Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT hợp ĐỒNG đáp ỨNG yêu cầu của nền KINH tế THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.73 KB, 93 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, hợp đồng đã trở thành một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ
của các chủ thể phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Chúng ta đều biết
rằng, nhu cầu của các tổ chức và cá nhân trong đời sống xã hội vô cùng đa
dạng và phong phú. Để đáp ứng nhu cầu đó, con người phải quan hệ với nhau
thông qua các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, vật phẩm. Công việc của
các bên được thực hiện thông qua những cam kết đó là hợp đồng. Như vậy,
hợp đồng thể hiện trong hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều
lĩnh vực như dân sự, kinh tế, nghiên cứu khoa học... Chính vì vậy, việc áp dụng
những giao dịch, cũng như các nhu cầu về vận dụng pháp luật của nhà nước để
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng, thực
hiện hợp đồng cũng như giải quyết những tranh chấp liên quan đến hợp đồng là
hết sức cần thiết. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ dân
sự kinh tế càng trở nên phức tạp và trong điều kiện nước ta đã trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì yêu cầu này càng
trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này đã được minh chứng trong chính
các quy định của nhiều văn bản pháp luật, như Bộ luật Dân sự, Luật Thương
mại, Bộ luật Hàng hải Việt Nam... Riêng Bộ luật Dân sự bao gồm 215 điều quy
định về hợp đồng dân sự trên tổng số 777 điều luật, chúng ta có thể thấy được
tính phức tạp, đa dạng cũng như mức độ quan trọng của quan hệ hợp đồng.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn chứa đựng rất nhiều quy định có liên quan đến
hợp đồng.
Tuy hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên nhưng để sự tự
nguyện đó không không ảnh hưởng tới lợi ích của người khác và lợi ích của
cộng đồng thì cần thiết có sự điều chỉnh của pháp luật.



2

Trải qua các thời kỳ kinh tế - xã hội, pháp luật về hợp đồng của Việt
Nam cũng có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kinh tế tập trung (trước năm
1986) vấn đề hợp đồng chủ yếu mang tính hành chính mà tập trung nhiều và
biểu hiện rõ nét đó là các hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không thể hiện
đúng bản chất của hợp đồng. Sự ra đời của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Pháp
lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 1995 và đặc biệt sự ra đời Bộ luật
Dân sự năm 2005, chế định hợp đồng đã được hoàn thiện ở một mức độ cơ
bản.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 có nhiều quy định mới tiến bộ về hợp
đồng nhưng việc áp dụng trong thực tế đang bộc lộ những điểm bất cập, những
thiếu sót hạn chế. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu làm rõ các quy
định mới của Bộ luật dân sự 2005 liên quan đến hợp đồng; đánh giá sự tác động
của chúng đến thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng, phát hiện những quy định
bất hợp lý và từ đó đề xuất khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp
luật đối với quan hệ hợp đồng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường…
Xuất phát từ lý do như vậy mà học viên đã chọn đề tài: "Hoàn thiện
pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoa học pháp lý Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
tới các vấn đề khác nhau của hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Chế độ hợp
đồng trong nền kinh tế thị trường ở giai đoạn hiện nay" của tác giả Phạm Hữu
Nghị, Hà Nội, 1996; Đề tài luận án tiến sĩ "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật
kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta" của tác giả Bùi
Ngọc Cường, 2001; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu và
hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; Công trình
nghiên cứu khoa học "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân



3

sự vô hiệu tại Tòa án nhân dân" của tác giả Nguyễn Văn Luật, 2003; "Hợp
đồng kinh doanh vô hiệu: Lý luận và thực tiễn", Tài liệu Hội thảo về việc xử
lý hợp đồng vô hiệu, Diễn đàn doanh nghiệp và Câu lạc bộ Luật gia Việt Đức, Hà Nội... và nhiều công trình của nhiều tác giả khác. Các công trình
nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có giá trị tham khảo và
cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Tuy nhiên, kể từ sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực, chưa
có một công trình nào đề cập hệ thống và toàn diện về hợp đồng cũng như
điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp
luật đối với quan hệ hợp đồng, đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng
trong điều kiện thi hành Bộ luật Dân sự 2005, đồng thời chỉ ra những khó
khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất giải
pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật hợp đồng để nâng cao hiệu quả áp dụng của
pháp luật về hợp đồng trong thực tiễn.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ vai trò của pháp luật trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng;
- Xác định cấu trúc pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thực hiện
Bộ luật Dân sự 2005;
- Đánh giá thực trạng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng ở Việt
Nam;
- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp



4

luật đối với hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến ký kết, thực hiện hợp
đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với
ký kết hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ và tài
sản của các bên trong hợp đồng nhằm bảo đảm hợp đồng là một công cụ hiệu
quả trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh
đó, để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn còn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích và tổng hợp,
so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận văn đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về
hợp đồng để từ đó nêu lên được những thiếu sót và bất cập đối với pháp luật
về hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, luận văn đề xuất một số định hướng và giải pháp trong việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu tổng hợp lý luận ở chương một, phân tích thực
trạng ở chương hai và những giải pháp của chương ba của luận văn đã góp
phần cung cấp những luận cứ khoa học để thấy rõ vai trò của hợp đồng cũng
như pháp luật về hợp đồng trong đời sống giao lưu kinh tế và đặc biệt là các

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.


5

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY

1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI, VAI TRÒ CỦA HỢP ĐỒNG

1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm của hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã hình thành
và phát triển hàng nghìn năm nay. Nó tồn tại và phát triển trong xã hội
phương Tây, xã hội phương Đông hay cả chính xã hội như Bắc Mỹ, châu Úc.
Như vậy, để tìm hiểu thể nào là hợp đồng, cơ sở cho sự hình thành hợp đồng
cũng như sự ra đời của pháp luật về hợp đồng, trước hết ta khái quát tóm lược
những quan điểm về hợp đồng của các nước cũng như các khu vực trên thế
giới.
Khởi nguồn từ triết lý pháp luật tự nhiên, dựa trên các giá trị pháp luật
hợp đồng của La Mã và các học thuyết về quyền cá nhân, hợp đồng và pháp
luật hợp đồng phương Tây đã có hơn hai nghìn năm để phát triển các học

thuyết về tính bắt buộc thực hiện của hợp đồng, công bằng, thống nhất về ý
chí và trách nhiệm đối với việc không tuân thủ nghĩa vụ và cam kết. Vì cá
nhân là trung tâm của xã hội phương Tây nên sự bày tỏ ý chí cá nhân, các
cam kết và hợp đồng trở thành công cụ chủ yếu để tổ chức các quan hệ xã hội.
Điều đó cho thấy, trật tự xã hội từ nhỏ đến lớn đều dựa trên khế ước - "khế
ước xã hội ", những người nghỉ hưu và chính sách an sinh là "khế ước giữa
các thế hệ", còn trong hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh căn cứ theo
"hợp đồng công ty". Ví dụ, người Anh quan niệm về hợp đồng như sau: Điểm
cốt yếu của hợp đồng là sự gặp gỡ các ý chí của các bên trong việc thoả thuận


7

cuối cùng và đầy đủ. Quan điểm của luật pháp Hoa Kỳ lại cho rằng: hợp đồng
như một trong những phương pháp khác thủ đắc quyền sở hữu động sản và
chỉ phân biệt nó với tặng cho (Commenarien on Laws of England). Tự do
giao kết và tuân thủ nội dung của hợp đồng là một yếu tố hình thành nên trật
tự xã hội phương Tây. Ngược lại, đối với phương Đông, nền tảng của xã hội
không phải là chủ nghĩa cá nhân, mà là gia đình, là tính cộng đồng. Xã hội
phương Đông tìm sự ổn định thông qua việc giữ gìn tôn ti trật tự, từ chuyện
nhỏ trong gia đình, đến việc "trong họ, ngoài làng", cho tới "quốc gia đại sự"
con người cần biết và tuân thủ bổn phận của mình theo "nhân, nghĩa, trí, lễ,
tín". Hợp đồng khi được thu nạp vào các xã hội phương Đông truyền thống
cần ghi nhận sự tin tưởng, quan hệ, thể hiện giữa các bên giao kết - một dấu
hiệu của các ràng buộc mang tính xã hội.
Nếu như hợp đồng và đền bù là hai lĩnh vực pháp luật trái vụ cổ điển
của phương Tây, thì các quy định về khế ước cũng như hợp đồng trong hệ
thống trong các bộ luật cổ Việt Nam, được thể hiện cụ thể nhất trong hệ thống
pháp luật của nhà Lê về các nội dung: hiệu lực và sự vô hiệu của hợp đồng,
hình thức hợp đồng; nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; phạt hợp đồng và đền bù

thiệt hại (theo cổ luật Việt Nam lược khảo) được thể hiện ẩn dưới các quy
định hình luật. Pháp luật thời Lê đề cao sự tự nguyện giao kết và thực hiện
khế ước, quy định thể thức giao kết bằng văn bản, cách lập văn bản và làm
cứng các khế ước, cho đến việc định hình phạt và đền bù cho vi phạm khế
ước.
Từ những quan điểm về hợp đồng như đã nêu trên, ta thấy chủ thể của
hợp đồng chính là những cá nhân hoặc các tổ chức. Để tồn tại và phát triển,
mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã
hội khác nhau. Trong các quan hệ đó, tồn tại mối quan hệ khi các bên thiết lập
với nhau để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt, tiêu dùng và kinh doanh đóng một vai trò quan trọng như là một tất


8

yếu đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật
chất, tài sản đó không thể tự chúng tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ.
Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các
chủ thể. Mác nói rằng: "Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao
đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những
người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong
các vật đó".
Mặt khác, nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được
bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ để qua đó thực
hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do
đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ
trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp
đồng. Như vậy, cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất để hình thành một hợp đồng
là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên tham gia hợp đồng. Tuy
nhiên, hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các bên phù hợp

quy định của pháp luật. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng,
nhưng sự "tự do" ấy phải được đặt trong giới hạn để không xâm hại đến lợi
ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì hợp đồng có hiệu lực pháp
luật đối với các bên giao kết. Nghĩa là, từ lúc đó, các bên đã tự nhận về mình
những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Sự "can thiệp" của Nhà nước không những
là việc buộc các bên phải giao kết hợp đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo
đức xã hội mà còn buộc các bên phải thực hiện hợp đồng đúng với những cam
kết mà họ đã thoả thuận. Theo nội dung đã cam kết, dưới sự hỗ trợ của pháp
luật, các bên phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau.
Về bản chất, hợp đồng là một giao dịch mà trong đó các bên thỏa thuận
với nhau nhằm đi đến thống nhất để cùng nhau làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ nhất định. Trên phương diện này, hợp đồng vừa được xem xét ở


9

dạng cụ thể vừa được xem xét ở dạng khái quát. Qua các thời kỳ phát triển
kinh tế-xã hội, pháp luật Việt Nam dưa ra những khái niệm khác nhau về hợp
đồng. Theo Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991:
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản làm một việc hoặc
không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó
một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng [73].
Bộ luật Dân sự 2005 đưa ra định nghĩa về hợp đồng khái quát hơn:
"Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005).
Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển tài
sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thỏa thuận để

thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Đối với các hợp đồng được ký kết
nhằm mục đích kinh doanh ngoài có những dấu hiệu chung của hợp đồng thì
hợp đồng doanh có sự khác biệt thêm. Hợp đồng kinh doanh được hiểu là sự
thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực
hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích tìm kiếm lợi nhuận
với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Điều một Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 định nghĩa: Hợp
đồng kinh tế là những hợp đồng được ký kết giữa các bên nhằm sản xuất, mua
bán, lưu thông hàng hóa, trao đổi dịch vụ, nghiên cứu, liên doanh liên kết giữa
các bên nhằm sản xuất, mua bán, lưu thông hàng hóa, trao đổi, dịch vụ,
nghiên cứu, liên doanh, liên kết sản xuất nhằm bất kỳ một mục đích kinh
doanh khác để thực hiện tốt kế hoạch của bản thân các bên ký kết và thu lợi
nhuận. Hoạt động có thể bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần


10

kinh tế, đó có thể là công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ký
kết hợp đồng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các
hoạt động kinh doanh hết sức đa dạng: đầu tư vốn, sản xuất, mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ trên thương trường. Hợp đồng được ký kết trong nhiều lĩnh
vực kinh doanh khác nhau như mua bán hàng hóa, vận chuyển, xây dựng, bảo
hiểm, tín dụng, đại lý, ủy thác, liên kết kinh doanh… Hình thức của hợp đồng
có thể bằng lời nói, văn bản hoặc bằng các hành vi cụ thể.
Tóm lại, từ những nội dung cơ bản nhất của hợp đồng nói chung, hợp
đồng dân sự, hợp đồng trong hoạt động kinh doanh và cả quan điểm nước
ngoài cũng như quan điểm của các tổ chức thế giới cho thấy: Hợp đồng là

thoả thuận của các bên nhằm thống nhất các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
1.1.1.2. Những đặc điểm của hợp đồng
Trên cơ sở bản chất và khái niệm về hợp đồng đã nêu, ta thấy hợp đồng
có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng
Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành
nghề khác nhau mà pháp luật giới hạn phạm vi chủ thể cho phù hợp để nhằm
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.
Với các hợp đồng dân sự thông thường, chủ thể là các cá nhân, pháp
nhân, hay các tổ chức khác. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ thể của
hợp đồng kinh doanh được quy định rất cụ thể đó thường là thương nhân đáp
ứng những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
Tựa chung lại, chủ thể của hợp đồng bao gồm cá nhân có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự, các tổ chức, doanh nghiệp, và các pháp
nhân khác… được pháp luật thừa nhận có tư cách pháp lý độc lập với nhau,


11

hoàn toàn bình đẳng với nhau khi tham gia quan hệ hợp đồng. Tuỳ từng loại
hợp đồng mà pháp luật có thể quy định những điều kiện ràng buộc cho các
chủ thể hợp đồng phải dáp ứng, ví dụ: cá nhân phải đủ độ tuổi, doanh nghiệp
phải có ngành nghề kinh doanh phù hợp.
Thứ hai, sự tự nguyện khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng
Cơ sở hình thành hợp đồng là sự tự nguyện từ tự do ý chí của các bên.
Các điều kiện của hợp đồng được giải thích trong các điều kiện tự do ý chí,
xem xét về vấn đề tự do ý chí ta thấy: Một mặt, tự do ý chí được xuất phát từ
nền tảng là tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay
không làm một công việc gì đó ngoài ý muốn của họ, Mặt khác, tự do ý chí có
nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà xuất

phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí
được hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên,
trong điều kiện đa dạng và phức tạp của các mối quan hệ ngày nay khi mà con
người sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà lợi ích kinh tế của mọi người
là không bằng nhau thì chính ích lợi của các bên khi tham gia giao kết hợp
đồng vẫn bị giới hạn và bắt buộc những lợi ích đó phải phù hợp với lợi ích
chung của xã hội.
Tính độc lập và sự phụ thuộc của hai nhóm lợi ích đó (lợi ích của các
bên tham gia hợp đồng và lợi ích của xã hội) đã làm nảy sinh nghĩa vụ trong
hợp đồng. Như vậy, tự do ý chí, tự do thoả thuận và tự do giao kết hợp đồng
cũng bị giới hạn phần nào, sự giới hạn đó chính là sự can thiệp của pháp luật
thông qua việc nhà nước ban hành những điều bắt buộc cho các bên tham gia
quan hệ hợp đồng (ví dụ: điều kiện chủ thể,…).
Tóm lại, trên cơ sở tự do ý chí của các bên khi thỏa thuận và ký kết
hợp đồng, sự can thiệp của pháp luật về vấn đề hợp đồng sẽ bảo đảm cho các
quan hệ hợp đồng được phát triển ổn định và đúng định hướng đã dự định.


12

Thứ ba, các bên bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Cơ quan nhà nước đã được ấn định thì người cán bộ công chức phải
có nghĩa vụ hoàn thành, việc hoàn thành nghĩa vụ đó như một yêu cầu bắt
buộc. Trong một cơ quan, tổ chức, nhiệm vụ của cán bộ cấp trên giao cho cán
bộ cấp dưới phải phục tùng chịu sự phân công và chỉ đạo của cán bộ cấp trên.
Trong mối quan hệ này cơ sở hình thành quyền và nghĩa vụ bắt nguồn từ
quyết định đơn phương của thủ trưởng cấp trên, của cơ quan nhà nước và nó
mang tính mệnh lệnh hành chính. Khác với tính bất bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong các quan hệ trên, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng luôn ngang bằng và bình đẳng nhau. Trong hợp đồng, quyền lợi của bên

này có nghĩa đó là nghĩa vụ của bên còn lại và ngược lại nghĩa vụ của bên này
chính là quyền của bên còn lại. Quyền và nghĩa vụ của các bên hình thành từ
sự tự nguyện thoả thuận của các bên, các bên tự mình đàm phán, trao đổi và
ghi nhận quyền và nghĩa vụ đó.
Thứ tư, về hình thức của hợp đồng
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng được ký kết dưới
nhiều hình thức khác nhau như: văn bản, lời nói hay các hành vi cụ thể; trong
một số trường hợp khác pháp luật quy định hợp đồng phải ký dưới một hình
thức nhất định (như hợp đồng phải ký bằng văn bản có công chứng, chứng
thực hợp lệ) thì phải tuân thủ hình thức đó. Văn bản là hình thức có thể thể
hiện một cách hữu hình nội dung của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận với
nhau. Đó có thể là bản hợp đồng với đầy đủ chữ ký của các bên hoặc công
văn, tài liệu giao dịch chứa đựng những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà
các bên đã thỏa thuận được với nhau.
1.1.2. Phân loại hợp đồng
Tùy thuộc vào nội dung, tính chất hình thức của từng quan hệ hợp
đồng, người ta phân biệt thành nhiều loại hợp đồng khác nhau:


13

- Căn cứ vào nội dung và tính chất cụ thể của hợp đồng mà chia thành
từng loại hợp đồng riêng như: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng xây dựng,
vận chuyển, tín dụng, thuê tài sản, hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại,
hợp đồng lao động, hợp đồng khoa học công nghệ
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, quan hệ hợp đồng chia thành: hợp đồng
bằng văn bản, hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng có chứng nhận, chứng thực...
+ Hợp đồng bằng văn bản
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có
thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản và cùng ký xác nhận.

Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng
cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức hợp đồng được giao kết bằng lời nói.
Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của
mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng có giá trị lớn, tính chất
phức tạp,các bên chưa thực sự tin tưởng nhau thì các bên thường chọn hình thức
này. Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản,
coi như đã có trong tay một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
Trong những hợp đồng bằng văn bản có thể chia thành hợp đồng ký
bằng văn bản thông thường và hợp đồng ký bằng văn bản có công chứng,
chứng thực hợp lệ.
+ Hợp đồng có chứng nhận, chứng thực
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và
đối tượng của nó là những tài sản mà Nhà nước cần quản lý, kiểm soát khi
chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác, thì các bên phải
lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng được lập ra theo hình
thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà
pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của


14

mình được đảm bảo, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp
đồng.
+ Hợp đồng bằng lời nói
Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận
miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện
những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong
những trường hợp các bên thân quen hoặc đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối
với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
- Căn cứ vào sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ các bên, có thể chia

thành: Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
+ Hợp đồng song vụ
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có quyền và
nghĩa vụ. Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là
người vừa có quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của loại hợp
đồng này, quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên
kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp đồng song vụ được giao kết theo hình thức
văn bản, thì phải lập thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản hợp đồng.
Tại khoản 1 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa: "Hợp đồng song vụ
là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau" [56].
+ Hợp đồng đơn vụ
Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có
nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền
nhưng không phải thực hiện một nghĩa vụ nào.
Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể
trong hợp đồng dân sự được bắt đầu từ thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu
lực.


15

- Căn cứ theo sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng, có
thể chia thành:
+ Hợp đồng chính
Tại khoản 3 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Hợp đồng
chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác" Như
vậy, các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã
quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên từ thời điểm giao kết.
+ Hợp đồng phụ

"Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc và hợp đồng
chính" (khoản 4 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005). Trước hết các hợp đồng phụ
muốn có hiệu lực phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, về
nội dung, về hình thức v.v... Mặt khác, dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều
kiện nói trên nhưng hợp đồng vẫn không có hiệu lực nếu hợp đồng chính (hợp
đồng mà nó phụ thuộc) bị coi là không có hiệu lực.
- Căn cứ theo tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, có thể
chia thành:
+ Hợp đồng có đền bù
Là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể khi đã thực hiện cho
bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng ta
biết rằng, đặc điểm cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự trao
đổi có đền bù. Tuy nhiên, không nhất thiết cứ bên này hưởng lợi ích vật chất
thì bên kia hưởng lợi ích vật chất mới được coi là "đền bù tương ứng". Do
nhu cầu đa dạng, các bên có thể thỏa thuận để giao kết những hợp đồng mà
trong đó một bên hưởng lợi ích vật chất nhưng bên kia lại hưởng một lợi ích
thuộc về tinh thần. Cần xác định rằng các hợp đồng mang tính chất đền bù đa
phần là hợp đồng song vụ cũng như đa phần các hợp đồng song vụ đều mang


16

tính đền bù. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng dù mang tính chất
đền bù nhưng lại là hợp đồng đơn vụ như hợp đồng cho vay có lãi mà hiệu lực
của nó được xác định tại thời điểm bên vay đã nhận tiền. Mặt khác, có nhiều
hợp đồng song vụ nhưng không mang tính chất đền bù như hợp đồng gửi giữ
không có thù lao.
+ Hợp đồng không có đền bù
Hợp đồng không đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận
được từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. Bên

cạnh việc sử dựng hợp đồng làm phương tiện trao đổi những lợi ích, các chủ
thể còn dùng nó làm phương tiện để giúp đỡ nhau. Vì vậy, hợp đồng không có
đền bù thường được giao kết trên cơ sở tình cảm và tinh thần tương thân,
tương ái giữa các chủ thể. Có thể nói rằng, nếu tiền đề của hợp đồng có đền
bù là những lợi ích (mà đa phần là lợi ích vật chất) thì tiền đề của hợp đồng
không có đền bù là mối quan hệ tình cảm sẵn có giữa các chủ thể. Đây là một
loại hợp đồng dân sự mà tính chất của nó đã vượt ra ngoài tính chất của quy
luật giá trị bởi sự chi phối của yếu tố tình cảm. trên sơ sở tình cảm, các bên
thiết lập các hợp đồng không có đền bù để giúp đỡ nhau. Do đó, trong quá
trình giao kết loại hợp đồng này dù đã hứa hẹn (đã có sự thống nhất ý chí)
nhưng việc chấp nhận đề nghị không mang tính chất ràng buộc đối với bên
được đề nghị. Vì vậy, đối với hợp đồng tặng cho tài sản, pháp luật đã quy
định có hiệu lực khi các bên đã thực tế trao cho nhau đối tượng tặng cho hoặc
đã hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu.
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực, có thể chia thành:
+ Hợp đồng ưng thuận
Hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà theo quy định của pháp
luật, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh quay sau khi các bên đã thỏa
thuận với nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong trường hợp


17

này, dù rằng các bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng
đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện
hợp đồng. Hay nói cách khác, hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà thời
điểm có hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm giao kết.
+ Hợp đồng thực tế
Hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực
của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối

tượng của hợp đồng.
- Căn cứ vào tính chất của nội dung của hợp đồng, người ta có thể hợp
đồng thành các loại hợp đồng như: hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại,
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, hợp đồng lao động, hợp đồng khoa học
công nghệ …
- Ngoài các cách phân loại hợp đồng như trên, pháp luật của nhiều
nước còn có nhiều cách phân loại hợp đồng khác
Tóm lại, việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa
dựa vào sự quy định của pháp luật, vừa dựa trên phương diện lý luận, vừa dựa
trên phương diện thực tiễn. Qua đó, nhằm xác định được những đặc điểm
chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong
quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
1.1.3. Vai trò của hợp đồng
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng cũng như các hình thức khác nhau
của hợp đồng đã được pháp luật ghi nhận và đã có ý nghĩa đối với đời sống xã
hội. Ta thấy hợp đồng có một số vai trò nhất định như sau:
- Hợp đồng là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
các bên. Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng


18

kế hoạch cụ thể và chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng
không có phương hướng và để bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo
đảm thì một trong những cơ sở quan trọng bắt nguồn của vấn đề chính là hợp
đồng. Hợp đồng là một phương tiện để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của
các bên ký kết. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, cơ
sở để cho sự phân minh cũng như khẳng định tính đúng sai không thể có nội
dung nào khác quan trọng hơn đó chính là hợp đồng. Bên cạnh những nội
dung chính của hợp đồng như: tên của hợp đồng, tên chủ thể, tên mặt hàng,

phương thức thanh toán... nhưng trong đó có nhiều hợp đồng quy định rất cụ
thể tiến độ thực hiện các nội dung được thoả thuận trong hợp đồng (ví dụ như
các hợp đồng liên quan đến xây dựng công trình, các loại hợp đồng BOT, BT,
…) và như vậy nội dung hợp đồng sẽ trở thành tiêu chí để kiểm tra việc thực
hiện các thoả thuận của các bên. Hay nói cách khác, hợp đồng được xem như
công cụ để các bên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
- Hợp đồng làm cho lợi ích của các bên ký kết phù hợp với lợi ích
chung của nền kinh tế quốc dân. Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được
các bên tự thoả thuận nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật
và việc các nhà xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo để ban hành đã
phải tính toán các lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
- Hợp đồng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế quản
lý mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự điều tíêt của nền kinh tế được đặt dưới điều tiết
của nhà nước và sự tự điều tiết của các quy luật thị trường. Nhà nước chỉ tập
trung quản lý ở tầm vĩ mô, còn quá trình tổ chức và quản lý sẽ thuộc về các
doanh nghiệp. Đối với các giao lưu dân sự thông thường, Nhà nước luôn đề
cao quyền tự do của cá nhân, chính vì vậy việc quản lý của nhà nước cũng
như việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ yếu được đánh giá qua


19

sự thoả thuận của các bên. Nếu như trước đây, Nhà nước luôn là trung tâm
quản lý trực tiếp đối với doanh nghiệp thì nay sự quản lý đó lại để cho các
doanh nghiệp tự quản lý và nhà nước chỉ tập trung quản lý theo phương pháp
mới như quản lý về thuế, quản lý tỷ giá hối đoái, quản lý về chính sách
thương mại, và quản lý xã hội bằng pháp luật. Như vậy, một trong những nội
dung quan trọng để nhà nước quản lý và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các
cá nhân và tổ chức đó là hợp đồng. Bên cạnh nhà nước sử dụng hợp đồng như

một công cụ quản lý mới thì chính các tổ chức với tổ chức, tổ chức với cá
nhân thành viên có liên quan, cá nhân với cá nhân, hợp đồng cũng là cơ sở tạo
sự ràng buộc lẫn nhau và trở thành công cụ quản lý hiệu quả.
1.2. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC, CẤU TRÚC CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG

1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng
Từ khái niệm về hợp đồng, các đặc điểm của hợp đồng cũng như vai
trò của hợp đồng đã trình bày ở phần một của chương một cho ta thấy các
quan hệ về hợp đồng tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ lĩnh vực kinh
doanh, linh vực dân sự, lao động, tín dụng và khoa học công nghệ. Điều này
cho thấy quan hệ hợp đồng có phạm vi rất rộng. Quan hệ hợp đồng có thể chỉ
là các quan hệ rất đơn giản như việc mua bán hàng hoá đơn gian của đời sống
dân sự hàng ngày(trong những trường hợp này, các hợp đồng thường chỉ là
hợp đồng bằng lời nói) tới các hợp đồng có nội dung rất phức tạp bao gồm
nhiều chủ thể tham gia, nội dung lớn với nhiều bộ phận khác nhau đẻ thực
hiện các nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng (trong trường hợp
này, các hợp đồng thường là hợp đồng thương mại, hợp đồng xây dựng BTO,
BOT, BT, hay các hợp đồng mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu). Để bảo đảm
các quan hệ hợp được phát triển đúng mục đích và yêu cầu của nhà nước cũng
như quan hệ hợp đồng được ký kết và thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng và
tự nguyện của các bên, bảo đảm lợi ích cũng như nghĩa vụ cho các bên tham


20

gia ký kết thì quan hệ hợp đồng cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Do tính chất đa dạng của hợp đồng là tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội chính dẫn tới các quy định pháp luật do nhà nước ban
hành để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng tồn tại trong nhiều ngành luật
khác nhau, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bộ luật Dân

sự là văn bản pháp luật chứa dựng nhiều quy định nhất về hợp đồng, đây cũng
là văn bản quy định luật chung về hợp đồng. Bên cạnh Bộ luật Dân sự, luật
Thương mại, Luật Điện lực, Bộ luật Lao động…cũng quy định về vấn đề hợp
đồng và chúng được áp dụng cho các hợp đồng chuyên ngành. Như vậy, đối
với nhiều nhóm quan hệ có tính độc lập sẽ hình thành một ngành luật riêng: ví
dụ, quan hệ lao động sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động, các quan hệ
dân sự sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự… Đối với các quan hệ hợp
đồng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau và thể hiện ở nhiều dạng quan
hệ khác nhau (quan hệ dân sự, quan hệ thương mại…) dẫn tới pháp luật về
hợp đồng cũng rất đa dạng và tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau(Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật bảo hiểm, luật Điện lực…). Từ
những nội dung đã phân tích như trên, ta có bước đầu hình dung pháp luật về
hợp đồng là hệ thống các quy định do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các
quan hệ về hợp đồng. Ở Việt Nam, do tính chất riêng biệt của quan hệ hợp
đồng tồn tại trong nhiều nhành nghề khác nhau, nhièu lĩnh vực khác nhau mà
Quốc hội của nước Việt Nam sẽ không ban hành văn bản pháp luật quy định
riêng biệt về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng của nước ta tồn
tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài các quy định
chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự có thể tìm thấynhững quy định về từng
hợp đồng cụ thể trong các văn bản khác nhau như: Luật Thương mại, Luật Kinh
doanh bảo hiểm... Các hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau sẽ do pháp luật
chung về hợp đồng kết hợp với pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Chẳng hạn,
hợp đồng thương mại sẽ do Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại điều chỉnh; hợp


21

đồng lao động sẽ do Bộ luật Lao động điều chỉnh... Khi nói tới pháp luật về hợp
đồng, nhiều người có quan điểm rằng phải tách riêng từng loại hợp đồng riêng
biệt. Chẳng hạn, hợp đồng dân sự sẽ có những nội dung và đặc điểm khác với

hợp đồng trong kinh doanh, hợp đồng thương mại khác với hợp đồng lao
động…
Tuy nhiên, để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể được thực
hiện có hiệu quả và bảo đảm được sự quản lý của nhà nước thì nhà nước ban
hành nhiều quy phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề
của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng bao gồm một hệ thống các văn
bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều
luật quy định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các quy tắc xử
sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật
về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử
sự, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện
nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng
1.2.2.1. Tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do cam kết, thỏa
thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự. Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ.
Khi cam kết, thỏa thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai
dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý
chí của người đó. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên
có thể coi là vô hiệu.
Khi tiến hành thỏa thuận các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy
bất cứ một lí do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể


22

bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi
giao kết hợp đồng. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:
- Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ hợp đồng không phụ

thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên
phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực
hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền.
Trong quan hệ hợp đồng các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập
và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Ngoài ra, đòi hỏi các bên
phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên,
trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nếu một
bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ.
1.2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
hợp đồng
Trách nhiệm trong hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lí nhưng
trước tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người
có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và
nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự
chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường
thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi
của mình (Điều 7 Bộ luật Dân sự).
Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng
nhất của công dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi
trong các quyền dân sự của các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi


23

chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản của các chủ thể
khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác, ngoài việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính…) cơ quan nhà nước có

thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự với mục đích khôi phục lại tình
trạng tài sản của người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các
chủ thể được thực hiện bình đẳng (Điều 9 Bộ luật Dân sự).
1.2.2.3. Bảo vệ trật tự công và lợi ích của người thứ ba ngoài quan
hệ hợp đồng
"Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của
người khác".
Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của các bên tham gia vào quan hệ đó. Tuy nhiên,
khi thực hiện các hành vi không được phép thực hiện tùy tiện mà phải thực
hiện trong khuôn khổ, giới hạn của hợp đồng. Quyền của một chủ thể được
giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, nhằm bảo đảm việc các chủ thể gây thiệt hại cho các chủ thể còn lại thì
phải bồi thường các thiệt hại như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
1.2.2.4. Tôn trọng và tuân thủ pháp luật, đạo đức và truyền thống
tốt đẹp
Quan hệ hợp đồng luôn luôn đề cao tính tự nguyện và sự tự do ý chí
của các bên trong việc thoả thuận ký kết hợp đồng, Nội dung này của hợp
đồng luôn được pháp luật ghi nhận và bảo đảm. Tuy nhiên, việc phát huy
quyền tự do hợp đồng của các bên luôn phải được đặt trong mố quan hệ với
lợi ích của người khác và những giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì vậy,
quyền tự do hợp đồng luôn phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của nhà
nước, nghĩa là các bên được quyền phát huy tối đa quyền tự do hợp đồng


24

nhưng việc phát huy đó phải đặt trong sự kiểm soát của pháp luật (trong
khuôn khổ pháp luật). Bên cạnh việc tuân thu đúng và đầy đủ các quy định

của pháp luật các ben tham gia hợp đồng cần phải tôn trọng những giá trị đạo
đức và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tình đoàn két tương thân
tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và vì truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc anh em tren đất nước Việt Nam
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
hiện hành
Xét về cấu trúc hình thức thì pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
rất đa dạng, tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài
những quy định trực tiếp về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có thể tìm
thấy nhiều quy định có liên quan đến hợp đồng trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế như: kinh doanh điện lực, thương mại,
tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận chuyển, đầu tư, chuyển giao
công nghệ, đất đai...
Để đơn giản trong việc xác định cấu trúc hình thức của pháp luật
hợp đồng, có thể chia hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thành
hai nhóm:
Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung về hợp đồng
Nhóm văn bản pháp luật này quy định những vấn đề chung, mang tính
nguyên tắc về mọi loại hợp đồng, không phân biệt lĩnh vực phát sinh quan hệ
hợp đồng. Các văn bản pháp luật chung về hợp đồng là Bộ luật Dân sự
Pháp luật chung về hợp đồng của nước ta có nhiều thay đổi qua từng
thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội:
- Giai đoạn trước ngày 01/01/2006 (là ngày Bộ luật Dân sự năm 2005
có hiệu lực)


25

Trong giai đoạn này thì pháp luật chung về hợp đồng chủ yếu được điều
chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 1995(áp dụng cho các hợp đồng dân sự) và

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 (áp dụng cho các hợp đồng được
coi là hợp đồng kinh doanh).
- Giai đoạn sau ngày 01/01/2006:
Kể từ ngày 01/01/2006 thì luật chung về hợp đồng chỉ là Bộ luật Dân
sự năm 2005. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 thay thế cho Bộ luật
Dân sự năm 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.
Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung về hợp
đồng chuyên ngành
Bên cạnh những quy định trong các văn bản pháp luật chung về hợp
đồng thì trong từng lĩnh vực kinh tế cụ thể, Nhà nước còn ban hành các quy định
riêng về từng loại hợp đồng. Đây là nhóm văn bản pháp luật chuyên ngành về
hợp đồng. Ví dụ: Luật Điện lực, Luật Thương mại, Luật Xây dựng, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa...
- Pháp luật về hợp đồng chuyên ngành
Trong từng lĩnh vực kinh tế có thể có những quy định riêng về từng
loại hợp đồng cụ thể. Ví dụ:
+ Luật Điện lực và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số
105/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực;
+ Luật Thương mại năm 2005.
+ Luật Đấu thầu (có hiệu lực từ 01/4/2006).
+ Luật Kinh doanh bảo hiểm (09/12/2000).
+ Luật Đất đai năm 2003.


×