoàn thành tốt

các chỉ tiêu và đóng góp một phần doanh thu đáng kể trong tổng doanh thu của


2
Tổng công ty. Bảo hiểm con người phi nhân thọ là một trong những nghiệp vụ đạt
được doanh thu cao, có đóng góp nhất định vào tổng doanh thu phí bảo hiểm của
công ty. Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây cho thấy vẫn tồn tại nhiều hạn chế
như tỷ lệ bồi thường cao, vấn đề trục lợi bảo hiểm còn diễn ra khá nhiều…
Trong thời gian thực tập tại công ty, nhận thức được tầm quan trọng của
nghiệp vụ, vì thế em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty PVI Đông Đô”.
Kết cấu đề tài được chia thảnh 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm con người phi nhân thọ và năng lực cạnh
tranh sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm con người
phi nhân thọ tại Công ty PVI Đông Đô
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo
hiểm con người phi nhân thọ tại Công ty PVI Đông Đô
Để có thể hoàn thành bài viết này, em xin gửi lời cảm ơn đến tập thể cán bộ,
nhân viên Công ty PVI Đông Đô đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi giúp em
trong quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, song do hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh
nghiệm thực tế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và bạn đọc để bài viết được hoàn
thiện hơn.


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM CON NGƯỜI

PHI NHÂN THỌ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN
PHẨM BẢO HIỂM TẠI DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Tổng quan về Bảo hiểm con người phi nhân thọ
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất hằng ngày, con người luôn
phải đối mặt với những rủi ro, tai nạn bất ngờ ngoài ý muốn mà chúng ta không thể
lường trước được như ốm đau, tai nạn, già yếu, mất việc làm… Thực tế hiện nay, do
tác động của môi trường sống hiện đại, ngày càng có nhiều người lo lắng khi phải
sống chung với những rủi ro tiềm ẩn làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Môi trười bị ô
nhiễm nghiêm trọng bởi cấc chất độc hại, xuất xứ cũng như chất lượng thực phẩm
không an toàn,… đang là những nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
và cuộc sống của mọi người dân không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tỉ lệ
người mắc các bệnh nghiêm trọng càng này càng tăng cao trong xã hội không chỉ
ảnh hưởng đến tinh thần mà còn là nỗi lo về tài chính cho mỗi gia đình. Ngày nay,
nhờ sự tiến bộ vượt bậc của y học hiện đại có thể giúp chúng ta điều trị thành công
nhiều căn bệnh nghiêm trọng, tuy nhiên chi phí thuốc men và viện phí điều trị ngày
cành tăng cao vẫn luôn là nỗi bận tâm của nhiều người. Vì thế, vấn đề mà xã hội
quan tâm là làm thế nào để hạn chế và khắc phục được hậu quả của rủi ro nhằm
đảm bảo cho cuộc sống của con người.
Có nhiều biện pháp đã ra đời nhằm khắc phục rủi ro như là: phòng tránh, cứu
trợ… và như một tất yếu, bảo hiểm ra đời đóng vai trò là một phương thức hữu hiệu
hơn cả. Cùng với sự phát triển của đất nước, bảo hiểm hiện là một trong những
ngành dịch vụ tăng trưởng khá toàn diện và có những bước tiến lớn cả về tốc độ,
quy mô và phạm vi hoạt động. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn
cho nền kinh tế mà còn góp phần dảm bảo ổn định tài chính cho cấc cá nhân, gia
đình, cho mọi tổ chức và doanh nghiệp nhằm cải thiện đời sống và khôi phục sản
xuát kinh doanh. Kinh tế càng phát triển, đời sống của nhân dân càng cao thì nhu
cầu bảo hiểm càng lớn, và các loại hình bảo hiểm cũng ngày càng được hoàn thiện.
BHCN là nhu cầu của thị trường và là hình thức bổ sung cho hai loại hình ra đời
trước đó là BHXH và BHYT. BHCN ra đời nhằm mục đích đảm bảo khắc phục

cuộc sống cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro hay tai nạn bất ngờ đối
với thân thể, tính mạng cũng như sự suy giảm hay mất thu nhập do rủi ro gây ra và


4
đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia. Tuy nhiên, BHCN có đối tượng
tham gia rộng hơn so với loại hình BHXH ra đời trước đó, quỹ bảo hiểm được hình
thành từ sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, số tiền chi trả bảo hiểm phụ
thuộc vào các điều khoản trong hợp đồng hay tùy thuộc vào sản phảm cụ thể mà
người tham gia chọn lựa.
Theo tính chất của rủi ro bảo hiểm thì BHCN được chia làm 2 loại là Bảo
hiểm nhân thọ (BHNT) và Bảo hiểm con người Phi nhân thọ (BHCN PNT). BHNT
là loại hình bảo hiểm bảo đảm cho các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống
và tuổi thọ của con người. BHCN PNT là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các
rủi ro như bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và tử vong mà không liên quan
đến tuổi thọ của con người, ví dụ như Bảo hiểm tai nạn 24/24, Bảo hiểm tai nạn
hành khách, Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật… Các rủi ro được bảo hiểm của
BHCN PNT mang tính chất cấp thiết hơn trong đời sống hằng ngày của người dân
so với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong BHNT vì chúng có liên quan trực tiếp tới
thân thể và sức khỏe của con người. BHDN PNT thường được triển khai sớm hơn
BHNT ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, BHCN PNT được coi là
loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho BHXH và BHYT.
Như vậy, BHCN PNT đã thể hiện vai trò khá quan trọng của nó trong đời sống
xã hội, giúp cho con người chống lại những khó khăn bấp bênh trong cuộc sống
trước sự đa dạng và mức độ phức tạp của rủi ro để có được một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Qua đó có thể thấy được sự cần thiết khách quan của BHCN PNT trong đời
sống xã hội hiện nay.
1.1.2. Tác dụng của bảo hiểm con người phi nhân thọ
Xem xét mối quan hệ tương quan giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm với sự
phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nước, nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định tác

dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu của bảo hiểm đới với nền kinh tế, đặc
biệt là bảo hiểm con người. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của một thị trường bảo hiểm
con người mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh tế thành công
nào. Có thể thấy rõ điều đó qua các tác dụng của BHCN PNT sau:
 Đối với mỗi cá nhân
BHCN PNT góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là chỗ
dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi
thường, bù đắp khi có rủi ro tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là
cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục tài chính, vật chất cho người
tham gia bảo hiểm như trước khi xảy ra rủi ro. Mặc dù hệ thống an ninh xã hội và


5
các tổ chức xã hội có thể trợ cấp cho những khó khăn đó nhưng cũng chỉ mang tính
chất tạm thời trước mắt, không đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính. Tham gia
BHCN PNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó.
 Đối với mỗi doanh nghiệp
BHCN PNT ra đời góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho
doanh nghiệp, tạo mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Tùy theo đặc điểm ngành nghề lĩnh vực kinh doanh mà các chủ
doanh nghiệp thường mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn cho lao động và
nhân viên trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống và tạo sự gắn bó
ngay cả những lúc doanh nghiệp gặp khó khăn, tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về
tài chính khi mất những nhân viên chủ chốt trong công ty và khi người lao động gặp
tai nạn rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh thì đã có bảo hiểm chi trả cho các
rủi ro đó.
 Đối với nền kinh tế
Sử dụng hiệu quả những khoản phí bảo hiểm nhàn rỗi chưa phải chi trả, tạo
được nguồn vốn lớn để đầu tư vào lĩnh vực khác: Do tính chất của bảo hiểm là phí
thu trước, chi trả bồi thường sau nên khoản phí thu được sẽ được lập thành quỹ bảo

hiểm, quỹ này được sử dụng vào mục đích chi trả bồi thường, dự phòng và là nguồn
vốn đầu tư hữu ích góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế.
BHCN PNT ra đời mang tính xã hội, nhân văn cao cả. Nó góp phần làm cho
xã hội trở nên tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Vì mục đích của BHCN PNT là chia
sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm, khó khăn của một số người
không may gặp phải rủi ro tổn thất sẽ được san sẻ cho tát cả mọi người. Vô
hình chung đó chính là đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong một cộng
đồng. Hơn thế nữa sự ra đời và phát triển của BHCN PNT còn góp phần giải
quyết một số vấn đề xã hội như tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao
động, tạo ra nếp sống đẹp…
1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm con người phi nhân thọ
Trong khi các nghiệp vụ BHNT chỉ ra đời và phát triển khi nền kinh tế - xã hội
đã hội tụ đủ những điều kiện nhất định thì BHCN PNT đã ra đời sớm hơn, với mục
đích chủ yếu là góp phần khắc phục hậu quả khi người tham gia bảo hiểm gặp phải
rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài chính cho họ. Bởi vậy BHCN PNT có những đặc
điểm cơ bản sau:
 BHCN PNT chỉ mang tính rủi ro không mang tính tiết kiệm. Vì những rủi


6
ro thuộc phạm vi bảo hiểm chỉ liên quan tới thân thể và sức khỏe của con người như
tai nạn, ốm đau, bệnh tật, thai sản… nên tính chất rủi ro bộc lộ khá rõ còn tính chất
tiết kiệm không thể hiện. Do vậy mức phí bảo hiểm thường là khá thấp và phù hợp
với những hợp đồng bảo hiểm nhóm.
 Thời hạn của BHCN PNT ngắn (thường dưới 1 năm) thậm chí có nghiệp
vụ bảo hiểm thời hạn chỉ có vài ngày vài giờ như bảo hiểm tai nạn hành khách…
nên phí bảo hiểm thường nộp một lần khi kí hợp đồng và quỹ bảo hiểm được quản
lý theo kĩ thuật phân chia tổn tích. Nghĩa là sau khi thu phí bảo hiểm, hình thành
quỹ, quỹ này sẽ được phân chia thành các quỹ khác nhau như quỹ dự phòng, quỹ
hạn chế tổn thất… Vào cuối năm tài chính có thể hạch toán được lỗ lãi của từng

nghiệp vụ.
 Tuổi của người tham gia bảo hiểm được quy định rõ ràng trong một khoảng
nào đó. Vì tuổi quá thấp hoặc quá cao sẽ gây tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp,
xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát quản lý rủi ro khó thực hiện… gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
 Các nghiệp vụ BHCN PNT được triển khai dưới cả hình thức tự nguyện và
bắt buộc nhưng tự nguyện vẫn là chính. Các nghiệp vụ được triển khai kết hợp, lồng
ghép với nhau. Điều này giúp làm giảm chi phí cho công ty bảo hiểm, góp phần làm
giảm phí, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm.
 Hầu hết các nghiệp vụ BHCN PNT được triển khai sớn hơn BHNT vì vậy
BHCN PNT được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình
bảo hiểm con người khác là BHXH và BHYT đang được triển khai.
1.2. Năng lực cạnh tranh sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
Trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam nhìn chung đã có những bước
phát triển rất đáng ghi nhận. Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của
tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đã mở ra cho ngành bảo hiểm nước ta
những cơ hội lớn để phát triển nhưng đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp bảo hiểm
trước những thách thức và khó khăn không nhỏ. Trước thực trạng trên, để có thể tồn tại
và phát triển trong môi trường kinh doanh mới đòi hỏi từng doanh nghiệp bảo hiểm
phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình cũng như cho
từng sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Lý luận về cạnh tranh từ lâu đã có rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu.
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất và trao đổi
hàng hóa (kinh tế hàng hóa, mà cao hơn chính là kinh tế thị trường). Nó phản ánh
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục


7
đích lợi nhuận tối đa. Mặc dù “cạnh tranh” không phải là một khái niệm mới nhưng

để có được một định nghĩa thống nhất thì rất khó. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau,
quan niệm và nhận thức về vấn đề cạnh tranh, phạm vi và các cấp độ áp dụng nó
cũng khác nhau. C.Mác khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản đã đề cập đến cạnh
tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Theo C.Mác: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản để giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu
ngạch”. Trong ngôn ngữ học, khái niệm cạnh tranh được hiểu là “cố gắng giành
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi
ích như nhau”. Theo đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh là “sự tranh đua giữa
những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, giành phần hơn, phần thắng về
mình”. Theo từ điển thuật ngũ kinh tế học “cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa
các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên
cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”. Như vậy nếu hình
dung toàn bộ nền kinh tế như một trường đua trong thể thao, ai tham gia vào đó cũng
đều mong muốn đạt giải bằng sự cố gắng hết mình, thì cạnh tranh là động lực cho sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội, nó làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều phải
luôn tự hoàn thiện mình để đạt được kết quả cao nhất có thể.
Từ thực tế đã cho thấy, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về cạnh
tranh. Tuy nhiên, xét theo quan điểm tổng hợp thì có thể hiểu khác niệm cạnh tranh
như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Xét trên phương diện doanh nghiệp, theo định nghĩa của CIEM (Viện Nghiên
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương) và UNDP (Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc) thì “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
trong nước và ngoài nước”. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể

hiểu là khả năng cạnh tranh bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị
phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong môi trường cạnh tranh trong
nước và quốc tế.


8
Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, biểu thị
cách thức cơ bản để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hóa sản phảm mà bất kỳ một
doanh nghiệp nào ở một ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể:
Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu vào
cần thiết (chi phí) để tạo ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận). Doanh
nghiệp càng nâng cao được hiệu quả trì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra
càng thấp và như vậy thì doanh nghiệp sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí.
Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản
phẩm được thể hiển trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng
gắn với khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000
“Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng
thỏa mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc chấp nhận”. Người cung cấp phải
tối ưu hóa chất lượng sản phẩm, không được để “thấp” hơn nhu cầu nhưng cũng
không nên thừa hay “cao” quá mức cần thiết để không ảnh hưởng đến giá cả sản
phẩm. Sản phẩm có chất lượng cao giúp doanh nghiệp tăng uy tín, từ đó có thể tăng
giá bán.
Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công
nghệ, hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức… của doanh nghiệp. Trong đó đổi mới công
nghệ được coi là yếu tố chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp khác
biệt hóa sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các doanh
nghiệp vì thế thường sản xuất theo seri sản phẩm, không duy trì lâu hoặc với khối
lượng lớn một sản phẩm nào đó.
Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu khách
hàng, doanh nghiệp cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn.

Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục tiêu
đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ mật thiết với
nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh
quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh. Và
ngược lại các doanh nghiệp chỉ có thể cạnh tranh tốt trong một quốc gia có nền kinh
tế thuận lợi, chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu
cơ sở hạ tầng đảm bảo… Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh
nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có
doanh nghiệp thành công nhưng cũng có doanh nghiệp bị thất bại. Bên cạnh đó


9
doanh nghiệp chỉ có sức cạnh tranh cao khi cản phẩm của mình có năng lực cạnh
tranh cao so với đối thủ cạnh tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dịch vụ ngoài chất lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào danh tiếng
và uy tín của doanh nghiệp.
Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều kiện
để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế đất nước.
Hiện nay nước ta đang tiến sau vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng
lực cạnh tranh trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày
càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong đó tính chủ động tích cực, sáng tạo
của các doanh nghiệp nắm giữ vai trò quyết định.
1.2.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm bảo hiểm

của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Quy mô và năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Năng lực tài chính không chỉ là yếu tố quyết định tới NLCT của DNBH mà

còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm. Vì khi xem xét
tiềm lực tài chính của nhà bảo hiểm, với một khả năng tài chính mạnh, nhà bảo
hiểm sẽ giúp khách hàng có cơ sở để tin tưởng và tham gia bảo hiểm tại doanh
nghiệp mình, đẩy mạnh doanh thu cho sản phẩm, từ đó góp phần nâng cao NLCT
cho sản phẩm. Năng lực tài chính của doanh nghiệp được phản ánh qua: quy mô
nguồn vốn, quy mô tài sản, quy mô các quỹ dự phòng nghiệp vụ…
a. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh
nghiệp, các quỹ và các khoản lãi tích lũy. Vốn điều lệ là vốn ghi trong điều lệ doanh
nghiệp và được đóng góp khi doanh nghiệp thành lập. Đối với những ngành quy
định vốn pháp định khi thành lập, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải luôn
duy trì mức vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định. Đặc biệt
với hoạt động kinh doanh bảo hiểm có chu trình kinh doanh đảo ngược thì việc đảm
bảo nguồn vốn chủ sở hữu là vô cùng quan trọng để thực hiện các cam kết với
khách hàng. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam hiện nay quy định mức vốn pháp
định cho doanh nghiệp bảo hiểm là 600 tỷ đồng đối với doanh nghiệp BHNT và 300
tỷ đồng đối với doanh nghiệp BHPNT.
Nhưng trên thực tế để có khả năng tài chính mạnh, từ đó mở rộng kinh doanh,
các DNBH thường có vốn điều lệ lớn hơn nhiều so với vốn pháp định và luôn tìm


10
mọi biện pháp để tăng số vốn điều lệ của mình.
b. Tài sản
Nguồn tài sản chính là sự thể hiện ra bên ngoài tiềm lực tài chính của mỗi
DNBH. Khi khách hàng muốn đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp sau khi
xem xét số vốn điều lệ thì họ sẽ nhìn vào nguồn tài sản mà doanh nghiệp đang nắm
giữ.
Do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ nên tài
sản của doanh nghiệp không chỉ là nhà của, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương

tiện vận tải… mà còn chủ yếu tồn tại dưới các hình thức như: các quỹ đầu tư tài
chính ngắn hạn, bất động sản hay tiền gửi ngân hàng… Trong đó các tài sản dưới
dạng các khoản đầu tư thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu tài ản và có vai
trò vô cùng quan trọng đối với các công ty vì tài sản của DNBH chủ yếu hình thành
doanh nghiệp sẽ sử dụng nguồn vốn này đem đầu tư sinh lời. Đầu tư chính là cách
hữu hiệu để phát triển quỹ tài chính và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nguồn tài
sản của doanh nghiệp càng lớn càng chứng tỏ doanh nghiệp có nền tảng tài chính
tốt nên sức cạnh tranh doanh nghiệp cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm bảo
hiểm sẽ cao.
c. Dự phòng nghiệp vụ
Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm,
được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các
trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký
kết. Thực chất đây là nguồn vốn vay của nhà bảo hiểm vì sau khi ký kết hợp đồng
bảo hiểm, DNBH đã có trong tay một khoản lớn phí nhưng nếu trong thời hạn bảo
hiểm có sự kiện bảo hiểm xảy ra DNBH phải tiến hành bồi thường, chi trả tiền bảo
hiểm. Nhưng nhiều khi số tiền phải chi trả lớn hơn nhiều lần so với phí bảo hiểm
thu được và rủi ro xảy ra trên quy mô lớn, do đó để đảm bảo nghĩa vụ của mình đối
với khách hàng, doanh nghiệp buộc phải thiết lập các khoản dự phòng nghiệp vụ.
Đối với DNBH PNT, các quỹ dự phòng bao gồm 3 loại quỹ quan trọng nhất là
dự phòng phí, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn.
Việc trích lập các quỹ dự phòng không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật mà
còn là bắt buộc và có tính pháp lý cao đối với DNBH.
Nếu các khoản dự phòng phí được thực hiện một cách chính xác, hợp lý thì
doanh nghiệp có khả năng đảm bảo được quyền lợi đối với khách hàng, góp phần
nâng cao uy tín của doanh nghiệp, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và nâng cao được


11
sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường.

Việc trích lập các khoản dự phòng đầy đủ hàng năm là vô cùng cần thiết đối
với mỗi DNBH PNT và quy mô của các quỹ được trích cũng khá lớn. Để đảm bảo
khả năng sinh lời của nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi này, các công ty bảo hiểm
thường sử dụng phần lớn các nguồn quỹ này đem đi đầu tư ở nhiều lĩnh vực và hình
thức đầu tư khác nhau như đầu tư bất động sản, mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu
công ty, mua cổ phiếu, cho vay thế chấp… Tuy nhiên, do đây là nguồn vốn vay nên
các khoản đầu tư này phải được đảm bảo tính thanh khoản, có thể nhanh chóng
chuyển sang tiền mặt để chi trả và bồi thường cho khách hàng khi có sự kiện bảo
hiểm bất ngờ xảy ra.
Nếu doanh nghiệp bảo đảm trích đúng và đầy đủ các khoản dự phòng, sẽ tạo
niềm tin nơi khách hàng và từ đó sẽ tích cực tham gia bảo hiểm tại công ty, gia tăng
doanh thu cho sản phẩm, từ đó nâng cao được NLCT.
1.2.2.2. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm
Sự thành công của một doanh nghiệp cần có sự đóng góp của rất nhiều nguồn
lực khác nhau trong đó nguồn nhân lực luôn được coi là nhân tố cơ bản nhất, trực
tiếp nhất quyết định đến chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối
với các DNBH cũng không là ngoại lệ, hơn nữa kinh doanh của doanh nghiệp nói
chung và của từng nghiệp vụ nói riêng. Khi một DNBH có đội ngũ nhân lực chất
lượng cao cả về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp thì sẽ mang lại sự
thỏa mãn cho khách hàng, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Đặc biệt là sản phẩm BHCN
PNT liên quan tới vấn đề chăm sóc sức khỏe cũng như hộ trợ tài chính cho người
tham gia bảo hiểm nên rất cần sự hướng dẫn và tư vấn của cấc nhân viên tốt có thể
để lại ấn tượng tốt đối với khách hàng, làm việc mang lại hiệu quả cao từ đó duy trì
khách hàng cũ và có thêm nhiều khách hàng mới giúp doanh nghiệp có thể cạnh
tranh cả với những đối thủ nặng ký trên thị trường.
Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được mong đợi và khá trừu tượng,
khách hàng đa dạng và hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm còn nhiều hạn chế nên
hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn gặp không ít khó khăn đặc biệt là khâu khai
thác, chào bán sản phẩm. Để có thể đạt được kết quả và hiệu quả cao trong kinh
doanh, đòi hỏi mỗi DNBH cần có một đội ngũ nhân lực vừa có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ cao lại có đạo đức nghề nghiệp tốt, vì trong bảo hiểm dễ xảy ra trục lợi
khi có sự phối hợp giữa cán bộ của DNBH và khách hàng.
a. Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của một DNBH


12
Việc đánh giá được thực hiện thông qua đánh giá các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty nói chung và
cán bộ nhân viên phụ trách về nghiệp vụ BHCN PNT nói riêng.
+ Năng suất lao động bình quân trong doanh nghiệp:
=

Trong đó:
là năng suất lao động bình quân trong kỳ 1 lao động
D là doanh thu của DNBH trong kỳ
là số lượng lao động bình quân trong kỳ của DNBH
+ Thu nhập bình quân và các chính sách đãi ngộ đối với các nhân viên
b. Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp
Đánh giá thông qua các tiêu chí:
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp: Một mô hình bộ máy tổ chức gọn
nhẹ vừa mang tính chuyên biệt nhưng lại hoạt động hiệu quả và linh hoạt sẽ góp
phần nâng cao năng lực quản lý điều hành cũng như đáp ứng được các yêu cầu
trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý của ban điều hành công ty sẽ giúp
đưa ra được các quyết định, các chiến lược kinh doanh đúng đắn trong từng giai
đoạn phát triển của công ty.
+ Tính linh hoạt và thích nghi của DNBH: Do thị trường bảo hiểm thường
xuyên biến động và các đối thủ cạnh tranh của DNBH cũng không ngừng thay đổi
chiến lược kinh doanh của mình nên để có thể tồn tại và chiến thắng trong cạnh
tranh thì buộc các DNBH phải tự làm mới mình. Để đánh giá tính đổi mới của

DNBH hay của sản phẩm người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
- Sự đổi mới về tư duy và chiến lược kinh doanh theo những biến động của thị
trường.
- Sự đổi mới về sản phẩm như: cải tiến về chất lượng sản phẩm, thay đổi về
giá cả, giá trị gia tăng của các sản phẩm được triển khai, thiết kế sản phẩm mới…
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý điều hành DNBH nói
chung và quản lý về nghiệp vụ BHCN PNT nói riêng. Hiện nay, công nghệ thông
tin giữ một vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm cũng vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản


13
lý đã và đang trở thành một yếu tố tác động trực tiếp tới NLCT của DNBH và sản
phẩm bảo hiểm. Với sự hỗ trợ của các phần mềm quản lý, đánh giá rủi ro, kế toán
phục vụ thu chi… đã giúp cho các DNBH có thể thu thập và xử lý thông tin dữ liệu
một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, giúp cho
việc giao dịch với khách hàng diễn ra thuận tiện hơn nên DNBH sẽ có nhiều lợi thế
hơn trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
1.2.2.3. Thị phần và thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm
a. Thị phần của DNBH
Hầu hết các DNBH khi gia nhập thị trường thường đặt mục tiêu cao nhất cho
mình là chiếm được phần càng lớn càng tốt trong miếng bánh thị trường hay còn gọi
là thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ.
Thị phần của DNBH là tỷ lệ % thị trường của DNBH nắm giữ so với các đối
thủ cạnh tranh. Thị phần gồm có thị phần tuyệt đối và thị phần tương đối.
Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ % kết quả tiêu thụ sản phẩm của DNBH này so với
kết quả tiêu thụ sản phẩm cùng loại của các DNBH khác trên thị trường.
Thị phần tương đối của DNBH được tính theo tỷ lệ thị phần của DNBH:
Thị phần của DNBH =


Thị phần của SPBH =
Việc xác định thị phần của DNBH cũng như SPBH chính là xác định chỗ
đứng của DNBH trên thị trường. Do vậy, thị phần luôn được coi là chỉ tiêu hàng
đầu khi đánh giá NLCT của doanh nghiệp hoặc của SPBH. Thị phần của doanh
nghiệp càng lớn chứng tỏ vị thế của doanh nghiệp trên thị trường càng cao, sự tín
nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp càng tăng, doanh nghiệp càng có điều
kiện mở rộng và phát triển nên NLCT của các SPBH mà doanh nghiệp đang triển
khai sẽ có NLCT càng cao vì khách hàng đã biết nhiều đến uy tín của doanh nghiệp.
Ngược lại, NLCT đó càng mạnh mẽ thì có nhiều khách hàng sẽ chọn SPBH
của doanh nghiệp, càng góp phần giúp doanh nghiệp gia tăng thị phần.
b. Thương hiệu của DNBH về sản phẩm BHCN PNT
Theo tâm lý chung của đại đa số khách hàng, họ thường có xu hướng tiêu
dùng những sản phẩm thông qua việc biết tới thương hiệu của doanh nghiệp sản
xuất ra chúng, vì chỉ khi có một thương hiệu mạnh mới mang tới cho khách hàng sự


14
an tâm về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ mà họ chọn mua. Một thương
hiệu được nhiều người biết tới sẽ có tác dụng lớn thu hút khách hàng tới tiêu dùng
sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nhưng ngược lại chính
niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng cũng góp phần không nhỏ tạo dựng thương
hiệu, uy tín của doanh nghiệp. Thương hiệu không chỉ tạo sự phát triển bền vững
cho doanh nghiệp mà nó còn là một rào cản vô hình vô cùng lợi hại hạn chế sự gia
nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Chính vì vậy, có thể
khẳng định rằng việc xây dựng thương hiệu có thể coi là vấn đề mang tính sống còn
đối với mỗi doanh nghiệp mà đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm
bảo hiểm trên thương trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Kinh nghiệm của rất nhiều công ty hàng đầu trên thế giới đã chứng minh,
thương hiệu là một tiêu chí hàng đầu về đánh giá NLCT của DNBH và NLCT về
sản phẩm của doanh nghiệp đó. Việc đánh giá thương hiệu chính là việc đánh giá

hình ảnh của doanh nghiệp được định vị như thế nào trong con mắt người tiêu dùng.
Khách hàng biết đến công ty như thế nào qua việc biết tới sản phẩm, tên tuổi, logo,
slogan… của doanh nghiệp.
Thương hiệu là khối tài sản vô hình vô cùng to lớn đối với mỗi DNBH, nhưng
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, các nhà bảo hiểm
phải làm gì để giữ gìn và phát triển thương hiệu của mình. Đó thực sự là một bài
toán hóc búa vì mỗi thương hiệu của mỗi doanh nghiệp không thể được hình thành
và phát triển một sớm một chiều mà nó là kết quả của một quá trình phấn đấu lâu
dài và kiên trì theo phương châm, chiến lược kinh doanh của bản thân mỗi doanh
nghiệp. Một thương hiệu nếu chỉ được tạo lập thông qua việc quảng cáo, khuếch
trương tên tuổi của doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thì
không thể là một thương hiệu bền vững. Thương hiệu chỉ thực sự bền vững trên
thương trường khi nó được xây dựng nên từ con đường chất lượng. Chất lượng của
bộ máy lãnh đạo, của từng cá nhân trong doanh nghiệp, chất lượng của các sản
phẩm mà doanh nghiệp đó mang tới cho khách hàng và những đóng góp của doanh
nghiệp vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Như vậy, nếu DNBH đã hoặc đang cố gắng xây dựng cho mình một thương
hiệu tốt thì chắc chắn các sản phẩm của họ cũng sẽ có NLCT rất cao.
1.2.2.4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
a. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm và cả
DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: Doanh thu và lợi nhuận.


15
Doanh thu của DNBH phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời
kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan
phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh trong DNBH. Chỉ tiêu này bao gồm các bộ
phận cấu thành: doanh thu về hoạt động kinh doanh BH và tái bảo hiểm; thu nhập
từ đầu tư và các khoản thu khác.

Chi phí của DNBH là toàn bộ số tiền DNBH chi ra trong kỳ phục vụ quá trình
hoạt động kinh doanh trong vòng 1 năm.
Dựa vào kết quả thu chi sẽ tính được lợi nhuận mà DNBH thu được trong 1
năm. Có 2 chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế – Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận cũng có thể tính riêng cho từng
nghiệp vụ bảo hiểm. Khi đó, cần đảm bảo nguyên tắc: những khoản thu, chi nào có
liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như:
phí bảo hiểm, chi bồi thường, STBH chi trả…), những khoản thu gián tiếp (chi quản
lý doanh nghiệp, thu nhập đầu tư…) phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu
phí bảo hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung.
b. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân doanh
nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh
doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn với những mục tiêu kinh tế - xã hội.
Trước hết là những mục tiêu của DNBH, sau đó là của ngành bảo hiểm và toàn bộ
nền kinh tế - xã hội. Bởi vì bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang
tính xã hội. Cho nên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một DNBH không chỉ
xét trên góc độ kinh tế mà còn phải xét trên góc độ phục vụ xã hội.
+ Đứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ
số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
Hd = D/C (1)
Hc = L/C (2)
Trong đó:
Hd, Hc: Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi nhuận
D: Doanh thu trong kỳ
C: Tổng chi phí chi ra trong kỳ
L: Lợi nhuận thu được trong kỳ

Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu, chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao


16
nhiêu đồng lợi nhuận cho DNBH. Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt, vì với chi phí
nhất định, DNBH sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng.
+ Đứng trên góc độ xã hội:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
Hx = Ktg/Cbh (3)
Hx = Kbt/Cbh (4)
Trong đó:
Hx: Hiệu quả xã hội của DNBH
Cbh: Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh BH trong kỳ
Ktg: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
Kbt: Số khách hàng được bồi thường trong kỳ
Chỉ tiêu (3) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ thu hút được bao
nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm, chỉ tiêu (4) nói lên cùng với đồng chi phí đó
đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro
trong kỳ nghiên cứu.
c. Một số chỉ tiêu cụ thể:
+ Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu

=

* 100%

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản


=

* 100%

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

=

* 100%

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình
hình sinh lợi của doanh nghiệp. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho
cổ đông và doanh thu của công ty. Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu
phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh
doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là càng lãi lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là
công ty kinh doanh thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE là tỷ số tài chính để đo khả năng
sinh lợi trên mỗi đồng vốn cổ phần ở một công ty cổ phần. Tỷ số này cho biết cứ
100 đồng vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là
công ty làm ăn thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản – ROA là một tỷ số tài chính dùng để đo lường
khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp. Nếu tỷ số này lớn hơn 0,
thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm
ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp lầm ăn thua lỗ. Mức


17
lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh
nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của

doanh nghiệp.
+ Cổ tức cho các cổ đông: Sau khi công ty thu được lợi nhuận sau thuế, một
phần lợi nhuận này sẽ được giữ lại để thực hiện tái đầu tư, phần còn lại được chia
cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức. Cổ tức các cổ đông nhận được càng lớn
chứng tỏ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Các chỉ tiêu về chi phí: Trong kinh doanh bảo hiểm, vấn đề chi phí có vai trò
khá quan trọng vì tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh sẽ giúp các nhà bảo hiểm
có điều kiện để giảm phí, tăng chất lượng dịch vụ khách hàng từ đó tạo điều kiện
nâng cao NLCT cho sản phẩm.
Tỷ lệ bồi thường =

* 100%

Đây là chỉ tiêu rất quan trọng khi đánh giá tình hình đoạt động của DNBH về
bất kỳ nghiệp vụ nào. Nó phản ánh số phí bảo hiểm mà doanh nghiệp sử dụng để
chi trả. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ chi phí mà doanh nghiệp phải chi cho sản
phẩm càng lớn, gây ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm và ngược lại.
Tỷ lệ chi quản lý =

* 100%

Tỷ lệ này cho biết để khai thác được một đồng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí cho quản lý nghiệp vụ.
1.2.3.

Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm

tại doanh nghiệp bảo hiểm
NLCT của sản phẩm được đánh giá qua các tiêu chí như: chất lượng sản
phẩm, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu,

quảng cáo, điều kiện mua bán…
Với mỗi sản phầm bảo hiểm nói chung và các sản phẩm BHCN PNT nói
riêng, mỗi DNBH khi triển khai sản phẩm của mình trên thị trường đều phải cân
nhắc về NLCT của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Về cơ bản, các DNBH
thường quan tâm đến các tiêu chí đánh giá NLCT của sản phẩm như sau:
1.2.3.1. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm bảo hiểm nói chung và BHCN PNT nói riêng được đánh
giá thông qua mức độ thỏa mãn yêu cầu của khách hàng cùng với các dịch vụ sau


18
bán hàng như giám định, bồi thường…
Mỗi sản phẩm bảo hiểm đều được biểu hiện trên hợp đồng bảo hiểm (trong
quy tắc, điều khoản, biểu phí). Nội dung cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm thường
bao gồm:
 Đối tượng bảo hiểm
 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
 Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ
 Thời hạn bảo hiểm
 Mức phí bảo hiển và phương thức nộp phí
 Các quy định về việc giải quyết bồi thường và xử lý tranh chấp nếu có
Có thể thấy chính những yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên chất lượng của
mỗi sản phẩm bảo hiểm. Bên cạnh đó, còn phải kể đến chất lượng của khâu giám
định tổn thất và giải quyết bồi thường, chi trả. Thực hiện tốt khâu này một cách chủ
động, nhanh chóng, chính xác, hợp lý chính là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và
nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng của mình.
1.2.3.2. Giá cả sản phẩm
Cạnh tranh bằng giá phải được đảm bảo về mặt luật pháp thông qua các quy
định về quản lý phí bảo hiểm. Sau đó phí bảo hiểm phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài
chính của doanh nghiệp, bao gồm khả năng chi trả bồi thường, các chi phí hoạt

động và đảm bảo có lãi.
Với mục tiêu theo hướng cạnh tranh, doanh nghiệp thực hiện việc định giá sản
phẩm dựa trên giá cả sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc đối thủ cạnh
tranh tiềm năng. Cụ thể, DNBH sẽ phải xem xét các yếu tố:
 Số lượng đối thủ cạnh tranh và số sản phẩm cạnh tranh
 Yếu tố chi phí gắn với sản phẩm của từng đối thủ cạnh tranh
 Nguồn lực tài chính của từng đối thủ nói chung cũng như nguồn lực từng
đối thủ cạnh tranh dành riêng cho sản phẩm
 Vai trò của sản phẩm trong danh mục sản phẩm của đối thủ canhjt ranh
 Hành vi định giá trước đây của từng đối thủ cạnh tranh
 Phản ứng dụ kiến của từng đối thủ cạnh tranh trước sự thay đổi của giá cả
 Điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ cạnh tranh
Tiếp cận với những thông tin này sẽ giúp DNBH đưa ra những mức giá phù
hợp cho sản phẩm của mình trong mối quan hệ với giá của các sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh.
Hiện nay, cạnh tranh bằng phí được DNBH PNT thực hiện thông qua hoạt động
hạ phí mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thông thường các DNBH tìm cách hạ phí
thông qua giảm chi phí hành chính, chi phí quản lý, chi phí ký kết hợp đồng…
1.2.3.3. Dịch vụ đi kèm sản phẩm


19
Trong điều kiện kinh tế thị trường, muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh
doanh, trước hết các doanh nghiệp phải bảo vệ được thị phần thị trường hiện có của
mình, sau đó bằng các biện pháp cạnh tranh sẽ phát triển dần sang thị trường tiền
năng mà mình đã xác định. Do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm, nên trong kinh
doanh bảo hiểm vấn đề tổ chức dịch vụ khách hàng, giữ khách hàng luôn được coi
trọng. Các DNBH luôn đánh giá và nhận thức rất cao công tác này vì:
 Làm tốt công tác dịch vụ khách hàng trước hết là giữ được khách hàng,
nhất là những khách hàng truyền thống, có số tiền bảo hiểm (STBH) lớn. Từ đó

giúp tiết kiệm chi phí khai thác ban đầu, tăng thêm kinh nghiệm phòng tránh rủi ro.
Hơn thế, khách hàng cũ còn có khả năng lôi kéo khách hàng mới về với DNBH.
 Công tác dịch vụ khách hàng còn tạo ra sự khác biệt so với các đối thủ
cạnh tranh (nhất là trong giao tiếp, chăm sóc, dẫn dụ khách hàng), từ đó nhiều
khách hàng sẽ chung thủy hơn với DNBH. Đồng thời còn tạo cảm giác cho họ về
những quyền lợi mà họ được hưởng không chỉ có giá trị của sản phẩm bảo hiểm mà
cả chất lượng phục vụ.
 Thực hiện tốt công tác dịch vụ khách hàng cũng góp phần cải thiện môi
trường làm việc, nâng cao uy tín của DNBH.
 Một khi đã giữ được khách hàng cũ và lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới
nhờ công tác dịch vị khách hàng không chỉ góp phần tăng doanh thu mà còn tiết
kiệm được nhiều khoản chi khác.
Công tác dịch vụ khách hàng thường được xem xét dưới 2 nội dung: dịch vụ
chăm sóc khách hàng và dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Dịch vụ chăm sóc khách hàng được thực hiện sau khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm, thông qua những lời thăm hỏi, tặng quà trong các dịp lễ tết, sinh nhật, trong
tư vấn đề phòng và hạn chế tổn thất…
Đối với các DNBH PNT, dịch vụ hỗ trợ khách hàng thường được thực hiện
dưới hình thức tổ chức các “Hội nghị khách hàng”, nhằm mục đích duy trì mối liên
hệ thường xuyên với họ. Qua hội nghị khách hàng, DNBH sẽ nắm bắt được nhu cầu
của khách hàng về các loại sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm, những ý kiến đóng góp
của họ về mỗi loại sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp đã tung ra thị trường,
những vấn đề còn tồn tại trong các khâu dịch vụ…
1.2.3.4. Hệ thống phân phối
Hình thức cạnh tranh này biểu hiện rất phong phú và đa dạng, gồm: phân phối
trực tiếp (gặp gỡ trực tiếp, điện thoại, thư tín, mail…), phân phối gián tiếp (công ty môi
giới, đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ). Việc lựa chọn kênh phân phối của DNBH có mối


20

quan hệ tương tác với thị trường mục tiêu và sản phẩm mà DNBH chào bán. Mục tiêu
của kênh phân phối là giới thiệu và bán sản phẩm theo cách vừa đem lại hiệu quả cho
DNBH vừa thích hợp với người tiêu dùng. Các DNBH thường định kỳ điều chỉnh kênh
phân phối để tăng tính cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả cao trong bán hàng.
Kênh phân phối trực tiếp là thích hợp khi khách hàng có sự am hiểu nhất định
về sản phẩm bảo hiểm, đặc biệt đối với các sản phẩm bảo hiểm mang tính đại trà và
đã được triển khai từ trước. Kênh phân phối gián tiếp nên được sử dụng khi DNBH
chào bán nhiều loại sản phẩm bảo hiểm cùng lúc, đặc biệt với các sản phẩm mới
được triển khai trên thị trường hoặc những sản phẩm đặc biệt, ít tính phổ thông hoặc
với nhóm khách hàng có yêu cầu đặc biệt về sản phẩm bảo hiểm.
1.2.3.5. Quảng bá sản phẩm
Nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, các DNBH phải thực hiện các hoạt
động xúc tiến bán hàng, phổ biến nhất là 2 công cụ: tuyên truyền quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động quan hệ với công chúng. Hình thức cạnh
tranh này thường đòi hỏi chi phí lớn, các doanh nghiệp áp dụng hình thức này thường là
các doanh nghiệp có vốn lớn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm và phải có chiến lược
khai thác từng thị trường mục tiêu một cách rõ ràng, chính xác thì mới hiệu quả.
Các phương tiện thông tin đại chúng truyền thống được sử dụng để quảng cáo
bao gồm: vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, bảng hiệu, áp phích.
Hiện nay, mạng internet cũng đang trở thành một dạng phương tiện thông tin đại
chúng phổ biến vì các DNBH đã và đang xây dựng những trang web cho phép
người sử dụng máy tính có thể tìm hiểu các thông tin về sản phẩm và về DNBH.
Các hình thức quảng cáo này cung cấp cho khách hàng các thông tin về sản phẩm,
xây dựng sự ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm, củng cố thái độ hay thói
quen mua hiện thời của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Để tăng
tính cạnh tranh trên thị trường, một số DNBH cũng thực hiện truyền thông về lớp
sản phẩm vượt trội hẳn so với lớp sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.



×