Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

NGHIÊN CỨU Ý CHÍ TRẺ 5 6 TUỔI THÔNG QUA TRÒ CHƠI HỌC TẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.84 KB, 148 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm Hà nội
---------

NGUYN TH MINH TRANG

NGHIấN CU í CH TR 5-6 TUI THễNG QUA
TRề CHI HC TP
Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục mầm non)
Mã số: 60.14.01

GV hng dn: TS. Nguyn Th Nh Mai

1


Năm 2010
PHẦN: MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đang sống ở thế kỉ 21, thế kỉ của sự bùng nổ thông tin và khoa
học kĩ thuật công nghệ, là thời kì của nền văn minh phát triển trên toàn thế giới.
Để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”, phải có bản lĩnh, có ý chí kiên
cường, vượt lên mọi khó khăn, thử thách. Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người phải
đạt được những mục tiêu nhất định. Để thực hiện mục tiêu con người phải có ý chí
vượt qua mọi khó khăn.
Ý chí là thuộc tính tâm lí của nhân cách, là mặt năng động của ý thức, biểu
hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực
khắc phục khó khăn. Nó không được sinh ra mà được hình thành trong hoạt động
sống của cá nhân. Việc hình thành nhân cách nói chung và ý chí nói riêng được
diễn ra ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Thông qua những con đường khác
nhau, giáo dục đóng một vai trò quan trọng góp phần hình thành ý chí của trẻ.


Ở tuổi mẫu giáo, ý chí xuất hiện như là sự điều chỉnh có ý thức đối với
hành vi của trẻ trong hoạt động. Sự phát triển ý chí của trẻ có liên quan mật thiết
với sự biến đổi của các động cơ hành vi. Chính sự xuất hiện một động cơ nổi bật
trong hệ thống thứ bậc các động cơ đã được hình thành có vai trò giúp trẻ vượt
qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra.
Hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi. Thông qua vui chơi trẻ
khám phá, nhận thức thế giới và phát triển các khả năng của bản thân. Trò chơi
học tập là loại trò chơi có luật. Khi tham gia vào trò chơi học tập, trẻ gián tiếp giải
quyết các nhiệm vụ nhận thức nhằm củng cố, chính xác hóa các biểu tượng, các tri
thức, phát triển ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng và hình thành biểu tượng mới.
Trò chơi học tập không những giúp cho trẻ phát triển trí tuệ mà còn góp
phần phát triển ý chí. Để chơi có kết quả trẻ phải đặt ra mục đích trong hành
động chơi, có tính kiên trì bền bỉ trong quá trình chơi, có tính độc lập, quyết
2


đoán, dũng cảm và tự kiềm chế bản thân khi thực hiện nhiệm vụ chơi để đạt
được kết quả. Chính vì vậy TCHT có một vị trí quan trọng đối với việc giáo dục,
phát triển nhân cách toàn diện nói chung và ý chí của trẻ nói riêng.
Như vậy, việc tìm hiểu những biểu hiện ý chí của trẻ thông qua trò
chơi học tập là việc làm cần thiết góp phần hiểu trẻ hơn, làm cơ sở cho việc
nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục trẻ. Thực tế ở các trường Mầm non
giáo viên chưa chú ý nhiều đến những biểu hiện ý chí của trẻ nói chung và
biểu hiện thông qua trò chơi học tập nói riêng. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài:
“Nghiên cứu ý chí của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi học tập” nhằm làm
rõ vấn đề này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi
học tập. Trên cơ sở đó đề ra những tác động sư phạm cần thiết nhằm phát triển ý
chí cho trẻ.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5 – 6 tuổi trong trò chơi học tập.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- 120 trẻ 5 – 6 tuổi của hai trường mẫu giáo Thới Hưng và mầm non Sao
Mai thành phố Cần Thơ.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Để định hướng cho nghiên cứu đề tài, chúng tôi đưa ra những giả thuyết
khoa học như sau:
- Mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5-6 tuổi là khác biệt nhau, những trẻ có
mức độ biểu hiện ý chí thấp nếu được phát hiện và có những tác động sư phạm
phù hợp có thể giúp cho ý chí của trẻ phát triển tốt hơn.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này chúng tôi đưa ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
3


- Nghiên cứu mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5 – 6 tuổi trong trò chơi học
tập ở trường mầm non.
- Đề xuất và thực nghiệm một số tác động sư phạm nhằm phát triển ý chí
cho trẻ.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI
Nghiên cứu mức độ biểu hiện ý chí của trẻ có nhiều nội dung, trong đề tài
này chúng tôi chỉ nghiên cứu thông qua trò chơi học tập làm quen với toán, làm
quen chữ viết và tìm hiểu môi trường xung quanh ở trường mẫu giáo Thới Hưng
và mầm non Sao Mai của thành phố Cần Thơ.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Tìm hiểu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên. Cụ thể: Sưu
tầm tài liệu, đọc, phân tích hệ thống các tài liệu, các vấn đề lí luận về ý chí của
trẻ 5-6 tuổi.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát trẻ trong các trò chơi học tập làm quen với toán, làm quen chữ
viết và tìm hiểu môi trường xung quanh của trẻ nhằm phát hiện mức độ biểu hiện
ý chí của trẻ. Đồng thời quan sát quá trình trẻ chơi nhằm xác định mức độ biểu
hiện ý chí của trẻ trong trò chơi khi có tác động hình thành.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại (trò chuyện, phỏng vấn)
Trò chuyện, trao đổi với trẻ, giáo viên, phụ huynh nhằm tìm hiểu mức độ
biểu hiện ý chí của trẻ.

4


7.2.3. Phương pháp điều tra viết (Anket)
Sử dụng phiếu điều tra đối với phụ huynh, giáo viên để tìm hiểu mức độ
biểu hiện ý chí của trẻ 5-6 tuổi.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm là chủ yếu.
7.2.3.1. Thực nghiệm phát hiện
Nhằm xác định thực trạng mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5-6 tuổi.
7.2.3.2. Thực nghiệm tác động
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về mức độ biểu hiện ý chí của
trẻ 5-6 tuổi, người nghiên cứu thử nghiệm một số tác động sư phạm nhằm phát
triển ý chí của trẻ 5-6 tuổi.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
Sau khi tiến hành thực nghiệm với trẻ chúng tôi sử dụng phần mềm thống

kê SPPP 16.0 để xử lí số liệu và kiểm định kết quả nghiên cứu.
Trong các phương pháp trên thì thực nghiệm là phương pháp chính.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Cung cấp số liệu thực trạng mức độ biểu hiện ý chí của trẻ 5-6 tuổi thông
qua trò chơi học tập.
Đề xuất và thử nghiệm một số tác động nhằm phát triển ý chí cho trẻ
5-6 tuổi.

5


PHẦN: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Ý chí là một trong những phẩm chất nhân cách quan trọng của con người.
Đối với trẻ ý chí giúp trẻ xác định mục đích của hành động, kiên trì, mạnh dạn tự
tin tham gia mọi hoạt động. Khi xác định đúng mục đích và có nguyện vọng đạt
được mục đích đề ra, trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phát triển ý chí có vai trò quan
trọng trong sự phát triển các chức năng tâm lí khác như tư duy, tình cảm làm cơ
sở cho sự phát triển nhân cách trẻ.
Vấn đề này đã được các nhà khoa học trên thế giới cũng như Việt Nam
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, có thể khái quát như sau:
1.1. 1. Nghiên cứu về ý chí
1.1.1.1 Ở nước ngoài
Những trường phái đầu tiên nghiên cứu về ý chí xuất phát từ nhận thức
theo quan điểm triết học duy tâm. Một số đại biểu cho rằng nguyên nhân kích
thích những hành vi ý chí là những hứng thú trí tuệ, một số khác cho rằng ý chí
của con người đẩy đến hành động là do các kích thích xúc cảm.
- Nổi bật là thuyết duy lí trí của Mâyman, ông cho rằng ý chí của con

người có nguồn gốc từ biểu tượng. Ngược lại Ribô đã xây dựng thuyết cảm xúc
của ý chí, theo ông cơ sở hoạt động ý chí là khát vọng, khát vọng có được từ cảm
xúc, ông cho rằng ý chí là hiện tượng thứ hai thuộc bậc thứ hai và được tạo nên
trên cơ sở của các quá trình ý thức khác đó là cảm giác. Theo thuyết của ông thì
việc giáo dục ý chí của trẻ phải gắn liền với giáo dục cảm xúc.
- Những người bảo vệ cho thyết duy ý chí có Vuntơ, Đjemxơ đứng trên
quan điểm ngược lại và họ khẳng định tính tự tồn tại và không phụ thuộc ngay từ
đầu của ý chí vào cảm giác và biểu tượng. Theo thuyết này thì đối với việc giáo

6


dục ý chí của trẻ chỉ cần làm xuất hiện ở trẻ trạng thái ý thức bền vững dưới một
dạng nào đó của tư tưởng vận động là đủ.
- Trong tác phẩm “Tâm lí học trẻ em” nhà tâm lí học Nga
A.A.Lianblinxkaia bà đã đề cập đến sự hình thành tính độc lập của trẻ mẫu giáo.
Trong quá trình đó bà đưa ra 3 giai đoạn phát triển tính tự lập. Các hoạt động của
trẻ luôn thể hiện tính tò mò, khám phá, để khẳng định khả năng của bản thân, trẻ
đặt ra những câu hỏi: “Liệu mình có làm được không”, như vậy đã hình thành ở
trẻ những biểu hiện của ý chí.
- P.A.Ruđich cho rằng hành vi ý chí là hành vi mà trong đó con người có
ý thức cố gắng đạt những mục đích. Muốn giáo dục ý chí cho trẻ phải giúp trẻ
xác định đúng mục đích và điều khiển hành động đạt mục đích.
- Pierre Daco nghiên cứu về tâm lí học hiện đại nói chung và ý chí nói
riêng ông cho rằng: nếu ý chí đòi hỏi sự cố gắng hết sức thì không phải là một ý
chí thực sự cao cả mà ý chí cao cả là một hành vi phù hợp với lý trí có ý thức và
sự hài hoà, phải được căn cứ trên sự cân bằng và sức mạnh. Như vậy giáo dục ý
chí cho trẻ phải bắt đầu từ những hành vi có ý thức và sự mạnh dạn tự tin vào
khả năng của bản thân.
- Theo C.L.Rubinstêin nghiên cứu về hành vi ý chí. Ông cho rằng hành vi

ý chí đầu tiên đó là hành động có mục đích, có trí tuệ và nhờ nó mà giải quyết
được nhiệm vụ đã định. Để phát triển ý chí ở trẻ, cần có sự giáo dục những hành
vi đúng đắn cho trẻ ngay từ khi còn bé. Sự giáo dục này có sự lâu dài, bền bỉ
theo từng giai đoạn phát triển lứa tuổi.
- K.Binlepra xem ý chí như là một năng lực tinh thần của bản chất người,
nó được sinh ra ở đứa trẻ và sự phát triển của nó còn phụ thuộc vào điều kiện
sống của mỗi con người. Vì vậy theo ông để ý chí của đứa trẻ phát triển tốt cần
phải có môi trường sống và giáo dục tốt.
- Nhà tâm lí học L.X.Vưgôtki nghiên cứu về nội dung lẫn cơ cấu, cấu trúc,
nguồn gốc phát triển ý chí của trẻ nằm trong mối liên hệ qua lại giữa đứa trẻ với
môi trường sống xung quanh trong đó vai trò quan trọng nhất là sự giao tiếp của
7


trẻ với người lớn. Do đó để ý chí của đứa trẻ phát triển tốt hơn, người lớn cần tạo
môi trường thuận lợi cho trẻ được hành động và thường xuyên quan tâm, trò
chuyện, lắng nghe trẻ, hướng trẻ đến sự phát triển tích cực hơn.
- A.V.Zaporojet đưa ra đặc điểm phát triển của hành động ý chí, nó được
nảy sinh trong quá trình con người khắc phục mọi trở ngại khó khăn bên trong và
bên ngoài. Theo ông việc giáo dục và phát triển hành động ý chí của trẻ, cần
giúp trẻ biết tự khắc phục mọi khó khăn. Đứa trẻ phát triển ý chí tốt thì việc thực
hiện các hành động ý chí không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh nữa. Khi phát triển
hành động ý của trẻ không xa rời việc giáo dục đạo đức và trí tuệ.
Bà V.X.Mukhina nghiên cứu sâu về sự phát triển ý chí của trẻ, theo bà ý
chí có liên quan mật thiết với sự biến đổi các động cơ hành vi của trẻ. Động cơ
hành vi của trẻ được phát triển và thay đổi theo từng lứa tuổi. Trẻ có nhiều động
cơ hành vi tốt sẽ giúp cho ý chí phát triển tốt.
Tóm lại từ những nghiên cứu trên của các nhà tâm lí học có thể khái quát
thành các hướng nghiên cứu cơ bản sau:
- Thứ nhất là nghiên cứu tìm ra hạt nhân của ý chí con người và việc giáo

dục ý chí cho trẻ, gồm các nhà nghiên cứu như: Mâyman, Ribô, Vuntơ và
Đjemxơ, A.A.Lianblinxkaia.
- Thứ hai là nghiên cứu nguồn gốc hình thành ý chí của con người và của
trẻ, gồm các nhà nghiên cứu như: P.A.Ruđích, Pierre Daco, C.L.Rubinstêin,
K.Binlepra và L.X.Vưgôtki.
- Thứ ba là nghiên cứu đặc điểm phát triển hành động ý chí và sự biến đổi
động cơ hành vi ý chí của trẻ mẫu giáo, có A.V.Zaporojet và bà V.X.Mukhina.
Như vậy các nhà tâm lí học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề
có liên quan đến ý chí và có những đóng góp không nhỏ trong lĩnh vực này.
Vấn đề trò chơi, đối với trò chơi học tập, một số nhà giáo dục xô viết như
N.K Crupxkaia, A.X. Macarenco, E.I. Chikhieva, Ph.X. Levin, Đ.V.
Menđzeriskaia, A.K. Bônđarencô, L.V. Archemova [54], [69], [70], [75] …. Đã
bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu về trò chơi học tập của trẻ mẫu giáo. Họ chỉ
8


ra vai trò của trò chơi học tập trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Theo nhà sư phạm nổi tiếng N.K Crupxkaia thì: “Trò chơi học tập không những
là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi tìm chân lí mà còn
giúp trẻ xích lại gần nhau, giáo dục cho trẻ tình yêu thương, lòng tự hào dân tộc.
Trẻ em không chỉ học trong lúc học mà còn học cả trong lúc chơi. Chơi với trẻ
vừa là học, vừa là lao động, vừa là hình thức giáo dục nghiêm túc” [69;106].
Trong tác phẩm “Những trò chơi có luật trong trường mẫu giáo” các nhà
giáo dục học Xô Viết A.L.Xôrôkina và E.G.Baturina cho rằng trò chơi học tập
thực hiện chức năng của hoạt động thực hành, nó tạo điều kiện cần thiết để ứng
dụng và kết hợp các kiến thức thúc đẩy hoạt động trí tuệ và rèn luyện ở trẻ tính
kiên trì, độc lập tuân thủ theo luật qui định của trò chơi. Theo quan điểm này thì
nhà giáo dục cần phải tạo điều kiện cho trẻ có được cơ hội thực hiện nhiều trò
chơi học tập phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ và biểu hiện của ý chí.
Một số tác giả E.N.Vođovôdôva, L.K.Sleger… dùng trò chơi học tập để

trẻ làm quen với thiên nhiên, với lao động và sinh hoạt hàng ngày của dân tộc
Nga. Khi tổ chức cho trẻ chơi, họ đã chú ý đến việc kích thích tính độc lập, tự trẻ
biết giải quyết các hành động chơi một cách tính cực sáng tạo.
A.P.Uxôva cho rằng trò chơi học tập được sử dụng để dạy ngôn ngữ, dạy
tính, dạy các em làm quen với kích thước, màu sắc, hình dáng … những trò chơi
này cũng phát triển sự vận động, sự nhanh trí, phát triển ý chí, tư duy và ngôn
ngữ… của trẻ em [38;77].
Theo bà E.I.Chikhiepva trò chơi học tập có ảnh hưởng sâu sắc tới trẻ, giúp
cho trẻ phát triển mọi mặt về trí tuệ và ý chí song song với nhau. “Những trò
chơi này đẩy mạnh sự phát triển tất cả mọi mặt cá nhân của trẻ. Trò chơi đã tổ
chức trẻ lại với nhau nâng cao tính tự lập của trẻ”. Vì vậy đối với trẻ mẫu giáo
việc giáo dục ý chí có thể thông qua trò chơi học tập, nhà giáo dục cần tổ chức
nhiều trò chơi học tập cho trẻ được tham gia chơi tích cực nhằm phát triển trí tuệ
và ý trí của trẻ.

9


Tóm lại, đa số các công trình nghiên cứu về trò chơi học tập trên thế giới
tập trung vào việc nghiên cứu lí luận sử dụng trò chơi học tập trong dạy học và
giáo dục cho trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở đó các nhà sư phạm tìm kiếm, lựa chọn
nội dung và phương pháp, biện pháp phù hợp tổ chức cho trẻ chơi nhằm phát
triển trí tuệ và ý chí của trẻ, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
1.1.1.2. Ở trong nước
Kế thừa và tiếp thu những quan điểm của các nhà nghiên cứu nước ngoài,
ở Việt Nam có nhiều nhà nghiên cứu về tâm lí học nói chung và ý chí nói riêng.
Theo PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết trong “Tâm lí học lứa tuổi” bất cứ hoạt
động nào của con người cũng có nhiều loại hành động có ý chí giữ vai trò chủ
đạo. Hành động có ý chí là loại hành động có các thông số: Có ý thức, có đặt
mục đích, có sự kiểm tra của ý thức (tự giác) thường trực trong suốt quá trình

diễn biến, có sự đấu tranh tư tưởng (hay đấu tranh động cơ) khi bắt đầu và nỗ lực
của bản thân lúc thực hiện, theo bà ý chí là khả năng khắc phục khó khăn của
con người để hành động nhằm đạt mục đích đã đề ra. Các hành động ý chí là
những hành động có ý thức phức tạp mà cấu trúc tâm lí của chúng bao gồm sự
kích thích hoạt động, từ các biểu tượng có mục đích, phương thức, ý định, quyết
định, nổ lực ý chí, thực hiện hoạt động.
Theo bà trẻ tuổi mầm non đã xuất hiện ý chí như là sự điều khiển có ý
thức đối với hành vi, những hành động bên trong và bên ngoài của mình. Trong
quá trình giáo dục, do ảnh hưởng những yêu cầu của người lớn và các bạn cùng
tuổi ở trẻ bắt đầu hình thành khả năng bắt những hành động của mình phục tùng
một nhiệm vụ nào đó, khắc phục mọi khó khăn để đạt tới mục đích đề ra. Với
quan điểm này người lớn cần quan tâm giáo dục cho trẻ nhận biết được mục đích
của hành động.
Ở Việt nam, ngành học mầm non còn rất trẻ so với thế giới nhưng đã có
những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu vấn đề hình thành và phát triển
ý chí của trẻ mẫu giáo. Kết quả nghiên cứu của: PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết,

10


Nguyễn Thị Như Mai, Đinh Kim Thoa…. Các tác giả chỉ ra rằng sự hình thành
và phát triển ý chí của trẻ là điều kiện giúp trẻ học tốt ở trường phổ thông.
Trong “Tâm lí học” của Viện nghiên cứu khoa học giáo dục – nhà xuất
bản giáo dục Hà nội năm 1972 có đề cập đến vấn đề ý chí và phát triển ý chí cho
trẻ trước tuổi học. Họ cho rằng, trẻ ở tuổi mẫu giáo hành động ý chí phát triển
mạnh, những động cơ xã hội lúc đầu còn thô sơ và yếu ớt, song có tác dụng
trong sự phát triển ý chí. Ý chí của trẻ được hình thành và phát triển trong các
hoạt động học tập, vui chơi, trong các điều kiện sống và giáo dục. Để rèn luyện
và phát triển ý chí của trẻ, theo các tác giả cần phải tổ chức và cho trẻ được tham
gia vào các trò chơi chơi tập thể, trò chơi phân vai, trò chơi có qui tắc.

Các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thuỷ, Kiều Huy
Tưởng, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Quang Uẩn, Đinh Văn Vang, Nguyễn Văn
Luỹ, Nguyễn Xuân Thức khi nghiên cứu về tâm lí nói chung và ý chí nói riêng,
họ đã khái quát hành động ý chí được thúc đẩy bởi động cơ của hoạt động, ý chí
là mặt năng động của ý thức con người được thực hiện bởi những hành động có
mục đích, đòi hỏi phải có sự nổ lực khắc phục khó khăn. Ngoài ra, ý chí còn
quan hệ mật thiết với các chức năng tâm lí khác.
Hà Văn Thầm – Học viện Chính trị quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Trong tạp
chí “Nghiên cứu giáo dục - 1995” bài viết: “Hồ Chí Minh coi trọng giáo dục ý
chí học tập để bước tới “sánh vai với các cường quốc năm châu”, nhân kỉ niệm
105 năm ngày sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Trong bài viết nêu rõ quan điểm
của Hồ Chí Minh cho rằng: nhờ vào ý chí mà con người có thể “đào núi và lấp
biển” thế hệ trẻ muốn vươn lên phải có ý chí cao, nhờ có ý chí cao sẽ làm được
nhiều việc và tạo ra sự thuận lợi cho việc học tập. Hồ Chí Minh luôn mong muốn
ở thế hệ trẻ phải có ý chí cao và nhất là phải có ý chí học tập, chỉ có học tập thật
giỏi mới đưa đất nước Việt Nam đến đài vinh quang sánh vai với các cường
quốc năm châu.
Tác giả Nguyễn Thị Thìn trong luận văn Thạc sĩ nghiên cứu “Sự phát
triển một số phẩm chất ý chí của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Hà
11


nội” qua nghiên cứu thực tế đã cho rằng sự phát triển một số phẩm chất ý chí của
trẻ được bộc lộ trong các trò chơi có các hoạt động tình huống, tuỳ theo các trò
chơi khác nhau mà trẻ bộc lộ các phẩm chất ý chí khác nhau.
Như vậy, trên thế giới đã có nhiều nhà tâm lí học nghiên cứu vấn đề ý chí
và ở Việt nam có một số công trình nghiên cứu về ý chí và sự phát triển ý chí của
trẻ. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn. Nó có tác dụng
định hướng trong việc lựa chon nội dung, phương pháp, hình thức phát triển ý
chí cho trẻ.

Ở nước ta, vấn đề về trò chơi nói chung và trò chơi học tập của trẻ mẫu
giáo được các nhà tâm lí học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Trước hết phải
kể đến những nghiên cứu trò chơi của PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết, tập trung
trong một số sách dùng trong các trường sư phạm mầm non và khoa mầm non của
trường Đại học sư phạm Hà nội trong cuốn “Tổ chức trò chơi cho trẻ mẫu giáo”,
đã đề cập đến vấn đề trò chơi của trẻ mẫu giáo. Bản chất của trò chơi, ý nghĩa và
phân loại chúng, nội dung và cách hướng dẫn trò chơi ở từng loại tuổi.
Các nghiên cứu về trò chơi của các tác giả như: PGS. TS Ngô Công Hoàn,
Đào Thanh Âm, Lê Minh Thuận đã đề cập đến cách tiếp cận trò chơi và cách tổ
chức trò chơi cho trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của Trương Xuân Huệ: “Sử dụng
phương pháp trò chơi trong công tác chuẩn bị trí tuệ cho trẻ học toán lớp 1”, đã
khái quát một số vấn đề lí luận về trò chơi, trò chơi học tập.
Gần đây, với xu thế chung của giáo dục mầm non trong khu vực và thế
giới về việc đổi mới phương pháp và hình thức của bậc học mầm non, trong đó:
“Đổi mới tổ chức hoạt động học tập và vui chơi trong trường mẫu giáo theo
hướng tiếp cận tích hợp theo chủ đề”, nhằm chuẩn bị tiền đề cho trẻ vào lớp 1.
Các tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 56 tuổi, những tài liệu hướng dẫn hoạt động vui chơi có đưa ra một số trò chơi
học tập kèm theo cách hướng dẫn, tổ chức cho trẻ chơi cụ thể.
Nói chung trong tất cả các chương trình cải cách, đổi mới hướng dẫn thực
hiện chăm sóc giáo dục trẻ và những tài liệu hướng dẫn hoạt động vui chơi cho
12


trẻ mầm non của Việt nam ít quan tâm đến ý chí và phát triển ý chí của trẻ trong
trò chơi cũng như trong trò chơi học tập.
Cho đến nay nước ta có một số công trình nghiên cứu về trò chơi học tập,
ít có công trình nào nghiên cứu biểu hiện ý chí của trẻ thông qua trò chơi học tập
nhất là trẻ 5-6 tuổi. Vì thế, việc “nghiên cứu ý chí của trẻ 5-6 tuổi thông qua
trò chơi học tập” có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn đối với trường mầm
non hiện nay. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, những thành tựu nghiên cứu đã

điểm dẫn ở trên chứa đựng những nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần làm
cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề tài.
1.2. LÍ LUẬN VỀ Ý CHÍ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN Ý CHÍ CỦA TRẺ 5-6
TUỔI
1.2.1. Khái quát chung về ý chí
1.2.1.1. Khái niệm về ý chí
Ý chí là một thuộc tính tâm lí của con người, là phẩm chất quan trọng của
nhân cách. Ý chí được thể hiện trong mọi hoạt động của con người. Ở trẻ ý chí
xuất hiện như là sự điều chỉnh có ý thức đối với hành vi của bản thân. Sự phát
triển ý chí, giúp trẻ có định hướng đúng và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ý
chí góp phần phát triển nhân cách của trẻ.
Để có cách hiểu về ý chí làm cơ sở lí luận cho nghiên cứu của đề tài,
chúng tôi đưa ra các quan niệm khác nhau về ý chí để tìm hạt nhân hợp lý chung.
Theo A.V.Zaporojet con người có khả năng hành động theo mục đích đã
đề ra một cách có ý thức, khắc phục mọi khó khăn bên trong và bên ngoài, khả
năng đó gọi là ý chí.
Theo I.M.Xêchênôp “Ý chí – đó là mặt hoạt động của trí tuệ và tình cảm
đạo đức”. Bởi vì theo ông ý chí là mặt năng động của ý thức, ý chí là hình thức
tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người. Sở dĩ như vậy là vì ý chí kết
hợp trong mình cả mặt năng động trí tuệ lẫn mặt năng động của tình cảm đạo
đức. Như vậy ý chí của con người còn được hình thành và biến đổi theo những

13


điều kiện xã hội – lịch sử và điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tính mục
đích của hành động được ảnh hưởng bởi giai cấp xã hội.
Nhà giáo dục K.D.Usinski ông xem ý chí như những cơ bắp, nó chỉ được
vững chắc hơn dưới ảnh hưởng của hoạt động tăng dần về mức độ khó khăn.
Như vậy theo ông ý chí của con người cần có sự kiên trì bền bỉ và sức mạnh dẻo

dai trong mọi hoàn cảnh khó khăn.
A.V.Zaporôjet hành động tự ý và hành động ý chí: là khả năng cố hữu của
con người tuân theo những mục đích được đặt ra trong hành động của mình một
cách có ý thức gọi là ý chí, còn những hành động có ý thức được điều tiết gọi là
hành động tự ý hay hành động ý chí. Theo ông hành động ý chí biểu lộ ở chỗ:
con người hành động thực hiện một mục đích có chú ý được đề ra và khắc phục
những trở ngại bên trong, bên ngoài khác nhau trong quá trình hành động một
cách lôgic để đạt tới mục đích.
Theo Phạm Hoàng Gia ý chí là tính năng động của ý thức biểu hiện ở khả
năng xác định mục tiêu cho hành động, huy động sức mạnh của bản thân để khắc
phục khó khăn bên trong và bên ngoài nhằm thực hiện được mục tiêu.
Theo Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang
Uẩn – Đinh Văn Vang – Nguyễn Văn Luỹ và Nguyễn Xuân Thức: Ý chí là mặt
năng động của ý thức, biểu hiện ở mặt năng lực thực hiện những hành động có
mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.
Kiều Huy Tưởng đồng quan điểm trên, ông cũng cho rằng ý chí là một
phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí nhân cách, đó là mặt năng
động của ý thức, biểu hiện ở mặt năng lực thực hiện những hành động có mục
đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.
Trong đề tài này, theo chủ kiến riêng của mình chúng tôi xây dựng khái
niệm ý chí như sau:
Ý chí là khả năng con người hành động theo mục đích đã đề ra một
cách có ý thức và khắc phục mọi khó khăn để đạt được mục đích.

14


Như vậy, theo cách hiểu trên, ý chí được nảy sinh từ ý thức của con
người, tất cả những hiện thực khách quan được phản ánh qua não người. Ý chí
có cơ sở sinh học “não người” – yếu tố vật chất tạo tiền đề cho sự xuất hiện và

phát triển ý chí. Mặt khác, các quan hệ xã hội của con người cũng là yếu tố quan
trọng cho sự phát triển ý chí.
Bản chất của ý chí chính là quá trình cá nhân tự ý thức khắc phục mọi khó
khăn bên trong và bên ngoài cơ thể để thực hiện mục tiêu hành động của mình đã
đề ra nhằm phục vụ cho lợi ích cuộc sống cá nhân và xã hội.
Con người có ý chí, có thể điều khiển hành vi của mình một cách có ý
thức, nhận thức được rõ ràng mục đích cần đạt, dựa vào những nguyên tắc và
niềm tin nhất định, thực hiện mục đích đó một cách có kế hoạch, biết khắc phục
khó khăn trở ngại trên con đường đi đến mục đích, biết kềm chế một hành động
nào đó không phù hợp với mục đích đã định và biết tự chủ thay đổi ý định nếu
điều kiện thay đổi, nhờ có ý chí mà con người đạt được nhiều mục đích đặt ra
trong cuộc sống.
1.2.1.2. Bản chất của ý chí
Các nhà duy tâm cho rằng ý chí là sức mạnh tinh thần, không có liên quan
gì đến hoạt động của não, đến hiện thực xung quanh. Họ khẳng định rằng ý chí
là “phái viên” cao cấp của ý thức con người, có sứ mệnh thực hiện các chức
năng điều khiển. Ý chí không phụ thuộc vào một ai, vào cái gì. Nó tuyệt đối tự
do. Họ cho rằng: con người trong bất kì trường hợp nào cũng có thể hành động
theo ý muốn của mình, không phải tính toán, cân nhắc một điều gì. Con người tự
do hành động, nghĩa là “muốn sao thì vậy”. Mọi cái đều phụ thuộc vào ý chí tự
do của con người. Đó là chủ nghĩa duy ý chí.
Theo Mâyman nguồn gốc hoạt động ý chí của con người là ở ngay trong
biểu tượng của người đó và biểu tượng này là yếu tố, thành phần cần thiết của tất
cả các quá trình tâm lí, trong đó có cả những biểu hiện phức tạp của ý thức như
cảm giác và ý chí.

15


Ngược lại cũng có quan niệm quyết định luận máy móc cho rằng ý chí của

con người phụ thuộc rất chặt chẽ và hoàn toàn vào môi trường xung quanh. Trái
với quan niệm vô định luận trên, quan niệm này phủ nhận sự tự do của ý chí. Vì
thế con người hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Do đó dễ hiểu quan niệm này
sẽ dẫn đến thuyết định mệnh.
Theo quan niệm duy vật biện chứng, cũng giống như các mặt khác của
tâm lí, ý chí có cơ sở vật chất dưới dạng những quá trình thần kinh của não. Các
nhà duy vật khẳng định rằng con người có liên hệ chặt chẽ với môi trường xung
quanh. Thiếu những điều kiện bên ngoài thì con người không thể duy trì và tiếp
tục cuộc sống được. Ý chí cũng như toàn bộ ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan của não bộ.
Tuy nhiên ý chí không phải là một thuộc tính tách rời của con người, nó
có liên hệ chặt chẽ với các mặt, các chức năng khác của tâm lí con người.
Trước hết là nhận thức: nhận thức của con người được hướng vào sự phân
tích tổng hợp, trừu tượng, khái quát hóa các ấn tượng, các tri thức đã thu nhận
được từ môi trường xung quanh. Được củng cố trong trí nhớ và được chế biến
trong tư duy, những tri thức này thông báo một cách khá sâu sắc về những cái có
ở xung quanh chúng ta. Như vậy nhận thức làm cho ý chí có nội dung nhất định
của nó. Nội dung của ý chí nằm trong các khái niệm, các biểu tượng tư duy và
tưởng tượng đem lại. Đồng thời ý chí là một cơ chế khởi động và ức chế đặc sắc:
sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi, đó là hướng một cách có ý thức các nổ
lực trí tuệ và thể chất vào việc đạt tới mục đích, vào việc kiềm chế hoạt động khi
cần thiết.
Giữa tư duy với tư cách là sự nhận thức và ý chí với tư cách là sự điều
chỉnh hành vi một cách có ý thức, không có sự đồng nhất. Trong đời sống
hàng ngày ta có thể gặp những người mà ở họ có sự hoạt động mãnh liệt, thể
hiện sự kiên trì trong việc vươn tới mục đích, nhưng bản thân mục đích đó lại
không quan trọng. Hơn thế nữa, sự nổ lực to lớn lại thường được sử dụng một
cách vô ích, vì có một cái gì đó không được họ tính toán, không được họ hiểu
16



biết. Thường cũng có thể gặp một loại người khác, đó là những con người có
“đầu óc”, có suy nghĩ chín chắn và tìm ra được những con đường đúng đắn
để thực hiện, điều chỉnh ý chí đối với hành vi quá yếu ớt. Như vậy, nhận thức
hay hiểu một cái gì đó, điều đó không có nghĩa sẽ hành động như cái đã hiểu.
Mặt khác, ý chí của con người còn có quan hệ mật thiết với tình cảm. Các
nhà tâm lí học thuộc trường phái kinh nghiệm, một trường phái đã từng ủng hộ
Thuyết cảm xúc ý chí của Ribô đã giải đáp vấn đề về các nguyên nhân kích thích
hoạt động ý chí của con người. Theo họ nguyên nhân duy nhất của hành vi ý chí
là cảm xúc. Ý chí cũng là mặt hoạt động của tình cảm. Trong đời sống hàng
ngày, hoạt động của chúng ta được chi phối không phải chỉ bởi những cái mà
mình tri giác được, hiểu biết được, mà còn bởi những rung động, thể nghiệm nảy
sinh do sự tri giác và hiểu biết đó. Tình cảm, như ta đã thấy, thực hiện vai trò
kích thích hành động. Đồng thời, những rung động lại có thể là một phương tiện
kìm hãm hành động. Nhưng cũng phải nhớ rằng bản thân tình cảm cũng chịu sự
kiểm soát của ý chí. Nhiều khi con người phải hành động trái với tình cảm. Con
người đấu tranh với những đau thương mất mát, với sự tức giận, với niềm vui
mảnh liệt, đè bẹp sự căm uất hoặc nổi xung, nếu chúng cản trở công việc. Tất cả
những điều đó là nhờ ở ý chí.

17


1.2.1.3. Cơ sở sinh lí của ý chí
Ý chí được quyết định bởi các tác động khách quan, song các tác động
này thường xa và gián tiếp, con người ít nhận thấy, mà thường chính bản thân
mình quyết định phương hướng hành vi của mình. Điều đó làm cho con người có
cảm giác là hành vi của mình không phụ thuộc vào tác động bên ngoài. Thực ra
cũng như mọi hiện tượng tâm lí khác, ý chí là chức năng của não; về bản chất, ý
chí cũng chỉ là hoạt động đáp ứng các kích thích bên ngoài.

Để thực hiện mọi hoạt động, cơ thể con người có hơn 600 cơ bắp và hoạt
động của chúng không phải lộn xộn mà bao giờ cũng phối hợp với nhau: trong
bất kì một động tác nào do ta thực hiện cũng đều có sự tham gia không phải một,
mà là của một số các cơ bắp hoạt động có phối hợp chặt chẽ dưới sự điều khiển
của hệ thần kinh trung ương. Theo I.M.Xêtrênôv “Đối với các cơ bắp và nhiều
tuyến, như là những cơ quan hoạt động, thì hệ thần kinh là một thể tập hợp các
bộ phận điều hòa các hoạt động của chúng. Hệ thần kinh luôn luôn là kẻ đề
xướng ra hoạt động của các cơ quan lao động”[27;23 – 24]. Các động tác có ý
thức được điều chỉnh bởi các xung thần kinh xuất phát từ các tế bào tháp của
vùng vận động vỏ não và đi theo các bó tháp, cùng với sự tác động bổ sung của
các tế bào vùng tiền vận động và đi theo các bó tháp ngoài.
Mọi cảm giác vận động của cơ thể đều xuất phát từ trung khu vận động
của vỏ não. Các tế bào thần kinh vận động (tế bào ly tâm) không phải tự mình
thực hiện chức năng điều chỉnh mà thực hiện được dưới sự ảnh hưởng của các
hưng phấn thần kinh xuất phát từ các tế bào cảm giác (tế bào hướng tâm) của
trung khu vận động của võ não. I.P.Paplôp nhấn mạnh rằng: “trong võ não có
những tế bào hướng tâm liên quan đến sự vận động của thân thể và đó là cái
tương ứng với biểu tượng của chúng ta và sau đó lại có những tế bào ly tâm là
cái tương ứng với hành động của chúng ta”[23;482].
Như ta đã biết, không phải tất cả các kích thích bên ngoài đều được các cơ
quan phân tích tiếp nhận, đều gây hưng phấn. Vỏ não phân tích các luồng xung
động từ các cơ quan phân tích, ức chế một số xung động, liên kết các xung động
18


khác để hình thành các đường liên hệ thần kinh tạm thời, cơ sở sinh lí của hành
động. Sau khi đã hành động, vỏ não lại tiếp tục nhận các tín hiệu, các luồng
thông tin từ bên ngoài vào, từ các cơ quan vận động về vỏ não điều chỉnh vận
động sao cho phù hợp với yêu cầu đặt ra. Chính mối quan hệ hai chiều này là cơ
sở điều chỉnh hoạt động có ý chí của con người.

Trong cơ chế sinh lí này, các quá trình ức chế có một vai trò lớn. Trong vô
vàn kích thích, những kích thích có ý nghĩa lớn đối với riêng từng người sẽ tác
động mạnh, còn các kích thích khác bị ức chế. Hoạt động ức chế, biểu hiện ra
bên ngoài ở việc kiềm chế một số hành động. Nếu ức chế có lựa chọn ngày
càng bộc lộ thường xuyên, con người càng dễ kiềm chế những hành động bộc
phát và không quyết định vội vàng.
Hệ thống tín hiệu thứ hai có ý nghĩa lớn trong hoạt động ý chí. Trong hành
vi ý chí, con người nhận thức được cả các hành động của mình, cả các điều kiện
mà mình tiến hành hoạt động và việc đó chỉ có thể có được nhờ ngôn ngữ. Không
có sự kích thích của ngôn ngữ thì các hành vi đó không thể được tiến hành.
Theo I.P.Paplôp “Có thể làm cho hành động không có ý thức trở thành có ý
thức, nhưng điều đó chỉ có thể có được khi nhờ hệ thống tín hiệu thứ hai”[23;
337]. Sở dĩ như vậy là vì lời nói, nhưng là những tác nhân kích thích, trong suốt
thời kì đã sống vừa qua của con người, luôn gắn với vô số những kích thích tín
hiệu thứ nhất, thay thế các kích thích đó và vì vậy có thể tạo nên tất cả các hành vi
do các kích thích tín hiệu thứ nhất quyết định. Và “Con người trước hết nhận thức
hiện thực thông qua hệ thống tín hiệu thứ nhất, sau đó con người trở thành chủ
nhân của hiện thực thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai (lời nói, ngôn ngữ, tư duy
khoa học)”[23; 239].
Đặc điểm của các lời nói, như những tác nhân kích thích, là ở chỗ lời nói
liên hệ ở mức lớn hơn nhiều so với các cảm giác, tri giác và biểu tượng ban đầu
với hoạt động của toàn bộ vỏ bán cầu đại não, vì vậy lời nói vừa có được tính chất
khái quát, và tách rời khỏi các đặc điểm cụ thể của những tác nhân kích thích lại
vừa tác động tương hỗ với kinh nghiệm trước đây của con người dưới hình thức
19


khái quát của mình. Khả năng tạo nên các mối liên hệ tạm thời mới nhờ ngôn ngữ
luôn đóng vai trò to lớn trong sự hình thành các hành động ý chí, bởi vì mỗi lần
tác nhân kích thích bằng lời nói có thể tham gia vô số các mối liên hệ với các tác

nhân kích thích khác và tương ứng với vô số các hành động khác nhau, đó là cái
tạo nên cơ sở để tiếp thu có ý thức các loại hình hành động mới. Chính là cùng với
sự tham gia vào việc hình thành và thực hiện các loại hình hành động đó của hệ
thống tín hiệu thứ hai nên các hành động ý chí mang tính chất khuôn mẫu đặc
trưng cho các bản năng, khi xuất hiện trong quá trình thực tiễn cuộc sống có sự
tham gia của hệ thống tín hiệu thứ hai cùng với vô số những mối liên hệ khác
nhau, các hành động ý chí luôn chứa đựng trong mình tính chất mới mẻ.
Các nhà tâm lí học duy tâm cho rằng thân thể con người phải phục tùng
một cơ sở tinh thần đặc biệt khi họ nhận thấy đặc điểm của con người là có thể
kiềm chế và thậm chí từ bỏ cả hoạt động của mình. Về vấn đề này I.M.Xêtrênôp
viết rằng “song song với việc con người học được cách thu tóm hành động của
mình lại bằng các phản xạ liên tưởng được lập lại thường xuyên, con người còn
tạo được cho mình khả năng kiềm chế hành động của mình (cũng bằng chính
loại phản xạ đó)”. Như vậy, lúc thực hiện các hành vi ý chí, lời nói thực hiện vai
trò của các tín hiệu “bấm nút”, cả các tín hiệu kiềm chế.
1.2.1.4. Cấu trúc của hành động ý chí
Ý chí là một phẩm chất quan trọng của nhân cách, nhân cách con người
nói chung và các phẩm chất ý chí nói riêng đều được thể hiện trong hành động,
trong các cử chỉ nhằm thực hiện một mục đích được đặt ra từ trước. Những hành
động điều chỉnh bởi ý chí được gọi là hành động ý chí.
Hành động ý chí có nhiều loại khác nhau, không phải hành động nào của
con người cũng là hành động ý chí – nghĩa là không phải hành động nào cũng
biểu lộ được ý chí của con người. Các nhà tâm lí học chia ra làm ba loại hành
động ý chí, căn cứ theo sự có mặt đầy đủ hoặc không đầy đủ của các biểu hiện
sau đây trong hành động:
- Có mục đích đề ra từ trước một cách có ý thức.
20


- Có sự lựa chọn phương tiện, biện pháp để thực hiện mục đích.

- Có sự theo dõi, kiểm tra điều khiển và điều chỉnh sự nổ lực để khắc phục
những khó khăn, trở ngại bên ngoài và bên trong.
Theo Phạm Minh Hạc - Lê Khanh -Trần Trọng Thuỷ: Có 3 loại hành động
ý chí:
- Hành động ý chí đơn giản: Đó là những hành động có mục đích rõ ràng,
nhưng những đặc điểm trên không thể hiện đầy đủ, hoặc không có. Loại hành
động này còn được gọi là hành động có chủ định, hay hành động tự ý.
- Hành động ý chí cấp bách: Là những hành động xảy ra trong một thời
gian ngắn, đòi hỏi phải có sự quyết định và thực hiện quyết định trong chớp
nhoáng. Trong hành động này, các đặc điểm trên hầu như hòa nhập vào nhau,
không phân biệt rõ ràng.
- Hành động ý chí phức tạp (hành động ý chí đặc trưng): Trong loại hành
động này có cả ba đặc điểm trên được thể hiện một cách đầy đủ, rõ ràng. Ý chí
của con người được biểu lộ chính là trong loại hành động ý chí phức tạp này.
Như vậy có thể nói hành động ý chí điển hình là hành động được hướng
vào những mục đích mà việc đạt tới chúng đòi hỏi phải có sự khắc phục những
trở ngại, do đó phải có sự hoạt động tích cực của tư duy và những sự nổ lực ý chí
đặc biệt.
* Cấu trúc của hành động ý chí
Ý chí và hành động là một trong các thành tố cấu trúc nên nhân cách.
Nhân cách lại được biểu hiện ra ở ý chí, hành động và hành vi của con người. Ý
chí luôn kích thích tính tích cực của con người. Việc thực hiện thành công một
loại hành động sẽ gây nên cho con người một trạng thái tin tưởng. Hơn nữa nó
còn kích thích sự phát triển sau này ở họ những phẩm chất nhân cách.
Việc phân tích cấu trúc của hành động ý chí sẽ cho phép ta nhìn thấy cùng
một lúc cả một loạt đặc điểm cá nhân của con người. Trong mỗi hành động ý chí
điển hình có thể chia ra làm ba giai đoạn (hay ba thành phần) sau:
a/ Giai đoạn chuẩn bị (hay định hướng)
21



Chuẩn bị là chưa làm, nhưng biết là sẽ làm gì và làm như thế nào. Đây là
giai đoạn hành động trí tuệ, giai đoạn suy nghĩ, cân nhắc các khả năng khác
nhau. Giai đoạn này bao gồm các khâu sau:
- Đặt ra và ý thức rõ ràng mục đích của hành động.
- Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp, phương tiện hành động.
- Quyết định hành động.
Mọi hành động ý chí của con người đều được bắt đầu từ việc đề ra và ý
thức rõ ràng mục đích hành động. Trước khi hành động, con người phải ý thức
rõ ràng mình hành động để làm gì. Mình muốn đạt tới cái gì trong hành động.
Phải hình dung trước được kết quả hành động mà mình đang chờ đợi.
Xác định mục đích là một quá trình vì mục đích được nảy sinh từ nhu cầu.
Nhu cầu sẽ qui định mục đích của hành động, thúc đẩy hành động và được phản
ánh trong ý thức của con người ở những mức độ khác nhau như:
Ở mức độ ý hướng (đối tượng của nhu cầu) thì nhu cầu được phản ánh trong
ý thức một cách mù mờ, chưa rõ ràng. Nó mù mờ bởi vì nhu cầu còn yếu ớt, những
tín hiệu của nó không được phản ánh một cách đầy đủ, rõ ràng trong ý thức.
Ở mức độ cao hơn – mức độ ý muốn thì nhu cầu đã được ý thức rõ ràng
hơn: con người xác định được đối tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định được
con đường, cách thức để thực hiện mục đích đó.
Đến mức độ ý định thì nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ: con
người xác định được mục đích và con đường thực hiện mục đích của hành động.
Khi ta nói rằng ta có ý định làm một việc nào đó tức là ta đã sẵn sàng thực hiện
một hành động.
Nhưng, thường thì con người có nhiều nhu cầu khác nhau cùng một lúc, do
đó có thể cùng một lúc đề ra nhiều mục đích khác nhau cho hành động của mình.
Trên thực tế mỗi hành động con người thường chỉ thực hiện được một hay hai
mục đích nào đó mà thôi. Vì vậy trong quá trình đề ra mục đích cho hành động có
thể diễn ra sự đấu tranh bản thân trong số nhiều mục đích cùng được đề ra đó.
Nhu cầu được ý thức một cách sâu sắc sẽ trở thành động cơ của hành động. Như

22


vậy sự đấu tranh của bản thân còn được gọi là đấu tranh động cơ. Sự đấu tranh
động cơ có nhiều hình thức: đấu tranh giữa các nhu cầu khác nhau của cá nhân và
tập thể, giữa tình cảm và lí trí, cao hơn nữa là giữa cái sống và cái chết.
Trong sự đấu tranh động cơ thì vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, khả năng
nhận thức và tình cảm của nhân cách giữ vai trò quyết định. Sự chỉ bảo khuyên
nhủ của người lớn, của bạn bè có qui tín, cũng như dư luận xã hội có một vai trò
khá quan trọng. Sau khi đã xác định được mục đích, thì khâu tiếp theo là lập kế
hoạch nhằm thưc hiện mục đích đó với những phương tiện và biện pháp cụ thể.
Một mục đích có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp với những phương tiện
khác nhau. Vì vậy ở đậy lại có sự lựa chọn nhất định để có được những phương
pháp, phương tiện khác nhau. Mặt khác, khi lập kế hoạch lựa chọn biện pháp có
thể nảy sinh những khó khăn, trở ngại nhất định. Có những khó khăn khách quan
và những khó khăn chủ quan. Do vậy ở đây lại diễn ra sự đấu tranh bản thân, kết
quả sự đấu tranh này là đưa đến một quyết định.
Giai đoạn chuẩn bị được kết thúc bằng sự quyết định hành động. Quyết
định có nghĩa là dừng lại ở mục đích và những phương pháp, phương tiện hành
động nhất định, được thực hiện theo một kế hoạch nhất định.
Sau khi quyết định, sự căng thẳng nảy sinh trong quá trình đấu tranh bản
thân, đấu tranh động cơ được giảm xuống. Con người cảm thấy hoàn toàn nhẹ
nhõm, nếu như sự quyết định phù hợp với nguyện vọng của họ. Hơn nữa, trong
trường hợp này họ cảm thấy hài lòng, vui sướng. Nhưng ngay cả sự quyết định
không hoàn toàn phù hợp với những ước muốn và hi vọng của con người, khi
không có sự thống nhất hoàn toàn với nội dung của mục đích, thì bản thân việc
quyết định cũng hạ thấp sự căng thẳng.
b/ Giai đoạn thực hiện
Sau khi đã quyết định hay là sau giai đoạn chuẩn bị đã kết thúc, thì tiếp
đến giai đoạn thực hiện quyết định đó. Thiếu giai đoạn này sẽ chẳng còn có hành

động ý chí nữa. Dĩ nhiên ý chí cũng có thể được thể hiện ở sự quyết định (đôi

23


khi sự quyết định này cũng đòi hỏi sự nổ lực lớn lao), nhưng chỉ có quyết định
không thì chưa đủ để kết luận một người nào đó là có ý chí.
Sự thực hiện quyết định có thể có hai hình thức: Hình thức hành động bên
ngoài và hình thức kiềm hãm các hành động bên trong (còn gọi là hành động ý
chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong).
Nếu con người đi chệch khỏi con đường đã định, do đó đi chệch khỏi mục
đích đã chấp nhận, thì ở họ biểu hiện sự không có ý chí. Tất nhiên trong những
trường hợp mà hoàn cảnh bị biến đổi, nảy sinh những điều kiện mới nào đó và
việc thực hiện quyết định trước đây trở nên không hợp lí nữa, thì sự từ bỏ một
cách có ý thức cái quyết định đó lại là điều cần thiết. Nếu không xử sự như vậy
thì không phải là người có ý chí.
Khi mục đích đã đạt được, những khó khăn được khắc phục con người
cảm thấy thỏa mãn lớn lao về mặt đạo đức và sẽ cố gắng tiến tới những hành
động mới, những thành công mới. Nhưng từ chỗ quyết định đến chỗ thực hiện
quyết định là cả một chặng đường dài. Đi đến được quyết định đã là một việc
khó khăn, nhưng thực hiện quyết định lại là một việc còn khó khăn hơn nhiều. Ở
khâu này con người còn gặp nhiều khó khăn trở ngại (cả chủ quan và khách
quan), đòi hỏi phải có sự nổ lực ý chí đáng kể, nghĩa là hành động ý chí được
thực hiện với một sự căng thẳng ít nhiều. Sự nổ lực ý chí có ở tất cả các khâu của
một hành động ý chí.
Những công trình nghiên cứu tâm lí học đã chỉ ra rằng: cường độ của sự
nổ lực ý chí, tính bền vững của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết phải kể
đến các yếu tố như: thế giới quan, xu hướng tư tưởng của cá nhân, ý nghĩa xã hội
của các nhiệm vụ mà họ phải giải quyết. Mối liên hệ này là mối liên hệ trực tiếp.
Sau đó là các nhân tố như: tâm thế đối với hoạt động và kết quả của hoạt động.

Mức độ căng thẳng của sự nổ lực ý chí còn phụ thuộc vào kiểu khí chất nóng nảy
(colérique), hoạt bát (sanguin) có khả năng chịu đựng những căng thẳng lớn, còn
người thuộc kiểu khí chất ưu tư (mélancolique) thì chịu đựng kém hơn nhiều.

24


Sự nỗ lực ý chí được nảy sinh và phát triển tùy theo mức độ nảy sinh và
phát triển của khó khăn, căng thẳng. Ý chí được rèn luyện trong đấu tranh chính
là vì vậy.
c/ Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động
Sau khi hành động ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng có sự
đánh giá các kết quả của hành động đã đạt được. Việc đánh giá này là cần thiết
để rút kinh nghiệm cho những hành động sau. Sự đánh giá này được biểu hiện
trong những phán đoán đặc biệt, tán thành, biện hộ hoặc lên án sự quyết định đã
chọn và hành động đã thực hiện. Sự đánh giá xấu thường xảy ra cùng với những
rung cảm lấy làm tiếc về hành động đã thực hiện, những rung cảm xấu hổ, hối
hận. Sự đánh giá tốt thường xảy ra cùng với những rung cảm thõa mãn, hài lòng,
vui sướng.
Sự đánh giá các hành động đã hoặc đang thực hiện được tiến hành theo
quan điểm chính trị - xã hội, quan điểm đạo đức, thẩm mĩ… Trong những rung
cảm và phán đoán đánh giá thể hiện rất rõ thế giới quan của con người, các tâm
thế và các nguyên tắc đạo đức của họ, cũng như tính cách và các hứng thú của họ
nữa. Không phải chỉ có cá nhân, mà cả xã hội tham gia đánh giá hành động. Sự
đánh giá của xã hội đối với hành động của con người được thể hiện trong việc
phê bình và tự phê bình.
Việc đánh giá kết quả hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt
động của con người: nó trở thành kích thích và động cơ đối với hoạt động tiếp
theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa
hành động hiện tại. Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục, tăng cường và cải

tiến hành động đang thực hiện.
Qua phân tích cấu trúc hành động ý chí, chúng ta thấy rằng trong giai
đoạn đầu tiên có sự tham gia của nhiều quá trình tâm lí, nhưng quá trình tư duy
có vai trò quyết định. Còn trong giai đoạn thứ hai thì các kĩ năng, kĩ xão cũng
như năng lực tổ chức lại giữ vai trò quyết định. Khi gặp các khó khăn, trở ngại
thì vai trò tích cực lại thuộc về tư duy. Vì khắc phục khó khăn, điều đó trước hết
25


×