Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Vay nợ nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.89 KB, 49 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
------

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM
GVHD

: NGUYỄN HOÀNG BẢO

SVTH

: ĐỖ THỊ HÀ PHƯƠNG

LỚP

: ĐẦU TƯ 1 – K33

TP. HCM, 2011
1


TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Kể từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường năm 1987 đến nay,
kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng đi đôi với nó là thâm hụt thương mại, thâm
hụt ngân sách, lạm phát cao… Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, ở trong
nước cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế như lạm phát tăng cao, thâm hụt thương


mại ngày càng lớn, thị trường nhà đất đóng băng, thị trường chứng khoán liên tục hạ
điểm, giá vàng, giá đô la, giá xăng dầu bất ổn… Vấn đề thâm hụt tài khoản vãng lai tăng
cao và kèm theo đó là nợ nước ngoài ngày càng lớn đang là mối quan tâm của nhiều nhà
kinh tế. Nợ nước ngoài đóng góp một phần không nhỏ trong sự tăng trưởng của nền kinh
tế, tuy nhiên con số nợ nước ngoài ngày càng lớn và chưa tương xứng với tốc độ tăng
trưởng, kèm theo đó là sự bất ổn của nền kinh tế và cơ chế quản lý nợ kém hiệu quả có
thể sẽ là nguyên nhân dẫn tới sự kém bền vững của nợ nước ngoài. Sau nhiều bài học trên
thế giới, có thể nhận ra rằng trong quá trình phát triển, khủng hoảng nợ rất dễ xảy ra và
khó tránh khỏi, thực tế cho thấy thời gian qua khủng hoảng đã xảy ra ở nhiều nước và
đang lan rộng ra, đặc biệt là các nước phát triển ở châu Âu. Đề tài đi vào tìm hiểu những
yếu tố tác động tới nợ nước ngoài và tính bền vững của nợ nước ngoài ở Việt Nam.
Thông qua đó, kiến nghị một số chính sách nhằm giảm mức độ nợ nước ngoài cũng như
sử dụng hiệu quả nợ nước ngoài.
Key words: nợ nước ngoài, bền vững, thâm hụt.

2


CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU
Chương một là chương giới thiệu tổng quan về đề tài, bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu
của đề tài, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp luận và cấu trúc của đề tài.
1.1 Đặt vấn đề
Nợ nước ngoài của một quốc gia ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó, đây
hiện đang là vấn đề quan tâm của rất nhiều các quốc gia trên thế giới, từ những nước kém
phát triển, đang phát triển hay kể cả những nước phát triển, nếu như không có một chính
sách quản lý các khoản nợ quốc gia nói chung và khoản nợ nước ngoài nói riêng thì nguy
cơ khủng hoảng nợ là rất lớn.
Trong thời gian qua, có nhiều nước đang phát triển đã dựa và các khoản nợ nước ngoài để

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngoài những lợi ích đáng kể, các nước vay nợ phải đối mặt
với những thách thức đòi hỏi phải có chính sách quản lý nợ nước ngoài một cách hợp lý
để tránh tình trạng khủng hoảng nợ. Nợ nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng, tính tới
năm 2010, nợ nước ngoài của quốc gia là 30% GDP, theo quan điểm của Worldbank, đây
vẫn là mức nợ an toàn. Tuy nhiên nợ nhiều hay ít không quan trọng bằng vấn đề Việt
Nam có đủ khả năng chi trả hay không. Một xu thế rất đáng lo ngại là trong giai đoạn
2001-2009, thâm hụt ngân sách tăng từ 2,8% GDP lên tới 9% GDP, nhập siêu ngày càng
lớn, tỷ giá biến động liên tục, Việt Nam đang bán rất nhiều tài nguyên thiên nhiên để thu
ngoại tệ và trả nợ cho nước ngoài. Trong năm 2010, sự khủng hoảng nợ công của một loạt
các nước phát triển ở châu Âu, theo các báo cáo của Bộ tài chính, nợ nước ngoài của Việt
Nam vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Đề tài tập trung tìm hiểu vấn đề nợ nước ngoài của
Việt Nam, bao gồm ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô tới khả năng gia tăng khoản nợ và
khả năng trả nợ nước ngoài ở nước ta và tìm hiểu tính bền vững của nợ nước ngoài của
Việt Nam.
3


Theo Aart Kraay and Vikram Nehru(2003), các biến số phi tài chính là yếu tố quyết định
then chốt đến tổng nợ nước ngoài và khả năng trả nợ nước ngoài của một nền kinh tế, đặc
biệt là chính sách ảnh hưởng rất lớn tới nợ nước ngoài. Ngay cả một nước không có tiền lệ
về mất khả năng trả nợ hay không có chính sách yếu kém về khả năng trả nợ nhưng nếu
hiện tại không có chính sách quản lý và sử dụng các khoản nợ nước ngoài hiệu quả cũng có
thể dẫn tới khủng hoảng nợ như hàng loạt các nước phát triển ở châu Âu trong năm 2010.
Đề tài xem xét sự bền vững của nợ nước ngoài từ một góc độ khác so với các chủ nợ đa
phương như World Bank hay IMF, khái niệm và chỉ tiêu nợ bền vững tập trung vào các
chỉ số nợ nần. Tuy nhiên, đánh giá mức bền vững của nợ nước ngoài ở phần lớn các nhóm
quốc gia trong đó có cả Việt Nam như hiện nay là chưa chính xác vì mỗi nước có chính
sách khác nhau, bối cảnh kinh tế khác nhau.
1.2
Mục tiêu nghiên cứu

Những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của Việt Nam
Đánh giá tính bền vững của nợ nước ngoài ở Việt Nam.
1.3

Câu hỏi nghiên cứu

Những yếu tố vĩ mô nào ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ nước ngoài?
Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới có bền vững hay không?
Một số những kiến nghị chính sách để quản lý nợ nước ngoài?
1.4
Phương pháp luận
Đề tài sử dụng mô hình Jame De Pines để đánh giá tính bền vững đồng thời đưa ra một số
kịch bản nợ của Việt Nam trong thời gian tới. Các số liệu kinh tế vĩ mô sử dụng trong đề
tài là nợ nước ngoài, xuất khẩu, nhập khẩu, lãi suất, thâm hụt ngân sách của Việt Nam
trong giai đoạn từ 1990- 2009, số liệu được lấy từ các trang web của World Bank, Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB) và bản tin nợ nước ngoài số 6. Ngoài ra, đề tài sử dụng
phương pháp phân tích thực nghiệm với một số trường hợp cụ thể của Việt Nam.

4


1.5

Cấu trúc đề tài

Đề tài bao gồm 5 chương. Chương 1 giới thiệu chung về đề tài. Chương 2 nghiên cứu cơ
sở lý thuyết, các định nghĩa, cách phân loại nợ nước ngoài, các lý thuyết liên quan đến nợ
nước ngoài và các nghiên cứu trước đây về nợ nước ngoài. Chương 3 trình bày khung
phân tích của đề tài như mô hình Jame de pines. Chương 4 là kết quả đạt được của đề tài.
Chương 5 là kết luận và kiến nghị chính sách.


5


Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các lý thuyết và các nghiên cứu liên quan sẽ được đề cập trong chương 2 làm nền tảng lý
thuyết cho những phân tích của bài nghiên cứu bao gồm: Định nghĩa và cách phân loại nợ
nước ngoài, một số cách xác định mức bền vững của nợ nước ngoài trên thế giới và của
Việt Nam, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và khả năng gia tăng nợ
nước ngoài, các nghiên cứu trước đây về nợ nước ngoài và bài học kinh nghiệm về quản
lý nợ nước ngoài của một số nước trên thế giới.
2.1 Lý thuyết cơ bản về nợ nước ngoài
2.1.1 Định nghĩa nợ nước ngoài
Theo luật quản lý nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài
của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác được
vay theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo định nghĩa trong nghị định số 90/1998/NĐ- CP của Chính phủ, vay nước ngoài là
các khoản vay ngắn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không phải trả lãi) do Nhà nước Việt
Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính phủ, của
ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào,
là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm các nghĩa vụ nợ dự
phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có lãi hoặc không có lãi trong tương lai,
khoản nợ này là của người cư trú đối với một người không cư trú trong quốc gia.
Đề tài thống nhất sử dụng định nghĩa của quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì đây là định nghĩa được
áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới, đề tài có thể dễ dàng so sánh với các nước khác và có thể
áp dụng những mô hình kinh tế trên thế giới đối với trường hợp của Việt Nam.


6


2.1.2 Phân loại nợ nước ngoài
Theo nghị định số 90/1998/NĐ- CP của Chính phủ, và theo bản tin nợ nước ngoài số 6
của Cục quản lý nợ nước ngoài, Nợ nước ngoài có thể phân loại theo các cách sau:
Phân loại theo điều kiện đi vay: ưu đãi và không ưu đãi. Theo Uỷ ban hỗ trợ phát triển,
khoản vay ưu đãi là khoản vay trong đó yếu tố viện trợ chiếm từ 25% trở lên; yếu tố viện
trợ của khoản vay là giá trị cam kết của nó trừ đi giá trị dịch vụ nợ theo hợp đồng và
ngược lại là khoản vay không ưu đãi.
Phân loại theo thời hạn vay: ngắn hạn và dài hạn. nợ ngắn hạn là các khoản nợ từ một
năm trở xuống và nợ dài hạn là trên một năm. Nợ ngắn hạn là khoản nợ có ảnh hưởng
trực tiếp đến tính thanh khoản của quốc gia và có khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế
như sự rút vốn đột ngột của các tổ chức nước ngoài ở Thái Lan năm 1997, kéo theo đó là
sự rút vốn ở hàng loạt các nước châu Á khác. Khoản nợ ngắn hạn cần được quản lý chặt
chẽ và cần được giữ ở mức thấp nhất có thể để giảm áp lực thanh toán và giảm tác động
tiêu cực đến nền kinh tế khi có sự rút lui vốn đột ngột.
Phân loại theo chủ thể đi vay: Nợ chính thức của khu vực chính phủ và nợ tư nhân của
khu vực tư nhân. Nợ chính thức là khoản nợ của khu vực chính phủ bao gồm nợ của các
tổ chức nhà nước, của các cơ quan hành chính tỉnh, thành phố. Ngoài ra, các khoản nợ
của khu vực tư nhân do nhà nước bảo lãnh cũng được coi là nợ chính thức vì chính phủ
của nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho nước cho vay trong trường hợp chủ
thể đi vay không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ của mình. Tuy nhiên trong trường hợp
chính quuyền địa phương hoặc doanh nghiệp vỡ nợ thì nghĩa vụ nợ có thể đè lên vai chính
phủ . Nợ tư nhân là các khoản nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn hoặc do chính
quyền địa phương mượn không có sự bảo lãnh của chính phủ. Nợ tư nhân thường là nợ
trên thị trường trái phiếu, nợ ngân hàng thương mại và các tổ chức tư nhân khác. Trong
cách tính nợ nước ngoài của Việt Nam không tính tới các khoản nợ nước ngoài không
7



được nhà nước bảo lãnh, các công ty có thể phát hành trái phiếu ra nước ngoài, con số này
trên thực tế là rất lớn, thường là lãi suất cao không ưu đãi rất khó kiểm soát.
Phân loại theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa phương là nợ từ
các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, các ngân hàng phát triển
khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ. Nợ song phương là nợ từ
chính phủ của một nước.
2.1.3 Nợ bền vững theo quan điểm world bank
Trước tiên, ta đi tìm hiểu khái niệm nợ bền vững, các tổ chức quốc tế đã thống nhất nợ
nước ngoài bền vững là tình huống các quốc gia đạt được khi quốc gia đó có thể duy trì
nợ nước ngoài một cách tích cực, không gây hại cho nền kinh tế. Nợ bền vững là một mức
độ của nợ cho phép các quốc gia mắc nợ có thể đáp ứng nghĩa vụ nợ của mình một cách
đầy đủ ở hiện tại và tương lai mà không cần thêm cứu trợ, gia hạn nợ, có thể ngăn ngừa
tích tụ nợ mà không có bất cứ trở ngại nào cho tăng trưởng kinh tế
Để đánh giá mức độ bền vững của nợ nước ngoài có ba phương pháp, thứ nhất là
phân tích giảm nợ của các quốc gia nghéo mắc nợ nặng nề (HIPC), khung nợ bền vững
cho những nước có thu nhập thấp, (LIC – DSF) và khung nợ bền vững cho những nước
thu nhập trung bình. Đối với Việt Nam, khung nợ bền vững cho những nước có thu nhập
thấp là phù hợp nhất. Ngân hàng thế giới cũng áp dụng khung này để đánh giá nợ nước
ngoài của Việt Nam.

Nợ nước
ngoài/ xuất
khẩu (%)

Nợ nước
ngoài/ GDP
(%)

Nợ nước

ngoài/ tổng
thu chính
phủ (%)

Dịch vụ nợ/
xuất khẩu
(%)

Dịch vụ nợ/
tổng thu
chính phủ
(%)

bền vững

100

30

200

15

25

Trung bình

150

40


250

20

30

Không bền vững

200

50

300

25

35

Nguồn: Ngân hàng thế giới, World Bank.
8


2.1.4 Chỉ tiêu giới hạn an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam
- Tổng dư nợ nước ngoài / GDP: 50%
- Tổng dư nợ nước ngoài / xuất khẩu: 150%
- Tổng nghĩa vụ trả nợ / xuất khẩu: 20%
- Tổng nghĩa vụ trả nợ của chính phủ/ thu ngân sách: 12%
Những chỉ tiêu giới hạn này được áp dụng rất phổ biến trên thế giới. Các chỉ tiêu
này dựa trên điều kiện khả năng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên các chỉ tiêu này bộc

lộ những hạn chế của nó. Mặc dù các chỉ tiêu này cung cấp một điều kiện lâu dài cho sự
ổn định của tỷ lệ nợ trên GDP nhưng không xác định được tỷ lệ tối ưu; trên thực tế có
những nước có tỷ lệ nợ trên xuất khẩu và trên GDP rất cao nhưng hoàn toàn có khả năng
trả nợ… Những chỉ tiêu trên không hoàn toàn phản ánh được hết nguy cơ nợ không bền vững.
2.2 Tác động của nợ nước ngoài đối với nền kinh tế
Theo Hameed.A (2008), vay nợ nước ngoài góp một phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, đặc biệt là khi nguồn lực tài chính trong nước không đầy đủ và cần bổ sung
nguồn vốn từ bên ngoài. Nghiên cứu của ông cũng công nhận rằng một mức độ vay nợ
nước ngoài hợp lý sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các yếu tố tích luỹ và tăng năng
suất.
Hojman (1986) cũng đã nghiên cứu một phương trình cơ bản ứng dụng dựa trên đóng
góp của nợ nước ngoài tới sản lượng, năng suất, việc làm và chi tiêu ở Chile trong giai
đoạn 1960-1982. Kết quả cho thấy rằng có mối quan hệ có ý nghĩa tiêu cực giữa dòng vốn
từ bên ngoài và tiết kiệm nội địa. Nhưng trong nghiên cứu này cũng khẳng định sự đóng
góp của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế.
Hameed.A và các cộng sự (2008) đã phân tích mối quan hệ trong dài hạn và ngắn hạn
giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan. Họ đã xem xét tác động của GDP,
dịch vụ nợ, vốn và lực lượng lao động vào tăng trưởng kinh tế bằng cách kết hợp mô hình
tân cổ điển và dịch vụ nợ nước ngoài. Kết quả cho thấy dịch vụ nợ có ảnh hưởng tiêu cực
tới hiệu quả của năng suất và vốn trong dài hạn và do đó, nó làm giảm khả năng trả nợ

9


nước ngoài của đất nước. Tuy nhiên trong ngắn hạn, Hameed tìm thấy mối quan hệ một
chiều của nợ nước ngoài tới GDP, và nợ góp một phần quan trọng vào tăng trưởng GDP.
Qua những nghiên cứu trên ta thấy rằng nợ nước ngoài là một yếu tố cần thiết để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, nợ nước ngoài bù đắp thiếu hụt về tài chính đặc biệt là ở những
nước đang phát triển.
Mô hình tam khuyết

Khi bàn về nợ, cần thiết phải đề cập tới lỗ hổng của nền kinh tế ở các nước đang phát
triển với mô hình nhị khuyết Chenery and Strout (1966) về lỗ hổng về tài chính của chính
phủ và sự lựa chọn đầu tư công của mình. Mô hình tam khuyết được đề xuất bởi Bacha
(1990) Taylor (1993) nêu ra những khiếm khuyết của quốc gia đang phát triển đó là sự
thiếu hụt ngân sách chính phủ, thâm hụt cán cân thanh toán và chênh lệch giữa tiết kiệm
và đầu tư.
G= k(1+a) (PSBR/Y + Sg/Y +Fg /Y)
Trong đó, G là tốc độ tăng trưởng, PSBR là nhu cầu về vốn của khu vực chính phủ,
Y là sản lượng quốc gia, S g là tiết kiệm quốc gia, F g là luồng vốn nước ngoài của khu
vực chính phủ.Trong nền kinh tế mở, sản lượng quốc gia bao gồm chi tiêu cho hàng
hoá và dịch vụ của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, đầu tư và xuất khẩu. Ở các
quốc gia đang phát triển, thị trường tài chính trong nước nhỏ, việc đi vay trong nước
không đáp ứng đủ nhu cầu về đầu tư phát triển. Nếu chính phủ tài trợ nhu cầu vay
mượn của mình bằng nguồn tài chính lạm phát có thể làm lạm phát tăng nhanh hoặc
làm giảm nguồn vốn tư nhân vì lạm phát cao có thể làm nguồn vốn chảy ra nước
ngoài. Như vậy, luồng vốn đi vào khu vực chính phủ có thể cần thiết để xoá đi các rào
cản đối với tăng trưởng. Trong một nghiên cứu của Ardeshir Sepehri và Akram-lodhi
(2005) có sử dụng mô hình tam khuyết cho trường hợp của Việt Nam và kết luận rằng
nợ nước ngoài ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng GDP nhiều hơn là tài trợ bởi chính
phủ. Mô hình tam khuyết cho thấy sự cần thiết của một dòng vốn đi vào khu vực chính
phủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt là khi đầu tư tư nhân trong nước còn hạn
chế, nguồn vốn vay từ bên ngoài sẽ bù đắp lỗ hổng này.
10


2.3 Một số yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nợ nước ngoài
Trong nghiên cứu củaMc Fadden và các cộng sự thực hiện ở hơn 93 quốc gia trong giai
đoạn 1971- 1972, họ đã xây dựng một chỉ số về nợ nước ngoài và kết quả cho thấy tổng
nợ, mức thu nhập bình quân đầu người, tăng trưởng GDP thực, tính thanh khoản ảnh
hưởng mạnh mẽ và là những yếu tố quyết định đến tình hình nợ nước ngoài của một quốc

gia. Trong khi đó, Berg và Sachs (1988) lại nhấn mạnh yếu tố bất bình đẳng trong thu
nhập và thiếu mở của thương mại mới là những yếu tố gây nên sự khó khăn trong trả nợ
nước ngoài. Nghiên cứu của Aart Kraay và Vikram Nehru (2003) lại cho rằng yếu tố
quyết định đến tình hình nợ nước ngoài của một quốc gia là chính sách quản lý nợ và hiệu
quả sử dụng nợ của nước này.Từ rất nhiều những nghiên cứu đã đề cập ở trên, đề tài rút ra
được một số những yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu
vay nợ và khả năng trả nợ nước ngoài của một quốc gia như sau:
2.3.1 Thâm hụt ngân sách
Koo (2008) đã làm một nghiên cứu thực nghiệm ở Hàn Quốcvà chỉ ra rằng thâm hụt ngân
sách có ảnh hưởng tiêu cực tới nợ nước ngoài. Thâm hụt ngân sách là một trong những
nguyên nhân gây nên khủng hoảng nợ, thâm hụt ngân sách đánh giá mức hiệu quả của bộ
máy chính phủ trong việc quản lý nợ trong nước, nợ nước ngoài, ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước dùng một phần rất lớn chi tiêu cho các khoản đầu tư công về cơ sở
hạ tầng và các dự án lớn mang tầm chiến lược quốc gia. Khi thâm hụt ngân sách, nhà
nước phải vay nợ nước ngoài để bù đắp các khoản thâm hụt này, thâm hụt ngân sách càng
lớn thì nợ nước ngoài càng nhiều. Đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
đến các khoản nợ nước ngoài của quốc gia.

2.3.2 Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư

11


Tỷ lệ tiết kiệm trên GDP thấp và không đủ để tài trợ sự tăng trưởng của nhu cầu tiêu
dùng và đầu tư sẽ tác động đến nhu cầu vay mượn nước ngoài và cả tiến trình tăng
tưởng nợ. Nếu tiết kiệm không bù đắp được các khoản đầu tư thì phải vay nợ nước
ngoài, nhưng nếu đầu tư không hiệu quả sẽ dẫn tới khả năng trả nợ thấp và tiết kiệm
cũng kém, nếu không giải được bài toán về tăng hiệu quả đầu tư thì chúng ta sẽ xoay
vòng trong vòng luẩn quẩn đó.
2.3.3 Lãi suất

Lãi suất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nợ nước ngoài. Trong hầu hết các nghiên
cứu, biến lãi suất thường được sử dụng trong mô hình của họ vì lãi suất không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp tới nợ nước ngoài mà còn ảnh hưởng gián tiếp thông qua tiết kiệm trong
nước, đầu tư, chi tiêu… Lãi suất ảnh hưởng tới hành vi đầu tư và tiết kiệm trong nước.
Cần phân biệt lãi suất được sử dụng trong các nghiên cứu với lãi suất trung bình của các
khoản nợ nước ngoài. Lãi suất trong nước là kết quả của các chính sách mà ngân hàng
nhà nước đưa ra hoặc từ cung- cầu tiền tệ trên thị trường. Nếu lãi suất trong nước cao, chi
phí sử dụng vốn lớn, không khuyến khích đầu tư. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước nhỏ,
tiết kiệm giảm, dòng vốn chảy ra nước ngoài, điều này có thể dẫn tới khó khăn trong trả
nợ nước ngoài. Lãi suất trung bình trong vay nợ nước ngoài là yếu tố quyết định dịch vụ
nợ nước ngoài phải trả. Lãi suất vay nợ nước ngoài được biết như một biến ngoại sinh và
lãi suất này hầu như nằm ngoài tầm kiểm soát của các nước vay nợ.
2.3.4 Tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu
Sahabat và Butt (2008) đã nghiên cứu về các vấn đề hiện tại của nợ nước ngoài và tác
động của chính sách tự do hoá thương mại và gánh nặng nợ nước ngoài ở Pakistan, để
kiểm tra các mối quan hệ lâu dài, họ sử dụng phương pháp ARDS và phương pháp ECM
đối với các mối quan hệ trong ngắn hạn trong giai đoạn 1972-2007. Kết quả thực nghiệm
cho thấy rằng xuất khẩu có tác động tích cực tới nợ nước ngoài, nhập khẩu và tỷ giá có
ảnh hưởng tiêu cực tới nợ nước ngoài trong cả dài hạn và ngắn hạn.

12


Thực vậy, nguồn ngoại tệ chủ yếu để ta có thể trả nợ và các dịch vụ nợ nước ngoài,
chính vì vậy tăng trưởng xuất khẩu có tác động mạnh mẽ tới khả năng trả nợ của một
nước. Không chỉ có vậy, xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, giúp ta đầu tư vào
nền kinh tế, giảm tình trạng phải vay nợ nước ngoài. Nguồn ngoại tệ thu về từ xuất
khẩu và các khoản chuyển gia sẽ được dùng để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ từ nước
ngoài. Nhập khẩu làm giảm lượng ngoại tệ trong nước và ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ nước ngoài. Nếu tăng trưởng nhập khẩu lớn hơn tăng trưởng xuất khẩu, nợ nước

ngoài có khả năng tăng nhanh để bù đắp lượng ngoại tệ thiếu hụt.
2.3.5 Tỷ giá hối đoái
Đối với nợ nước ngoài, các khoản đi vay thường được tính bằng ngoại tệ. Đối với các
quốc gia vay nợ, thường các nước kém phát triển hay đang phát triển, có đồng tiền
yếu, vì thế tại thời điểm đi vay, mức giá của đồng nội tệ thường cao hơn tại thời điểm
trả nợ. Điều này gây nên một lãi suất thực cao hơn nhiều so với lãi suất danh nghĩa.
Việc đầu tư trong nước bằng nội tệ sau khi chuyển sang ngoại tệ để trả nợ vay có thể
làm cho suất sinh lợi giảm đi rất nhiều. Chính vì vậy tỷ giá hối đoái ảnh hưởng lớn
đến các khoản vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia. Nếu tỷ giá hối đoái tăng nhanh,
khoản nợ phải trả cũng tăng theo rất nhanh, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ
của quốc gia đó. Nhất là các khoản vay hỗ trợ, những nước cho vay thường cho vay
bằng đồng tiền nước họ, nhưng việc xuất nhập khẩu tại Việt Nam chủ yếu bằng đồng
tiền đôla Mỹ, rủi ro tỷ giá với nước cho vay cộng hưởng thêm rủi ro tỷ giá giữa đồng
đôla Mỹ và đồng tiền của nước cho vay làm cho nợ nước ngoài thường tăng vọt.
2.3.6 Lạm phát
Alexandros mandilaras (2001) đã có một bài nghiên cứu thực nghiệm ở các nước
OCED và cho rằng nợ công và lạm phát có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu chính phủ
sử dụng tiền đi vay, chắc chắn sẽ có lạm phát xảy ra. Đối với nợ nước ngoài cũng
tương tự, bơm ngoại tệ vào nền kinh tế có thể gây lạm phát.Lạm phát là vấn đề khó
khăn luôn gặp phải của các quốc gia đang phát triển. Mức lạm phát thường cao hơn
13


lạm phát ở các nước chủ nợ là các quốc gia đã phát triển. Theo thuyết ngang giá lãi
suất, lạm phát trong nước cao hơn so với lạm phát nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ
tăng lên để bù lại khoản chênh lệch đó, như vậy lạm phát cao là nguyên nhân mất giá
đồng nội tệ, vì vậy làm tăng số nợ thực tế của quốc gia.
2.3.7 Chính sách quản lý nợ
Theo nghiên cứu của Aart Kraay and Vikram Nehru (2003) “Chính sách quản lý nợ nước
ngoài là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự bền vững của nợ nước ngoài của một

quốc gia”. Chính sách quản lý nợ nước ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ tới tổng nợ nước ngoài
và khả năng trả nợ nước ngoài của một quốc gia. Một số bài học kinh nghiệm của các
nước trên thế giới đã từng xảy ra khủng hoảng nợ nước ngoài đều cho thấy rằng một
chính sách quản lý và sử dụng nợ nước ngoài không hiệu quả sẽ dễ dàng dẫn tới khủng
hoảng nợ, kể cả những nước đang phát triển cũng như nước phát triển.
2.4 Bài học kinh nghiệm của các nước về nợ nước ngoài
2.4.1 Philipine ( những năm 1970)
Vào cuối những năm 1970, lãi suất thế giới tăng cao và cơn sốc dầu mỏ lần thứ hai đã đẩy chi
phí vốn lên cao, các nước công nghiệp phát triển đều rơi vào tình trạng suy thoái nên nguồn
vốn từ bên ngoài ngày càng giảm, lãi suất cao hơn cả tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng
kinh tế, cộng thêm các khoản nợ cũ đến hạn trả làm cho nguồn vốn của Philippin chảy ra
ngoài ngày càng tăng. Thêm vào đó, các khoản đầu tư vào quốc phòng và các chiến dịch tranh
cử tăng làm cho ngân sách của Philippin thâm hụt nặng nề.
Chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng làm cho tích luỹ nợ của Philippin
ngày càng cao. Cơ cấu đầu tư không hợp lý, mặc dù có lợi thế là một nước nông
nghiệp nhưng Philippin lại theo đuổi chiến lược xuất khẩu đa dạng hoá, tập trung vào
lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp với ngành công nghiệp non trẻ được bảo hộ với
quy mô sản xuất lớn. Chính sự phân bố nguồn lực không dựa trên lợi thế so sánh này
không làm tăng nguốn thu ngoại tệ để trả nợ mà còn làm tăng các khoản nợ do việc
nhập khẩu tư liệu sản xuất từ nước ngoài.
14


Bên cạnh đó, sự yếu kém của hệ thống quản lý tài chính trong giai đoạn 19701985 trở thành căn nguyên của khủng hoảng thanh khoản và khả năng trả nợ. Những
chính sách tài chính tiền tệ và tỷ giá không thích hợp nên đã gây ra nhiều hệ quả
nghiêm trọng như tăng gánh nợ nước ngoài, thị trường tỷ giá biến động, lạm phát cao,
không kích thích xuất khẩu, tạo áp lực cho nguồn vốn chảy ra bên ngoài. Sự kết hợp
của những nguyên nhân trên đã khiến cho Philippin rơi vào tình trạng khủng hoảng
nợ nghiêm trọng, làm nền kinh tế đình trệ…
2.4.2


Mexico (1970- 1983)
Mexico là một nước phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập từ việc xuất khẩu dầu, chính

vì vậy Mexico rất nhạy cảm với các cú sốc dầu trên thế giới. Thâm hụt tài khoản vãng lai
và tài chính xảy ra liên tục trong những năm 1960- 1973. Sự giảm trong tăng trưởng
nông nghiệp tại khu vực nông thôn đã dẫn đến sự di dân và nghèo đói của những người
nông dân, tạo áp lực giảm mức lương thực tế và nhập khẩu lương thực. Cú sốc dầu đem
lại sự phục hồi tài chính và cán cân vãng lai cho nền kinh tế Mexico, trong khi đó nợ
nước ngoài vẫn tăng mạnh, sản xuất cho xuất khẩu không tăng , tăng trưởng kinh tế
không dựa trên tăng trưởng xuất khẩu mà dựa trên tăng nợ nước ngoài và tin cậy vào sự
cải thiện của các điều kiện thương mại. Những điều này dẫn tới nền kinh tế dễ bị tổn
thương bởi các cú sốc từ bên ngoài. Trong giai đoạn 1976-1982, Mexico trở thành nước
có lượng vốn thoát ra khỏi nền kinh tế nhều nhất trong khu vực Mỹ latinh. Với chính
sách tỷ giá hối đoái cố định, những cố gắng của chính phủ tài trợ thâm hụt bằng vay
mượn thông qua ngân hàng Trung Ương đã dẫn đến dư cung tiền nằm trong tay người
dân, do lo lắng rủi ro mất giá của đồng tiền , người dân chuyển đổi tiền này sang ngoại
tệ, kết quả dự trữ ngoại hối của ngân hàng Trung Ương giảm. Kết hợp với tình hình cán
cân thương mại liên tục thâm hụt, Mexico nhanh chóng rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ.
Bài học của Philippin và Mexico cho thấy việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả,
định hướng cơ cấu kinh tế sai lầm và đặc biệt là tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tài
nguyên thiên nhiên chứ không phải dựa vào năng suất và nội lực của nền kinh tế đã
khiến nên kinh tế phát triển kém bền vững và nguy cơ khủng hoảng nợ là rất cao.
15


2.4.3 Argentina (2001)
Cuộc khủng hoảng nợ toàn diện của Argentina từ cuối năm 2001 là một bài học điển hình
cho Việt Nam. Cũng giống như Việt Nam hiện tại, Argentina đã có những thành công
vượt bậc trong tăng trưởng kinh tế. Liên tục trong 10 năm của thập niên 1990, Argentina

thực hiện tái cấu trúc nên kinh tế, tư hữu hoá hàng loạt xí nghiệp quốc doanh, Argentina
đã đem bán hàng loạt các xí nghiệp của mình cho các ông chủ nước ngoài, việc này đã
đem lại cho Argentina một nguồn ngoại tệ lớn. Nguồn thu này đã giúp chính phủ
Argentina ổn định giá trị đồng nội tệ, nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, chính vì vậy,
cac dòng vốn quốc tế ồ ạt vào Argentina. Chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang
lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài tăng
dần lên, từ 35% trong năm 1995 tăng lên đến gần 65% năm 2001. Khoản nợ này dẫn đến
hậu quả là chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách,
chính phủ này lại tiếp tục bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ và các
khoản vay nợ nước ngoài khác. Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải
những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các xí nghiệp quốc
doanh trong thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác
ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ
liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước đây. Thêm vào đó, hệ thống
chính trị liên quan đến một chính phủ tham nhũng, lãng phí, sự phân chia quyền lực giữa
các địa phương trong việc điều tiết các nguồn thu thuế đã làm thị trường mất niềm tin về
khả năng trả nợ của quốc gia đối với những trái phiếu phát hành trước đây. Năm 2001,
Moody's và S&P đã hạ thấp điểm xếp hạng tín nhiệm quốc gia, các chỉ số niềm tin liên
tục sút giảm như một tín hiệu phản ứng trước sự tham nhũng của hệ thống chính phủ và
bộ máy quản lý yếu kém đã không thể đưa ra giải pháp khả thi để giúp đất nước thoát
khỏi tình trạng nợ nần nghiêm trọng. Ngay sau đó, IMF tiếp tục ngưng các khoản hỗ trợ
cho Argentina và nước ngày lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ.
Cuộc khủng hoảng nợ của Argentina chính là bài học về sự ảo tưởng quá mức về
những thành công trong tăng trưởng mà quên đi những vấn đề nội bộ, đó là tình trạng
tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt và thất thoát, bộ máy hành thu thuế yếu kém, vay nợ nước
16


ngoài thiếu tính toán. Nhưng trên tất cả, nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng này là
quốc gia thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản nợ vay nước ngoài và sự chậm trễ của

chính phủ trong việc có thể lường trước được cuộc khủng hoảng và cứu vãn tình hình.
Qua bài học của Argentina, Việt Nam nên cẩn trọng trước những chỉ số kinh tế mà
ta luôn tự hào trong thời gian qua, giống như Argentina giai đoạn sau khi tư hữu hoá
hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước thì tốc độ tăng trưởng tăng lên nhanh chóng, các
dòng vốn lớn đổ vào Việt Nam. Mặt khác chính phủ chúng ta cũng rất lạc quan với
con số nợ khoảng 39% như hiện nay vì còn lâu mới chạm vào ngưỡng an toàn. Số tiền
chính phủ vay hiện nay với lãi suất cao khoảng 6-7% một năm chủ yếu đầu tư vào
một số tập đoàn nhà nước, tuy nhiên không phải tập đoàn nhà nước nào cũng làm ăn
hiệu quả, trong trường hợp các doanh nghiệp này làm ăn không hiệu quả thì Chính
phủ lại đứng ra trả nợ và gánh nợ này lại đổ lên đầu người dân. Việc hệ thống quản lý
nhà nước thiếu minh bạch, tham nhũng, lãng phí cũng là vấn đề của Việt Nam dễ đi
vào vết xe đổ của Argentina.

17


Chương 3

KHUNG PHÂN TÍCH
Chương 3 của đề tài trình bày về mô hình Jame De Pines, mô hình được sử dụng để tìm
các kịch bản nợ nước ngoài của Việt Nam, đồng thời sẽ mô tả các biến và các tham số sử
dụng trong mô hình bao gồm tỷ số nợ nước ngoài trên xuất khẩu, tỷ lệ lãi suất trên tăng
trưởng xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu trên tăng trưởng nhập khẩu và thời gian t.
3.1

Mô hình Jame De Pines

Mô hình Jame De Pines cho phép tính toán động và mô phỏng nợ có bền vững hay
khôpng. Mô hình cho thấy sự liên hệ giữa nợ, tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng nhập
khẩu và lãi suất. Mô hình bắt đầu đồng nhất thức giữa hai giai đoạn:

Dt= Dt-1 + CA
(1)
Trong đó, D là nợ ở năm t; D là nợ ở năm trước đó (t-1); CA là tài khoản vãng lai ở năm t.
Thêm và bớt khoản dịch vụ nợ với i là lãi suất vào phương trình (1) và biến đổi như sau:
Dt = Dt-1 + it-1.Dt-1 + CAt – it-1.Dt-1 = (1+it)Dt-1 + CAt – it-1.Dt-1
Dt = (1+ it) Dt-1 +Mt – Xt.
(2)
Trong đó, Mt và Xt là nhập khẩu và xuất khẩu.
Chia hai vế phương trình (2) cho Xt = (1+gxt) Xt-1. Trong đó gxt là tăng trưởng của xuất
khẩu

Trong đó, gmt là mức tăng trưởng nhập khẩu năm t.
Đặt
dt = Dt/Xt ( tỷ lệ nợ trên xuất khẩu),
( tỷ lệ lãi xuất trên tăng trưởng xuất khẩu),

18


( tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu),

( tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên xuất khẩu).

Phương trình (3) có thể viết lại như sau:
dt = a.dt-1 + b.vt-1 -1

(4)

Theo định nghĩa:


(5)
Giả sử a và b là các hằng số dương, phương trình (4) và (5) tạo thành hệ thống các
phương trình sai phân, có thể giải được như sau:
vt= b.vt-1 = b( b.vt-2) = b[ b( b.vt-3)] = … = bs. vt-s.
Nếu s = t, thì vt = bt .v0 ( v0 là tỷ lệ giữa nhập khẩu trên xuất khẩu ở năm đầu tiên).
Phương trình số (4) có thể viết lại như sau:
dt = a.dt-1 + b.vt-1 – 1 = a( a.dt-2 + b.vt-2 – 1) + b( b. vt-2) – 1
= as. dt-s +as-1 (b.vt-s – 1) + … + a( bs-1.vt-s – 1) + bs.vt-s – 1.
Nếu t = s thì

Đặt:

19




Do S1 và S2 là các chuỗi hội tụ nên có được:

Thay S1 và S2 vào phương trình (6) ta có:

Phương trình (7) chỉ ra rằng tỷ lệ nợ trên xuất khẩu (d t) được xác định: Hai tham số tỷ
lệ lãi suất trên mức tăng trưởng xuất khẩu (a) và tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên tăng
trưởng xuất khẩu (b); hai biến được xác định ban đầu là d 0 và v0 và thời gian t. Mô hình
cho thấy tiến triển của tỷ lệ nợ trên xuất khẩu theo thời gian t. Nếu tỷ lệ này tăng mạnh,
thì quốc gia đó có cán cân thanh toán thâm hụt, khó trả nợ và có nguy cơ khủng hoảng nợ.
Đây chính là mô hình dùng để khảo sát tính bền vững của nợ nước ngoài. Mô hình này
cho thấy nếu tỷ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng tăng, cán cân thanh toán bị thâm hụt, nợ
sẽ không bền vững; ngược lại, nếu tỷ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng giảm, nợ nước
ngoài sẽ bền vững.


3.2

Định nghĩa biến và dữ liệu
20


3.2.1 Tỷ số nợ trên xuất khẩu (dt)
Tỷ số nợ trên xuất khẩu được xác định bằng tổng nợ nước ngoài của một quốc gia chia
cho tổng xuất khẩu và khoản chuyển giao của quốc gia đó trong một năm.

Đây là yếu tố quan trọng quyết định tính bền vững của nợ nước ngoài ở một quốc gia.
Theo chỉ tiêu giới hạn an toàn của nợ nước ngoài của World bank và của Việt Nam, nếu
nợ nước ngoài trên xuất khẩu lớn hơn 150%, nợ nước ngoài là không bền vững, rất dễ dẫn
tới khủng hoảng nợ. Với số liệu lấy từ World Bank, đề tài sẽ sử dụng dữ liệu này để so
sánh với các kịch bản tỷ số nợ trên xuất khẩu tìm thấy được thông qua mô hình Jame De
Pines để từ đó tìm ra được kịch bản giống với tình hình nợ của Việt Nam nhất.
3.2.2 Tỷ số nợ nước ngoài trên xuất khẩu năm cơ sở (d 0) và tỷ lệ nhập khẩu trên
xuất khẩu năm cơ sở (v0)
Năm cơ sở được chọn trong bài là năm 2000, năm này Việt Nam đã chuyển đổi kinh tế
được một thời gian khá dài, nền kinh tế không còn biến động nhiều. Việc chọn năm 2000
là năm cơ sở là rất quan trọng vì đối với mô hình Jame De Pines, d 0 và v0 được sử dụng
làm cơ sở tìm ra các kịch bản nợ của các năm tiếp đó.
3.2.3 Tham số tỷ lệ lãi suất trên mức tăng trưởng xuất khẩu (a)

Nếu lãi suất nhỏ hơn tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ lãi suất trên mức tăng trưởng xuất khẩu
nhỏ hơn 1, giá trị dt sẽ nhỏ, khả năng nợ nước ngoài là bền vững sẽ cao, nhưng nếu lãi
suất lớn hơn tăng trưởng xuất khẩu, giá trị dt sẽ lớn và nợ nước ngoài có thể kém bền
vững. Hiện nay, nợ nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu là ODA hoặc đi vay từ các tổ chức đa
phương, lãi suất tương đối nhỏ. Mặt khác, Việt Nam là nước đang trên đà công nghiệp

21


hoá, hiện đại hoá, giá trị xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng, khả năng tăng trưởng xuất
khẩu nhỏ hơn lãi suất cho vay là rất ít. Tuy nhiên, vào năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản lượng xuất khẩu của Việt Nam giảm, tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu âm, lãi suất vay nợ không hề giảm, làm cho lãi suất lớn hơn tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu. Giá trị của tham số a được tính bằng công thức:

Đề tài sử dụng phương pháp lấy giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất của lãi suất trung bình,
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu trung bình với mức ý nghĩa là 5% để giảm bớt
những yếu tố gây nhiễu của mô hình.
3.2.4 Tham số tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu trên tăng trưởng nhập khẩu (b)

Tham số b thể hiện mức độ thâm hụt hay thặng dư của cán cân thương mại. Do nợ nước
ngoài phải dùng ngoại tệ để trả, tham số b cũng thể hiện dòng ngoại tệ ra và dòng ngoại tệ
vào trong nước. Nếu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu,
tức nguồn ngoại tệ vào trong nước tăng nhanh hơn so với nguồn ngoại tệ chảy ra ngoài
cho nhập khẩu, như vậy khả năng trả nợ nước ngoài sẽ cao. Tuy nhiên, Việt Nam là nước
nhập siêu liên tục, nếu như tốc độ nhập khẩu lớn hơn tốc độ tăng xuất khẩu, Việt Nam sẽ
càng phải vay nợ nước ngoài nhiều hơn để bù đắp nguồn ngoại tệ bị thiếu hụt, khả năng
nợ kém bền vững rất dễ xảy ra. Tham số b được xác định bằng công thức:

3.2.5 Biến thời gian (t)
22


Biến thời gian t được đặt bằng không ở năm cơ sở, tức năm 2000. Đây là năm mà kinh
tế Việt Nam bắt đầu đi vào ổn định, nhưng năm trước đó nền kinh tế có rất nhiều biến
động như năm 1993, sau một thời gian chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp

sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam tiếp nhận viện trợ từ bên ngoài. Nền kinh tế có
những biến động rất mạnh như lạm phát liên tục giảm mạnh, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh. Năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế
Việt Nam, làm gián đoạn các dòng vốn đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng bị chậm
lại. Đến năm 2000, khi nền kinh tế khu vực phục hồi, kinh tế Việt Nam bắt đầu đi vào
ổn định. Đó là lý so đề tài chọn năm 2000 làm năm cơ sở để tính toán các kịch bản nợ
nước ngoài cho các năm tiếp theo.

23


Chương 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM
4.1

Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam

Mặc dù theo đánh giá của World Bank và Bộ Tài Chính nợ nước ngoài của Việt Nam hiện
nay được đánh giá ổn định, gánh nặng về nợ và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài chưa ở
ngưỡng nguy hiểm, tình trạng nợ vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát, số dư nợ vay thêm
hàng năm của Việt Nam không tăng mạnh nhưng đó là do các chủ nợ xoá và giảm nợ
chứa không phải ta sử dụng nguồn lực của mình để trả nợ. Thêm vào đó tốc độ tăng
trưởng kinh tê không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nợ. Nếu tình trạng sử dụng
vốn vay không hiệu quả như hiện nay thì khả năng khủng hoảng nợ của Việt Nam là rất
lớn. Vấn đề thâm hụt ngân sách và mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, tăng trưởng xuất
khẩu, tỷ giá hối đoái, lãi suất, lạm phát… ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nợ nước
ngoài, nếu chúng ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ thì ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh
tế vĩ mô và sự chảy ngược ra ngoài của các dòng vốn.
Theo Bản tin nợ số 6 của Bộ tài chính ra 12/2010, mức nợ nước ngoài của Việt

Nam tính đến tháng 12 năm 2009 là 39% GDP, nợ nước ngoài của chính phủ là 29.3%.
Trong cơ cấu nợ chính phủ, nợ chính thức từ các nước và các tổ chức quốc tế chiếm tỷ lệ
lớn, trong năm 2009 là 86%, đây là các khoản nợ có lãi suất ưu đãi cố định, thời hạn trả
nợ thường trên 10 năm, trong khi đó, phần nợ vay tư nhân chịu lãi suất trên 6% chỉ chiếm
14%. Đây là một thuận lợi đối với Việt Nam.

24


Chỉ tiêu
Tổng nợ nước
ngoài

2005

2006

2007

2008

2009

16456.75 18394.28 22188.28 25901.66 37174.72

Nợ nước ngoài
không được chính

2248.748 2753.285


2935.68

4085.161

9246.02

phủ bảo lãnh
Nợ nước ngoài
của chính phủ và
được chính phủ

14208

15641

19252.6

21816.5

27928.7

32.2%

31.4%

32.5%

29.8%

39.0%


27.8%

26.7%

28.2%

25.1%

29.3%

698

764

886

1104

1291

4.10%

3.70%

3.60%

3.50%

5.10%


4075%

6380%

10177%

2808%

290%

bảo lãnh
Tổng nợ nước
ngoài/GDP (%)
Tổng nợ nước
ngoài
được chính phủ
bảo lãnh/GDP (%)
Nợ phải trả
hàng năm
Nghĩa vụ trả nợ CP
so với thu NSNN
Dự trữ ngoại hối
so với nợ ngắn hạn

Đơn vị: Triệu USD, Nguồn: Bản tin nợ số 6, Bộ tài chính, Hà Nội 12/2010.

25



×