Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HOÀN THIỆN hệ THỐNG PHÁP LUẬT về GIÁM sát HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH của cơ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ nước ở địa PHƯƠNG từ THỰC tế TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.99 KB, 130 trang )

1

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương là một trong những vấn đề có tính lý
luận và thực tiễn cấp bách hiện nay, bởi vì:
- Xuất phát từ vị trí, vai trò tầm quan trọng của nền hành chính nhà
nước và yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước. Mục tiêu của Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước là: Xây dựng một nền hành chính dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Đến năm 2010 hệ thống hành chính về cơ bản đã được cải cách phù
hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ mục tiêu trên có thể thấy rõ: hoàn thiện pháp luật giám sát hành
chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương vừa là nội dung
của cải cách hành chính, vừa là một trong những biện pháp pháp lý không thể
thiếu nhằm thúc đẩy cải cách nền hành chính theo mục tiêu đã xác định.
- Giám sát hành chính (hay còn gọi là giám sát hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước) bao gồm giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước, các cơ quan tư pháp và giám sát xã hội (giám sát của các tổ
chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí v.v...). Mục đích của giám sát
hành chính là phát hiện các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật trong quá
trình hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, ngăn ngừa, uốn
nắn những sai lầm, lệch lạc, thực hiện mục tiêu quản lý hành chính nhà nước,
góp phần hỗ trợ cho hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp. Với vai trò quan



2

trọng đó, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành
chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có ý nghĩa hết sức
to lớn và cần thiết.
- Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Vì vậy, cho dù hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
từ Trung ương đến cơ sở có đa dạng, phức tạp và rộng lớn bao nhiêu cũng
phải tuân thủ những nguyên tắc căn bản của nhà nước pháp quyền. Đó là
nguyên tắc các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức hành chính
chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên, pháp luật hành
chính hết sức phức tạp, còn rất nhiều tồn tại, các quy trình và thủ tục hành
chính tuy đã được cải cách song vấn rất hạn chế, không ít thủ tục mới phiền
hà. Điều này làm tiềm ẩn nguy cơ về sự vi phạm pháp luật của đội ngũ cán
bộ, công chức. Do đó, đòi hỏi hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự
giám sát chặt chẽ. Đến lượt mình, sự giám sát hành chính đó chỉ có thể có
hiệu lực, hiệu quả khi nó được tiến hành theo các quy định của pháp luật. Đó
là pháp luật về giám sát hành chính nhà nước. Pháp luật này hiện nay cũng
như pháp luật hành chính nói chung đang còn rất nhiều hạn chế, tồn tại, đòi
hỏi cấp bách phải hoàn thiện.
- Thực tiễn hoạt động hành chính ở nước ta trong những năm qua đã
đạt được những thành tựu nhất định song cũng còn không ít những vấn đề tồn
tại cần phải được cải cách về thể chế hành chính, về bộ máy và đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính, đặc biệt là tình trạng cửa quyền, lạm quyền, quan
liêu, mất dân chủ hay tình trạng lãng phí, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân
tiếp tục diễn ra nghiêm trọng. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân do pháp luật giám sát hành chính chưa đồng bộ và thiếu cụ
thể, thiếu thống nhất, chưa xây dựng được cơ chế giám sát, tổ chức và hoạt
động của cơ quan giám sát, nội dung giám sát và những chế tài của hoạt động
giám sát. Thực tiễn cho thấy, tăng cường hoạt động giám sát phải đi liền với



3

việc giao quyền giám sát cho ai, cơ quan nào là hợp lý cũng như nội dung và
hiệu lực giám sát phải gắn với việc hoàn thiện pháp luật về giám sát hành chính.
- Về phương diện khoa học pháp lý, giám sát hành chính và pháp luật
về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương là những khái niệm đang còn nhiều cách tiếp cận khác nhau, như về
chủ thể giám sát, đối tượng giám sát và các chế tài giám sát hành chính, đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính.
Từ những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật
về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương - từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc" làm luận văn Thạc sĩ Luật học
chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Đề tài được thực hiện
sẽ góp phần phát huy vai trò của pháp luật về hoạt động giám sát hoạt hành
chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Vĩnh Phúc, giúp cho các cơ
quan này thực hiện có hiệu lực, hiệu quả quản lý, thực hiện tốt cải cách hành
chính ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, nghiên cứu về giám sát hành chính đối với cơ quan hành
chính nhà nước được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
- Sách chuyên khảo: "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền
lực nhà nước" do GS,TSKH Đào Trí Úc và PGS,TS Võ Khánh Vinh đồng
chủ biên; "Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án" của TS.
Nguyễn Thanh Bình; "Hành chính công" của Học viện Hành chính Quốc gia do
TS. Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên và tập thể tác giả là cán bộ nghiên cứu, giảng
dạy của Học viện Hành chính Quốc gia, phát hành năm 2003; "Thể chế dân chủ

và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay" do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS.


4

Hồ Văn Thông đồng chủ biên; "Một số vấn đề cơ bản về hoàn thiện bộ máy
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do GS,TS Nguyễn Duy Gia
làm chủ biên; "Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước"
do PTS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên; "Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân theo Hiến pháp năm 1992" và "Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 1994" của Phùng Văn Tửu.
- Đề tài cấp Bộ: "Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới
(từ năm 1986 đến nay)" do Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì; "Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay" do PGS,TS. Lê Văn Hòe làm chủ nhiệm, Viện Nhà nước và Pháp
luật là cơ quan chủ trì; "Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở
nước ta hiện nay" của Viện Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh chủ trì.
- Luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ có liên quan: "Nâng cao hiệu lực
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới
ở Việt Nam hiện nay" của Vũ Mạnh Thông (năm 1998); "Trách nhiệm pháp
lý của công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay", Luận án tiến sĩ luật học của Ngô Hải Phan; "Vai trò của các cơ
quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam",
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Kim v.v...
Bên cạnh đó còn có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực
hiện giám sát đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân" của Đỗ Duy

Thường, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc, số 22; "Thiếu một cơ chế giám sát hoàn
thiện" của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật, số 222, ngày 16 tháng 9 năm 2005;
"Nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối


5

với bộ máy nhà nước" của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Dân vận, số 7, 2005
v.v...
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập tới một số khía cạnh
của hoạt động giám sát quyền lực nhà nước song chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và hệ thống về giám sát hành chính và pháp luật về
giám sát hành chính đối với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Do
đó, tiếp thu những kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn nghiên cứu một cách
hệ thống, toàn diện vấn đề hoàn thiện pháp luật về giám sát hành chính hoạt
động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương từ thực
tiễn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật
trực tiếp điều chỉnh hoạt động giám sát hoạt động hành chính của các chủ thể
có quyền giám sát hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, gồm: Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể quần chúng, công dân và cơ quan báo chí. Trong đó, luận văn tập
trung vào thực tiễn giám sát hành chính ở Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về giám sát hoạt
động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và pháp luật

về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, đề xuất và luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giám sát hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.


6

- Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ
của luận văn là:
+ Phân tích cơ sở lý luận về giám sát, giám sát hành chính, về khái
niệm, đặc điểm, nội dung cơ bản của pháp luật về giám sát hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, vai trò của nó trong giám sát
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
+ Phân tích các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
+ Đánh giá thực trạng pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của
các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và thực trạng thực hiện pháp
luật đó ở tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Đề xuất và luận chứng quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giám sát hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là quan điểm của Đảng về cải cách
hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, luận văn cũng tiếp cận những kết quả
nghiên cứu khoa học pháp lý về hành chính học ở nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của triết học Mác - Lênin, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và cụ thể. Ngoài ra,
luận văn cũng sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác

như luật học so sánh, xã hội học, lý thuyết hệ thống.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau:


7

- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám sát, giám sát hành chính,
pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương.
- Đánh giá khái quát thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật về giám sát hành chính hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương qua các giai đoạn hình thành và phát triển của nền
hành chính nhà nước.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về giám sát hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương bằng việc luận chứng các quan điểm,
giải pháp hoàn thiện pháp luật đó.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học và
thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về giám sát hành chính hoạt động hành
chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Các quan điểm,
giải pháp mà luận văn luận chứng có giá trị tham khảo đối với các cơ quan có
thẩm quyền. Đồng thời, luận văn là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương và 7 tiết.


8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH CỦA CÁC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG

1.1. GIÁM SÁT VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH

1.1.1. Khái niệm giám sát và giám sát hoạt động hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Trong điều kiện đổi mới, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước là yếu tố quan trọng bảo đảm bản chất của nhà nước - một nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hoạt động giám sát rất quan trọng như trên song bản thân khái niệm
giám sát lại có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Về mặt ngữ nghĩa, từ giám sát được giải thích là "theo dõi, kiểm tra
việc thực thi nhiệm vụ" [62, tr. 728]. Với nghĩa này, thuật ngữ giám sát gần
nghĩa với thuật ngữ kiểm tra, trong đó, kiểm tra là "xem xét thực chất, thực tế"
[62, tr. 937].
- Nếu nhìn nhận dưới góc độ nhà nước, giám sát lấy đối tượng là việc
thực thi quyền lực nhà nước, gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan nhà nước. Giám sát "là sự theo dõi, kiểm tra đối với việc thực thi
quyền lực nhà nước". Để đảm bảo quyền lực là thống nhất, việc tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và



9

cần thiết phải có sự giám sát việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Giám sát việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước bao gồm hoạt động
giám sát của Nhà nước (của các cơ quan trong bộ máy nhà nước) và giám sát
xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng
v.v...
Xem xét hoạt động giám sát như trên cho thấy giám sát đối với việc tổ
chức và hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ là giám sát của
các cơ quan nhà nước mà còn là giám sát của toàn bộ hệ thống chính trị, và,
chỉ khi nào giám sát được thực hiện trong mối liên hệ mật thiết, hữu cơ với
các bộ phận của toàn bộ hệ thống chính trị thì mới có hiệu quả. Mặt khác, giám
sát của nhà nước và giám sát của xã hội đối với việc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước có mối liên hệ biện chứng, thống nhất trong một cơ chế giám sát.
Mỗi yếu tố - mắt xích trong cơ chế đó gắn kết với nhau nhằm đạt được mục
đích cuối cùng là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước.
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước ta có
thể xác định hoạt động giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước như
sau:
+ Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân);
- Giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước;
- Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Hoạt động giám sát chỉ có thể đạt được hiệu quả khi đảm bảo được
các điều kiện nhất định về chính trị, tư tưởng, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tổ
chức, tâm lý, văn hóa, trong đó điều kiện về chính trị, pháp luật nói chung và
pháp luật về hoạt động giám sát nói riêng đóng một vai trò hết sức quan trọng.



10

Để đi tới khái niệm giám sát hoạt động hành chính cần tìm hiểu khái
niệm hoạt động hành chính. Ở nước ta, hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan quản lý hành
chính nhà nước ở Trung ương; ở địa phương có Ủy ban nhân dân các cấp và
các cơ quan quản lý nhà nước của Trung ương đóng trên địa bàn ở địa
phương. Đó là các cơ quan thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội diễn ra hàng ngày, thường xuyên trên phạm vi cả
nước và trên từng địa bàn đơn vị hành chính. Các cơ quan nhà nước ở địa
phương có vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định,
trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương. Hiệu quả hoạt
động của các cơ quan này góp phần quan trọng vào hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước. Đến lượt mình, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được bảo đảm bởi nhiều yếu tố,
trong đó có hoạt động giám sát chính các hoạt động của các cơ quan này.
Hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
được thể hiện ở việc ban hành các quyết định hành chính, gồm các quyết định
hành chính quy phạm, quyết định cá biệt, và bằng việc thực hiện hàng loạt các
hành vi mang tính pháp lý, hành vi hành chính khác để tổ chức phục vụ đời
sống xã hội, thực hiện lợi ích công cộng ở địa phương. Trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động hành chính nhà nước của các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương là hoạt động thực hiện một bộ phận của quyền
hành pháp, cùng với quyền lập pháp của Quốc hội, quyền tư pháp của Tòa án
tạo nên quyền lực nhà nước một cách thống nhất. Trong quá trình triển khai
thực hiện, hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương là những hoạt động mang tính quản lý hành chính, trực tiếp đụng
chạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Do đó, các quyết định



11

hành chính và các hành vi hành chính khác của các cơ quan hành chính nhà
nước phải chính xác, việc ban hành phải theo thủ tục chặt chẽ, việc tuân thủ
phải nghiêm minh.
Thứ hai, hoạt động hành chính của cơ quan hành chính địa phương có
tính độc lập tương đối so với hoạt động chấp hành của cơ quan này đối với cơ
quan quyền lực cùng cấp. Sự độc lập đó đòi hỏi cơ quan hành chính phải chủ
động, sáng tạo, song lại tiềm ẩn nguy cơ thoát ly khỏi sự giám sát, thậm chí
có tình trạng lộng quyền, lạm quyền, vi phạm pháp luật của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương.
Thứ ba, hoạt động hành chính nhà nước của các cơ quan nhà nước ở
địa phương có tác động lớn đến đời sống xã hội ở địa phương. Các hoạt động
này được đảm bảo bằng nhiều nguồn lực khác nhau như tài chính, cơ sở vật
chất, lực lượng cán bộ, công chức, bộ máy tuyên truyền, lực lượng cảnh sát...
Đây chính là ưu thế của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, hình thức hoạt động cơ bản của cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương là ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, văn bản áp
dụng pháp luật. Với các hình thức này, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương thực hiện quản lý hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa
phương. So với hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hoạt động
ban hành văn bản áp dụng pháp luật được được thực hiện nhanh và phạm vi
vấn đề giải quyết rộng và chiếm phần lớn khối lượng công việc của hoạt động
hành chính. Các văn bản này tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của các
đối tượng có liên quan, đụng chạm trực tiếp đến quyền tự do và lợi ích của cá
nhân. Do đó, trong hoạt động này, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
luôn đứng trước nguy cơ ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là ban

hành văn bản cá biệt thiếu căn cứ và cơ sở pháp lý, thậm chí trái pháp luật dẫn
đến xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.


12

Bên cạnh việc ban hành văn bản, hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương còn được thực hiện dưới hình thức là
các hành vi hành chính. Các hành vi hành chính được thực hiện một cách
thường xuyên, liên tục vừa trên cơ sở của luật, của văn bản lập quy, vừa trên
cơ sở của các quyết định hành chính cá biệt hoặc hành vi quản lý của người
có thẩm quyền. Hành vi hành chính cũng luôn ẩn chứa nguy cơ vi phạm pháp
luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngoài ra, hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo do chính cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương thực hiện cũng là một hình thức đòi hỏi phải
được vận dụng đúng pháp luật, tiến hành chính xác mới không dẫn tới nguy
cơ vi phạm pháp luật.
Thứ năm, phương pháp quản lý hành chính của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương được sử dụng chủ yếu là thuyết phục, cưỡng chế, các
phương pháp hành chính và kinh tế. Trong việc sử dụng phương pháp quản
lý, nếu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương sử dụng không phù hợp
với quy định của pháp luật, áp dụng sai đối tượng cũng có thể dẫn tới gây
thiệt hại cho các đối tượng bị áp dụng, nhất là khi áp dụng phương pháp hành
chính và phương pháp cưỡng chế.
Như vậy, với tính chất đa dạng, phức tạp trên, hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương tiềm ẩn nhiều nguy cơ, có
thể dẫn tới vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân, của
tổ chức và của Nhà nước, đòi hỏi hoạt động này phải chịu sự kiểm tra, giám
sát chặt chẽ cả từ phía các cơ quan nhà nước, và cả từ phía xã hội, của từng cá
nhân công dân. Chỉ khi nào hoạt động giám sát hành chính đối với hoạt động

hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được thiết lập và
thực hiện thì hiệu quả từ hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương mới được thực thi có hiệu quả, sử dụng đúng và có
hiệu quả các nguồn lực của địa phương, tổ chức thực hiện tốt Hiến pháp và


13

pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân chủ,
góp phần tăng cường hiệu lực của chính quyền địa phương.
Ở nước ta hiện nay, giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương được thực hiện thông qua những hình
thức sau:
- Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động hành
chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đó là hoạt động giám sát
do Hội đồng nhân dân thực hiện theo chức năng và nhiệm vụ được quy định
trong Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Quy
chế hoạt động của của Hội đồng nhân dân và các văn bản liên quan khác v.v...
- Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện, như giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Giám sát của Thanh tra nhân dân. Đây là tổ chức giám sát mang tính
nhân dân được tổ chức nhằm giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương và hành vi hành chính của các cán bộ, công chức
trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Giám sát thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trực tiếp
là qua việc thực hiện thẩm quyền tài phán của Tòa hành chính đối với quyết
định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan hành chính hoặc cá nhân
có thẩm quyền ban hành, thực hiện.
- Giám sát của các cơ quan báo chí.
- Giám sát của công dân. Hoạt động này chủ yếu được thực hiện thông

qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, thông qua việc thực
hiện quy chế dân chủ ở xã, ở cơ quan, doanh nghiệp.
Như vậy, giám sát hành chính (giám sát hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương) là hoạt động do cơ quan quyền lực nhà


14

nước ở địa phương, Tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các cơ quan báo chí và công dân thực hiện
bằng những hình thức, phương pháp quy định trong Hiến pháp và pháp luật
có nội dung là theo dõi, xem xét, đánh giá, phát hiện kịp thời các quyết định
hành chính, hành vi hành chính vi phạm Hiến pháp, pháp luật trong quá trình
hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, của các cán bộ, công chức trong các cơ quan này, từ đó ngăn ngừa,
uốn nắn, xử lý hoặc kiến nghị xử lý, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư pháp và công cuộc cải
cách nền hành chính nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương
Từ quan niệm về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương có thể rút ra một số đặc điểm sau:
- Về mục đích: Giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương nhằm mục đích đảm bảo cho toàn bộ hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng như hoạt động của
các công chức trong các cơ quan này đúng theo quy định của pháp luật về
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn. Đây chính là cơ sở đảm bảo cho quyền
lực nhà nước được kiểm soát một cách chặt chẽ, đồng thời bổ sung cho giám
sát của Quốc hội, kiểm tra của Đảng đối với các tổ chức đảng trong các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Với mục đích trên, giám sát hoạt

động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương góp
phần thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp
của công dân, lợi ích nhà nước và lợi ích của địa phương. Đồng thời, giám sát
hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
cũng nhằm chống lại sự lộng hành, lạm dụng quyền lực hành chính, phát hiện
và ngăn chặn các hành vi tham nhũng, lãng phí, vi phạm pháp luật của các cán


15

bộ có chức, có quyền. Giám sát hành chính nói chung và giám sát thông qua
hoạt động xét xử của Tòa hành chính nói riêng, với ưu thế của các phán quyết
của tòa án được coi là hoạt động giám sát hữu hiệu nhất đối với hoạt động
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Hoạt động của
Tòa hành chính sẽ làm cho bộ máy hành chính nhà nước nói chung, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương nói riêng nâng cao trách nhiệm, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc ra
các quyết định và thực hiện các hành vi hành chính, nâng cao trách nhiệm,
bổn phận của cán bộ, công chức trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, tôn
trọng và bảo vệ quyền tự do, dân chủ, lợi ích hợp pháp của công dân, góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân.
- Về chủ thể giám sát: Giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương được thực hiện bởi chủ thể giám sát là Hội
đồng nhân dân, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các cơ quan báo chí của địa phương và công
dân. Hiệu quả của hoạt động giám sát hành chính được đảm bảo bằng hiệu
quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân
dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các hiệu quả giám sát của các tổ chức thành viên

của Mặt trận, của các cơ quan báo chí và của công dân.
Với những chủ thể nêu trên có thể hình dung được tính đa dạng, phức
hợp và đan xen của hoạt động giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương. Đặc điểm về chủ thể giám sát hành chính
này đòi hỏi phải có sự phân định cụ thể, rõ ràng phạm vi giám sát lĩnh vực hành
chính, sao cho tránh được sự chồng chéo về nhiệm vụ, chức năng giám sát đối
với cùng một đối tượng bị giám sát, phát huy được hiệu quả giám sát nói chung.


16

- Về đối tượng giám sát: Đối tượng giám sát chính là hoạt động hành
chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đây là một hoạt
động hết sức đa dạng, phức tạp, bởi lẽ, hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương là hoạt động quản lý toàn diện các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội ở địa phương. Đây cũng là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước (quyền lực công) có liên quan trực tiếp và gắn
bó với đời sống hàng ngày của nhân dân nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân sống trong địa phương, và do đó phải chịu sự giám sát của
nhân dân địa phương. Là đối tượng chịu sự giám sát, hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương là hoạt động quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra
hàng ngày, hàng giờ ở địa phương, đòi hỏi hoạt động này, đặc biệt là ở cấp cơ
sở phải hết sức cụ thể, sát thực. Giám sát hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương do vậy phải được đặt trong điều kiện
kinh tế - xã hội của từng địa phương cụ thể, không thể máy móc, áp đặt, và
phải tuân thủ đúng các quy định pháp luật về phân công, phân cấp quản lý nhà
nước để tránh tình trạng chồng chéo, lấn sân.
Thứ hai, hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở

địa phương nằm trong hệ thống thống nhất các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất thống nhất thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tính thống nhất, thứ bậc, thống suốt của các cơ quan
hành chính nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Chính
vì vậy hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
bên cạnh việc chịu sự giám sát của các chủ thể giám sát nêu trên còn phải
thường xuyên chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành chính cấp trên. Kiểm
tra, thanh tra của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, theo hệ thống dọc


17

khác với giám sát của Hội đồng nhân dân, giám sát của Tòa án và giám sát xã
hội, song có tác động tích cực đối với chính cơ quan hành chính. Tuy vậy, việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý không thể không có hoạt động giám sát.
Thứ ba, hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương là hoạt động trực tiếp tổ chức đời sống xã hội, trực tiếp phục vụ nhu cầu
của xã hội, của nhân dân, đặc biệt là hoạt động của chính quyền cơ sở. Đây là
cấp gần dân, sát dân nhất; những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân
được các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương tiếp nhận và trực tiếp giải
quyết. Khác với các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương là cơ quan quản
lý trên phạm vi cả nước và chủ yếu tập trung vào việc điều hành các lĩnh vực của
đời sống xã hội ở phạm vi chung nhất của đất nước, hoạt động hành chính của
các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là những hoạt động cụ thể nhằm
giải quyết các vấn đề đặt ra ở địa phương, cơ sở và cũng là khâu dễ phát sinh
những sai phạm, vi phạm trong tổ chức và hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước theo phân công, phân cấp. Chính vì vậy, các hoạt động này cần thiết phải
được đặt trong sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quyền lực nhà nước, cơ
quan tòa án, giám sát xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và của công dân.

- Về hình thức và phương pháp giám sát: Với mỗi một chủ thể giám
sát có các hình thức giám sát và phương pháp giám sát đặc thù. Do đặc điểm
về chủ thể giám sát và đối tượng giám sát nêu trên mà hình thức và phương
pháp giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương cũng phải linh hoạt, trong đó có sự kết hợp giữa hình thức giám
sát mang tính quyền lực nhà nước và hình thức giám sát không mang tính
quyền lực nhà nước (giám sát mang tính xã hội).
Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là hình thức giám sát do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đối với hoạt động hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương theo nguyên tắc phân công quyền lực


18

nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định. Đó là hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân với tính cách là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, đặc
biệt là thông qua thẩm quyền tài phán hành chính của Tòa án. Giám sát xã hội
là hình thức giám sát không phải do cơ quan nhà nước thực hiện mà do Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí và
công dân thực hiện. Loại hình giám sát này có hình thức giám sát là theo dõi,
đánh giá, kiến nghị xử lý hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương có sai phạm. Đây là hình thức giám sát mang tính độc lập
tương đối, hỗ trợ đắc lực cho giám sát mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện
tính đặc thù của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là phương thức quan trọng để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Hình thức và phương pháp giám sát hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương là tổng hợp các biện pháp pháp lý
với các trình tự, thủ tục cụ thể nhằm đạt được mục đích giám sát. Khi thực

hiện các hoạt động giám sát, các chủ thể giám sát chỉ được thực hiện các hình
thức và phương pháp giám sát theo luật định. Các hình thức và phương thức
giám sát được thực hiện một cách thường xuyên bao gồm cả giám sát trước
(tiền kiểm) như giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, giám sát
việc lập quy hoạch, kế hoạch hoạt động, giám sát trong quá trình thực hiện
hành vi hành chính và giám sát sau (bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật ban
hành trái pháp luật, xét xử các đơn khiếu kiện tại tòa hành chính về quyết định
hành chính và hành vi hành chính). Đặc điểm này cho thấy hình thức và
phương pháp giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương mang tính phức hợp, đòi hỏi phải được thực hiện một cách
khoa học mới đem lại hiệu quả giám sát cao.


19

1.2. PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH CỦA CÁC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giám sát hoạt động
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong giám sát hoạt động hành chính của các chủ thể
có thẩm quyền giám sát đối vói các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, có nguồn là các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện.
Từ quan niệm trên cho thấy, thông qua việc điều chỉnh quan hệ xã hội
phát sinh từ hoạt động giám sát đối với hoạt động hành chính của các cơ quan
nhà nước ở địa phương, pháp luật về giám sát hoạt động này xác định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước trong hoạt động

giám sát. Chính từ đây, pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có những đặc điểm sau:
- Về mục đích:
Pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương có mục đích chung là điều chỉnh hoạt động giám sát của
các chủ thể có chức năng giám sát đối với hoạt động hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương. Các quy phạm pháp luật được quy định ngày
càng cụ thể hơn và hoàn thiện hơn nhằm mục đích chung là đảm bảo cho hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương sử dụng đúng đắn và có
hiệu quả các nguồn lực của địa phương, tổ chức thực hiện tốt Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân, phát huy dân chủ, góp
phần tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước. Các quy phạm pháp luật về hoạt
động giám sát hoạt động hành chính nhà nước của các cơ quan hành chính nhà


20

nước ở địa phương tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể giám sát thực hiện hoạt
động theo dõi, kiểm tra, đánh giá những hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương. Thông qua hoạt động giám sát phát hiện kịp thời những sai
phạm, vi phạm trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước. Vai trò của pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương chỉ được bảo đảm khi mà các quy phạm
của nó cụ thể, thống nhất và đồng bộ, khắc phục được tình trạng vi phạm pháp
luật, sự lạm quyền của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, đồng thời
kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm xâm hại đến quyền và lợi ích của công
dân, đảm bảo thực hiện dân chủ trong xã hội.
- Về hình thức:
Các quy phạm pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ

quan hành chính nhà nước ở địa phương được hình thành từ Hiến pháp - luật cơ
bản của Nhà nước, trực tiếp là đến là các luật, như Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Luật Báo chí, Luật Thanh tra. Bên cạnh các văn bản luật, nguồn chủ
yếu của các quy phạm pháp luật về giám sát là các văn bản quy phạm pháp luật
dưới luật. Đây là một thực tế đã tồn tại nhiều năm ở nước ta, cần phải sớm khắc
phục cho phù hợp với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, theo đó, cần giảm dần các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
thay bằng văn bản luật; luật phải quy định cụ thể, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ
xã hội, và như thế sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hết sức quan trọng
này.
- Về nội dung:
Các quy phạm pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương xác định chủ thể giám sát, đối tượng
chịu sự giám sát, hình thức, trình tự thủ tục hoạt động giám sát, trách nhiệm


21

pháp lý của các cá nhân, tổ chức đối với hoạt động giám sát. Đây là đặc trưng
điển hình của các quy phạm pháp luật về giám sát, thể hiện ở tính cụ thể và
tính xác định chặt chẽ của nó.
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật giám sát hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Nội dung cơ bản của pháp luật giám sát hoạt động hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bao gồm những vấn đề cơ bản
sau:
Một là, các quy phạm quy định về chủ thể giám sát.
Các quy phạm quy định về chủ thể giám sát hoạt động hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có nguồn trong Luật Tổ chức Hội

đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Về Hội đồng nhân dân: Tại Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy định:
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương [45].
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành thường xuyên,
gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm: Giám sát của Hội đồng
nhân dân tại kỳ họp; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; giám sát của
các ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân.


22

Như vậy, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước địa phương thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương với cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Trong mối quan hệ đó cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước Hội đồng nhân
dân. Tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước địa phương
được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân nhằm đảm bảo
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước một cách
tốt nhất.
- Tòa án nhân dân: Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định:
Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương,

các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong
tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc
biệt ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải
quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân
dân theo quy định của pháp luật [12].
Giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương thông qua việc Tòa án giải quyết các vụ án hành chính nhằm giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước
giữa công dân với cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện hoạt động chấp
hành, điều hành và các hoạt động của cán bộ công chức nhà nước trong bộ
máy đó. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (năm 1995), Tòa hành chính
được thành lập trong cơ cấu của Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, có quyền và nghĩa vụ kiểm tra và phán quyết tính hợp hiến, hợp
pháp của các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Pháp luật quy định rõ, Tòa án nhân dân xét xử các vụ án hành chính khi:


23

+ Có sự khiếu kiện của công dân, tổ chức đối với quyết định hành chính
hay hành vi hành chính hay quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công
chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống.
+ Có quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm hại trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước hay tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội.
+ Có tranh chấp giữa cơ quan công quyền và công dân, tổ chức đã xảy
ra và những tranh chấp ấy không thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan hành
chính nhà nước hay của tòa án nào khác.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy

định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là:
Tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền
thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm
chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
thành viên hoạt động có hiệu quả [42].
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay có 32 thành viên, trong đó Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận, và có


24

5 thành viên là các tổ chức chính trị - xã hội, gồm Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc theo quy định của pháp luật
là hoạt động giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm
tra, thanh tra của Nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân.
Hoạt động giám sát của Mặt trận được thực hiện theo ba hình thức:

động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia hoạt động giám sát
với cơ quan nhà nước và trực tiếp giám sát thông qua các hình thức hoạt động
như: tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, biểu dương, khen thưởng người tốt,
việc tốt, kiến nghị xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp
luật. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức tạo điều kiện để Mặt trận thực hiện quyền giám sát. Khi nhận được kiến
nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem
xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định vai trò của
Mặt trận trong lĩnh vực giám sát như sau:
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám
sát mang tính chất nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra,
thanh tra của Nhà nước, góp phần xây dựng, bảo vệ Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân
[42].


25

Điều này cho thấy, pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã ghi nhận vai trò giám sát mang
tính xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là nhu cầu cần thiết của hoạt động
kiểm soát quyền lực nhà nước, bên cạnh các hình thức kiểm tra, thanh tra,
giám sát khác của Nhà nước.
- Giám sát của Ban Thanh tra nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương: Ban Thanh tra nhân dân có nhiệm vụ giám sát, phát
hiện, kiến nghị và khi cần thiết được giao nhiệm vụ kiểm tra những vụ việc
nhất định. Nội dung giám sát của Ban Thanh tra nhân dân là giám sát, kiểm

tra việc thực hiện chính sách, pháp luật nhà nước tại địa phương, đơn vị, cơ
quan mình. Do đó, Ban thanh tra nhân dân có vai trò quan trọng trong hoạt
động giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, đảm bảo cho các cơ quan này chịu sự giám sát mang tính nhân
dân (tính xã hội).
Điều 1, Luật Thanh tra năm 2004 quy định: "Ban thanh tra nhân dân
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm ở xó, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước" [46]. Ban thanh tra nhân dân được tổ chức như sau:
+ Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xó, phường, thị trấn do Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xó, phường, thị trấn hướng dẫn tổ chức, chỉ
đạo hoạt động.
+ Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước do Ban chấp hành Công đoàn cơ sở ở cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp đó hướng dẫn tổ chức, chỉ đạo hoạt động.
Như vậy, Ban thanh tra nhân dân là một chủ thể giám sát đối với hoạt
động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.


×