Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Buổi thảo luận thứ năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.13 KB, 14 trang )

Hồ Hoàng Linh
1453401010121
52-QTKD39

Buổi thảo luận thứ năm :
Trách nhiệm dân sự , vi phạm hợp đồng
Vấn đề 1 : Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng
gây ra
*Tóm tắt bản án :
- ngày 01/11/2016 , Cty TNHH sản xuất kinh doanh xuất - nhập khẩu
Bình Minh - Chi nhánh tp.HCM ( bên A ) kí hợp đồng với bà Bình ( bên
B ) thực hiện việc mua bán căn hộ AE 305 tại khu căn hộ cao cấp Bitexco
số 91 Nguyễn Hữu Cảnh , p.22 , quận Bình Thạnh ( The Manor ) với nội
dung :
+ Căn hộ ( 2 phịng ngủ ) có diện tích 113,48 m2 tại tầng 3 của The
Manor với giá 167.000 Đô la Mỹ
+ Thời hạn trả tiền và giao nhận căn hộ là 25/11/2006
- Ngày 24/11/2006 , Cty Bitexco , Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
và bà Bình đã ký kết văn bản thỏa thuận 3 bên về việc vay vốn và mua
bán căn hộ bao gồm các thỏa thuận theo thứ tự ưu tiên : thỏa thuận về
hợp đồng vay vốn và mua bán căn hộ , hợp đồng tín dụng , hợp đồng thế
chấp , hợp đồng mua bán căn hộ
- Ngày 01/10/2007 Cty Bitexco khởi kiện , yêu cầu hủy bỏ hợp đồng mua
căn hộ đã ký kết với bà Bình với lý do
+ Ngày 23/11/2006 bà Bình có đơn đề nghị chậm thanh tốn số tiền cịn
lại là 403.155.000 đồng trong 6 tháng với lãi suất 1.1%/tháng và được
Cty chấp nhận
+ Ngày 25/11/2006 , Cty giao căn hộ cho bà Bình . Với lý do kém chất
lượng nên bà Bình được Cty cho mượn căn hộ B-502 sử dụng trong thời
gian sửa chữa căn hộ AE - 305 . Tuy nhiên khi việc sửa chữa kết thúc bà
Bình khơng đồng ý nhận và cũng khơng thanh tốn số tiền còn thiếu


- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam yêu cầu bà Bình phải trả nợ
- Ngày 26/02/2008 bà Bình có đơn kháng cáo bản án
Câu 1 : Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam ? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS
2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng
a) Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng


theo pháp luật Việt Nam
- Có hành vi vi phạm hợp đồng: là một loại trách nhiệm pháp lý nên trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng chỉ được phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ
trong hợp đồng và áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm đó. Hành vi vi phạm
hợp đồng có thể là hành động hoặc khơng hành động.
- Lỗi: Lỗi trong trách nhiệm dân sự là trạng thái, tâm lý bên trong của người gây thiệt
hại thể hiện nhận thức và mong muốn của mình về hành vi gây thiệt hại. Lỗi là điều
kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây thiệt hại. Nếu bên có
nghĩa vụ hợp đồng khơng có lỗi, thì khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
khi có hành vi vi phạm.
- Có thiệt hại thực tế xảy ra: Thiệt hại được coi là yếu tố bắt buộc và tiền đề để quyết
định có phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại trong vi phạm
hợp đồng được hiểu là thiệt hại về vật chất. Có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc gián
tiếp và việc xác định thiệt hại là điều vô cùng quan trọng.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra: Giữa hai yếu
tố này phải có mối liên hệ nội tại, tất yếu, trong đó hành vi vi phạm trên thực tế phải
là nguyên nhân gây ra hậu quả. Nếu hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra mà
do ngun nhân khác thì sẽ khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định Điều 294
Luật Thương Mại 2005:
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
Mở rộng thêm vấn để, ta có thể thấy, ngày nay hay trong quy định cụ thể của Luật
Thương Mại 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng thì “yếu tố lỗi” khơng còn là căn cứ phát sinh bởi đã tồn tại trường hợp miễn trừ
trách nhiệm quy định cụ thể trong luật. Tuy nhiên đối với khía cạnh dân sự cụ thể
Khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 “Người không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng
nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cơ ý hoặc lỗi vô ý” tức bồi
thường thiệt hại xét theo khía cạnh trách nhiệm dân sự phải hội tụ thêm yếu tố lỗi bên
cạnh ba yếu tối nêu trên, tuy nhiên yếu tố lỗi ở đây cũng không cần phải xác định lỗi
cố ý hay vơ ý, tuy có sự khác biệt trong căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng của luật thương mại và BLDS nhưng về tinh thần ta có thấy thì
mức độ tác động của yếu tố lỗi trong xác định trách nhiệm là tương đương nhau theo
pháp luật Việt Nam.


=> BLDS có những quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa
vụ dân sự . Hợp đồng chính là một căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự “ Không
thực hiện đúng hợp đồng cũng là không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự “ . Vì vậy các
quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự được áp
dụng đối với việc không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng

b) Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng :
* Căn cứ Điều 360 BLDS 2015 : Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ

phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
* Căn cứ Điều 362 BLDS 2015 : Trước đây, BLDS 2005 không quy định về Bồi thường thiệt hại trong
trường hợp bên bị vi phạm có lỗi : Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của
bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.

Câu 2 : Tịa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản
thiệt hại nào ? Nêu rõ đoạn của bản án liên quan đến từng khoản
thiệt hại được bồi thường
a) Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt
hại : khoản tiền tương đương giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng định
giá và thiệt hại tiền thuê nhà
b) Đoạn liên quan đến các khoản thiệt hại được bồi thường
Căn cứ vào phần Quyết định của bản án số 11/2010/DSST ngày 27/04/2010 về tranh chấp hợp đồng
mua bán, Tịa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại về “ Giá trị căn hộ
AE305 khu căn hộ cao cấp Bitexco số 91 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, Quận Bình Thạnh số tiền
4.609.094.601 đồng theo giá của Hội đồng định giá và bồi thường tiền thuê nhà số tiền 418.000.000
đồng” trong khoảng thời gian từ 17/11/2007 đến 19/04/2010 do không được cấp thẻ vào căn hộ
B502 mà công ty cho bà ở tạm trong thời gian sửa chữa căn hộ AE305.
Câu 3 : Suy nghĩ của anh ( chị ) về hướng giải quyết của Tòa Án
* Theo em , quyết định của Tòa Án buộc công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ AE305 theo giá
của Hội đồng định giá và khoản tiền mà bà Bình đã thanh tốn tiền th nhà không được cấp thẻ vào
căn hộ B502 mà công ty cho bà ở tạm trong thời gian sửa chữa căn hộ AE305 là hoàn toàn hợp lý
* Căn cứ Điều 305 BLDS 2005 ( về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân ) : xét trên thực
tế ngày 23/11/2006 , bà Bình đã được Cơng ty chấp nhận cho chậm thanh tốn tiền mua nhà trong
vịng 6 tháng lãi suất 1,1%/tháng và đến ngày 24/11/2006 bà Bình thanh tốn tiền mua căn hộ và đã
đóng theo phiếu thu số 11065D. Còn việc ngân hàng đưa số tiền 25.050 USD thưc chất đã là một thỏa
thuận mới về việc cho bà Bình vay số tiền trên từ đó có thể thấy bà Bình khơng hề vi phạm nghĩa vụ
thanh tốn nên khơng phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại Điều này.
* Căn cứ Khoản 2 Điều 307 BLDS 2005 ( về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ) : theo nhận định và căn
cứ tại Tịa thì cơng ty Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương VN cùng thống nhất hủy hợp đồng

nên việc hủy hợp đồng mua bán là phù hợp nên khoản bồi thường là hợp lý theo quy định tại Điều
này.
* Đối với khoản thiệt hại về tiền thuê nhà, hướng giải quyết của Tòa án cũng là hợp lý. Dù khoản thiệt
hại này xuất hiện trước khi có hành vi hủy hợp đồng, tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ nhân quả.
Do hợp đồng không tiếp tục được thực hiện nên khoản tiền thuê nhà được xem là khoản tiền thiệt hại
mà bà Bình chịu tổn thất, là khoản thu nhập bị giảm sút của bà Bình.
* Căn cứ Khoản 1 Điều 302 BLDS 2005 , Khoản 2 Điều 307 BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 303 LTM 2005 :
bà Bình phải được Cơng ty Bitexco bồi thường “tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra” => số tiền thực tế bà Bình đã bỏ ra th nhà do khơng được cấp thẻ vào căn hộ là lỗi
của bên Công ty là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và tinh thần luật định.


Câu 4 : Đoạn nào cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần?
* Căn cứ vào mục 4 những vấn đề khác trong vụ kiện trong phần xét thấy của bản án số 11/2010/DSST
ngày 27/04/2010 về tranh chấp hợp đồng mua bán, đoạn: “ Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bình
ngày 18/01/2008 thì ngồi những u cầu đã xem xét ở trên bà Bình cịn u cầu bồi thường thiệt hại
về vật chất trong căn hộ AE305: do nước trào ngược dơ bẩn làm hư hỏng một số tài sản với trị giá
5.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại về tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm gây ảnh
hưởng về tâm lý là 16.000.000 đồng ”.
Câu 5 : Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng hay khơng ? Vì sao ?
* Căn cứ Điều 307 BLDS 2005 , bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần .
Ngồi ra LTM 2005 cũng có quy định về vấn đề thiệt hại được bồi thường phải có “ thiệt hại thực tế “
bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần
Câu 6 : BLDS 2005 và BLDS 2015 có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
không thực hiện đúng hợp đồng không ? Nêu rõ cơ sở pháp lý ?
* Căn cứ Điều 307 BLDS 2005 , bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần

* Căn cứ Điều 419 BLDS 2015 : ( Đây là nội dung mới được bổ sung tại BLDS 2015)
Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo các
quy định đã nêu trên; người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích

mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền cịn có thể u
cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do khơng hồn thành nghĩa vụ hợp
đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang
lại; theo u cầu của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết
định căn cứ vào nội dung vụ việc.
=> BLDS 2005 và BLDS 2015 đều quy định cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về
tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng . Tuy nhiên BLDS 2005 chỉ
quy định về bồi thường thiệt hại về tinh thần chung trong phần bồi thường thiệt hại ,
còn BLDS 2015 đã có bổ sung quy định rõ về việc “ Tịa án có thể buộc người có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền “
----------------------------------------------------------------------------------------Vấn đề 2 : Phạt vi phạm hợp đồng
* Tóm tắt bản án : Cơng ty Tân Việt và Công ty Thành Long ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng mua
bán vải với nội dung: Công ty Tân Việt sẽ thanh toán trước 30% tiền đặt cọc, 40% sau khi Cơng ty
Thành Long hồn tất giao hàng và 30% cịn lại kể từ ngày thanh tốn cuối cùng. Công ty Tân Việt đã
đặt cọc 30% tiền hàng và Công ty Thành Long cũng đã giao đợt hàng mẫu đầu tiên. Tuy nhiên, phía
Cơng ty Thành Long lại gửi công văn cho Công ty Tân Việt yêu cầu tăng giá bán với lý do giá cả
nguyên liệu tăng, bên Cơng ty Tân Việt khơng đồng ý. Sau đó, Cơng ty Tường Long gửi thông báo
hủy hợp đồng và phụ lục hợp đồng đã ký kết, trừ số tiền hàng đã giao và gửi lại cho Công ty Tân
Việt số tiền cịn lại. Hai bên thương lượng khơng thành, Cơng ty Tân Việt u cầu Cơng ty Tường
Long thanh tốn tiền phạt cọc và tiền phạt hợp đồng do vi phạm tự ý hủy hợp đồng.
Câu 1 : Điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 2015 về phạt vi phạm hợp đồng :
- Mức phạt : Căn cứ Khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 so với Khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 : Quy định lại
trường hợp thỏa thuận phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại : Các bên có thể thoả thuận về việc bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu
phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại . Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm
nhưng khơng thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại : Căn cứ Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 so với Khoản 3 Điều 418



BLDS 2015 : quy định lại “ Các bên có thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại . Truồng hợp các bên có thỏa thuận về việc phạt vi phạm
nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm “
--------------------------------* Đối với vụ việc thứ nhất :
Câu 2 : Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng
- Đối tượng thực hiện : đều là khoản tiền bắt buộc phải nộp cho một bên
- Hình thức : đều phải thành lập văn bản
- Hậu quả pháp lý : Bên vi phạm bị mất một khoản tiền ( mức phạt vi phạm hoặc phạt cọc ) , không
căn cứ vào thiệt hại thực tế
Câu 3 : Khoản tiền trả trước 30% được Tòa Án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung phạt vi phạm
hợp đồng ?
* Khoản tiền trả trước 30% được Tòa Án xác định là “ Tiền đặt cọc “ .
Câu 4 : Suy nghĩ về hướng giải quyết của Tòa Án liên quan đến khoản tiền trả trước 30%
* Theo em , cách giải quyết của Tòa Án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là chưa hoàn toàn hợp
lý và xảy ra mâu thuẫn
- Căn cứ Khoản 7 Điều 292 Luật Thương Mại và Điều 358 BLDS 2005 : Tòa Án xác định khoản tiền trả
trước 30% là tiền cọc . Khoản tiền này dùng để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng
- Căn cứ Khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 : Tòa Án lại nhận định rằng hai bên đã đi vào thực hiện hợp
đồng cho nên khoản tiền 30% lúc này được xác định là khoản tiền dùng để thực hiện đợt giao hàng
lần thứ nhất dẫn đến việc Tòa Án bác bỏ kháng cáo của Nguyên đơn yêu cầu Tòa Án buộc Bị đơn phải
bồi thường khoàn tiền này khiến quyền và lợi ích của Ngun đơn khơng được đảm bảo
--------------------------------------* Đối với vụ việc thứ hai :
Câu 5 : Trong Quyết định của Trọng tài , mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế nào ?
* Trong Quyết định của Trọng tài , Bị đơn sẽ chỉ phải thanh toán cho Nguyên đơn khoản tiền phạt
theo Luật là 8% giá trị của Hợp đồng
“ …mức phạt Hợp đồng 30% giá trị của Hợp đồng là quá cao so với quy định Pháp luật Việt Nam , cụ
thể là Luật Thương Mại 2005 quy định mức phạt Hợp đồng không quá 8% giá trị Hợp đồng , do vậy Bị
đơn sẽ chỉ phải thanh toán cho Nguyên đơn khản tiền phạt theo luật là 8% giá trị của Hợp đồng . “

Câu 6 : So với văn bản , mức phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục khơng ? Vì sao ?
* Căn cứ Khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 : “ Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận “ . Do vậy , căn cứ
theo BLDS 2005 thì Quyết định của Trọng tài khơng thuyết phục . Tuy nhiên , nếu căn cứ theo Điều 301
LTM 2005 “ Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm
do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm , trừ trường hợp quy định tại Điều 266 Luật Thương Mại 2005 “ thì Quyết định của Trọng tài là
hồn tồn có căn cứ và thuyết phục
Câu 7 : Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại , phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp
với bồi thường thiệt hại không nếu các bên khơng có thỏa thuận về vấn đề này ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời

* Căn cứ Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 : “ Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu khơng có thoả
thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại “
=> Căn cứ BLDS 2005 , trường hợp các bên khơng có thoả thuận về bồi thường thiệt
hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm


* Căn cứ Điều 301 Luật Thương Mại 2005 : “ Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm , trừ trường hợp quy
định tại Điều 266 Luật Thương Mại 2005 “
* Căn cứ Khoản 2 Điều 307 Luật Thương Mại 2005 : “ Trường hợp các bên có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và
buộc bồi thường thiệt hại , trừ trường hợp luật này có quy định khác “
=> Căn cứ theo Luật Thương Mại 2005 , phạt vi phạm hợp đồng có quyền được kết
hợp với bồi thường thiệt hại nếu các bên khơng có thỏa thuận về vấn đề này
Câu 8 : Trong Quyết định của Trọng tài , phạt vi phạm có được kết hợp với bồi
thường thiệt hại khơng ? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời ?

* Theo Quyết định của Trọng tài , phạt vi phạm được quyền kết hợp với bồi thường thiệt hại
“ …Tuy nhiên Điều 302 Luật Thương Mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên , bên bị thiệt hại có
quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế . Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại , Hồi
Đồng Trọng Tài cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn , xong tổng mức bồi
thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng “
Câu 9 : Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng
*Giống nhau :
- Cả hai đều có thể áp dụng khi có vi phạm
- Đều có thể áp dụng mà khơng cần có sự thỏa thuận
*Khác nhau :
Phạt vi phạm hợp đồng
Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng
hợp đồng
Chỉ áp dụng khi các bên có thỏa thuận

Áp dụng ngay cả khi khơng có thỏa thuận

Là một chế tài có thể áp dụng mà không cần quan
tâm đến thực tế

Là một chế tài khi áp dụng cần quan tâm đến
thực tế

Câu 10 : Theo văn bản , khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn
khơng ? Vì sao ?
* Khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thường thiệt hại không bị giới hạn
* Căn cứ Khoản 2 Điều 307 Luật Thương Mại 2005 : “ Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm
thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại , trừ trường hợp
Luật này có quy định khác “

Câu 11 : Trong Quyết định của Trọng tài , khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn khơng ? Suy nghĩ về giải pháp trong Quyết định về vấn đề này ?
* Trong Quyết định của Trọng tài , khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại được
giới hạn “ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng “
* Theo suy nghĩ của em , vì các bên đã thỏa thuận trước về mức thiệt hại tối đa là 30% giá trị hợp
đồng nên việc Trọng tài đưa ra Quyết định về mức phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại không quá
30% hợp đồng là có cơ sở và rất hợp lý
* Biện pháp phạt vi phạm được thiết lập vì lợi ích của bên bị vi phạm do đó bên bị vi phạm lựa chọn
hay kết hợp với bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lời của mình . Tuy nhiên mức phạt nêu trên
không quá mức thỏa thuận . Việc Tòa Án áp dụng hai chế tài trong BLDS 2005 và Luật Thương Mại
2005 là phù hợp , quyền lợi bên bị vi phạm được bảo vệ . Nhưng vấn đề đặt ra là nên áp dụng văn bản
nào để thuyết phục , đảm bảo quyền lợi cho các đương sự .


* Tòa Án áp dụng Luật Thương Mại 2005 để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm và cả bên vi phạm
nên em nghĩ hướng giải quyết của Tịa Án là hồn tồn thuyết phục
Câu 12 : Suy nghĩ về khả năng Tòa Án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong Pháp luật
Việt Nam
* Tòa Án có quyền giảm mức phạt vi phạm hợp đồng xuống mức phù hợp để bảo vệ quyền lợi và lợi
ích của bên vi phạm và bên bị vi phạm đều khộng bị ảnh hưởng . Mức phạt tiền được giới hạn theo
quy định của Luật Thương Mại 2005 và theo thỏa thuận của hai bên ký kết hợp đồng trong hợp đồng
đã ký kết
----------------------------------------------------------------------------------------Vấn đề 3 : Sự kiện bất khả kháng
* Tình huống : Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy . Anh Văn có mua bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển hàng bằng tàu của mình . Trên đường vận chuyển tàu bị gió
nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ
Câu 1 : Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng ? Và cho biết các bên có thể thỏa
thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng khơng ? Nêu rõ cơ sở khi trả lời
* Điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng : 3 điều kiện ( Căn cứ Khoản 1 Điều 161 BLDS
2005 )

- “ Sự kiện xảy ra một cách khách quan sau khi ký hợp đồng “ : những sự kiện diễn ra một cách tự
nhiên như thiên tai và những sự kiện không đi theo ý kiến chủ quan của cá nhân
- “ Sự kiện xảy ra không thể lườn trước được “ : là sự kiện diễn ra không do lỗi của các bên trong hợp
đồng , là sự kiện diễn ra mà các bên trong hợp đồng không thể dự đốn
- “ sự việc xảy ra khơng thể khắc phục được cho dù đã làm mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép “ : là sự kiện diễn ra mà các bên trong hợp đồng không thể khống chế được
* Các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng : Căn cứ Khoản 2 Điều
302 BLDS 2005 : “ trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự
kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác “
Câu 2 : Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất
khả kháng trong BLDS 2005 và Luật Thương Mại sửa đổi

* Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 294 Luật Thương Mại 2005 : Bên vi phạm hợp đồng
được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: “ Xảy ra sự kiện bất khả kháng

* Căn cứ Khoản 2 Điều 302 BLDS 2005 : Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
dân sự : “ Trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân
sự do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác “
* Căn cứ Khoản 3 Điều 546 Luật Thương Mại 2005 : Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại : “ Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát , hư
hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại , trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác “
Câu 3 : Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng khơng ? Phân tích các điều kiện hình
thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên
* Số hàng trên bị hư hỏng do trên đường vận chuyển chuyến tàu bị gió nhấn chìm và tình huống này
vẫn chưa thể gọi là sự kiện bất khả kháng , vì đã không ứng được điều kiện “ Sự việc xảy ra không thể
khắc phục được cho dù đã làm mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép ” để một sự kiện

được coi là bất khả kháng
* Các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên :
- Để trở thành một sự kiện bất khả kháng thì con tàu phải vận chuyển hàng trên đường dài, khi xảy ra
mưa giông hay bão lốc phải là “ sự kiện đột ngột và chưa được dự báo trước “ bởi các phương tiện


thông tin đại chúng, tàu sẽ không kịp gọi trợ giúp vì thiên tai xảy ra quá nhanh và khi gặp mưa bão thì
tàu khơng có chỗ trú ngụ ( cách xa đất liền ), các thiết bị liên lạc trên tàu đều hư hỏng, mọi hàng hóa
trên tàu bị hư hỏng do tàu chìm hồn tồn ( “ sự kiện không thể khắc phục được “ ) hoặc phải mất
một thời gian dài tàu mới cập bến và khắc phục được các thiệt hại về cơ sở vật chất.
- Khi trên biển có xảy ra bão hay lốc thì các phương tiện thông tin đại chúng đều sẽ đưa tin thông báo
và nhắc nhở các phương tiện về nơi trú ngụ an toàn, trừ trường hợp tàu cách xa bờ và thông tin chỉ
vừa đến kịp khi bão tới. Trong tình huống trên, việc vận chuyển trong nước và gần bờ thì khả năng tàu
khơng cập bến kịp để sửa chữa hư hỏng và tổn thất là không thể , trừ trưởng hợp người vận chuyển
không muốn sửa chữa tàu
Câu 4 : Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng , anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về
việc hàng bị hư hỏng khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
* Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn sẽ khơng phải bồi thường cho anh Bình
về việc hàng bị hư hỏng.
* Căn cứ Khoản 2 Điều 302 BLDS 2005 có qui định: “ Trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể
thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự “
* Căn cứ Điều 166 BLDS 2005 : anh Bình sẽ phải chịu rủi ro khi tài sản bị hư hỏng do sự kiện bất khả
kháng
* Căn cứ Khoản 3 điều 546 BLDS 2005 : anh Văn sẽ không phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng
bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng
Câu 5 : Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh
Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được u cầu cơng ty bảo hiểm thanh tốn khoản tiền
này khơng ? Tìm câutrả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn.
* Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá
trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có quyền được u cầu cơng ty bảo hiểm thanh tốn khoản tiền này

* Căn cứ Điều 580 BLDS 2005 với điều kiện anh Văn đã làm đúng theo những thủ tục, yêu cầu mà công
ty bảo hiểm đưa ra, chấp hành đúng hợp đồng với công ty bảo hiểm và thiệt hại mà anh Văn bồi
thường xảy ra do sự kiện bất khả kháng
* Theo “Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30-05-2003 của Tòa dân sự Tòa Án tối cao ” về việc cơng ty
bảo hiểm Bảo Việt hồn trả lại số tiền mà ơng Khóm đã bồi thường cho ơng Điền và ơng Trình. Trong
sự việc này , Tịa dân sự Tòa án tối cao đã đưa ra hướng giải quyết như sau: “Về việc trả tiền bảo hiểm
quy định tại điều 580 BLDS………đối với trường hợp của ơng Khóm thì ông Khóm không cố ý để xảy ra
thiệt hại. Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì khơng có thỏa thuận nào về việc Bảo Việt An Giang được từ chối
trách nhiệm do tai nạn tàu chìm vì gió bão
=> Do đó, thỏa thuận của ơng Khóm và ơng Trinh, ơng Điền không làm trái pháp luật . Tuy nhiên , Hợp
đồng có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang.”
----------------------------------------------------------------------------------------Vấn đề 4 : Bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán
* Quyết định Giám đốc thẩm số 03/2009/KDTM-GĐT ngày 09/04/2009 về vụ tranh chấp về hợp đồng
mua bán hàng hóa :
Ngày 09 tháng 4 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án
kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán háng hố, giữa các đương sự:
1.Ngun đơn: Cơng ty TNHH thương mại Đại Nam, có trụ sở tại 678-680 Trần Hưng Đạo, quận 5, thành
phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Văn Nhiên đại diện theo Giấy uỷ quyền ngày 25/3/2008 và ngày
28/4/2008 của Giám đốc Công ty;
2.Bị Đơn: Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương (theo bản án sơ thẩm và phúc thẩm), có trụ sở tại Quốc
lộ 22B, ấp Cầu, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh; do bà Bùi Ngọc Thuý đại diện theo Giấy uỷ
quyền ngày 08/10/2008 của Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương - bà Thái Thị Hon).
NHẬN THẤY


Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2008, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu, chứng
cứ khác do nguyên đơn - Công ty TNHH thương mại Đại Nam xuất trình, thì thấy:
Ngày 20/3/2006, Cơng ty TNHH thương mại Đại Nam (sau đây gọi tắt là Công ty Đại Nam) ký Hợp đồng số
34/HĐĐN-06 mua khoai mì lát của Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương (sau đây gọi tắt là DNTN Nguyệt

Phương) số lượng 3.000 tấn, đơn giá 1,73 triệu đồng/1tấn, tổng giá trị hợp đồng là 5,19 tỷ đồng (BL 45).
Ngày 09/5/2006, Công ty Đại Nam tiếp tục ký Hợp đồng số 35/HĐĐN-06, mua khoai mì lát của Doanh
nghiệp tư nhân Nguyệt Phương, số lượng 2.000 tấn, đơn giá 1,73 triệu đồng/tấn, tổng giá trị hợp đồng là
3,46 tỷ đồng (BL48).
Tổng giá trị hai hợp đồng là 8,65 tỷ đồng.
Công ty Đại Nam đã thanh toán cho Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương bằng chuyển khoản 7 lần (từ
ngày 22/3/2006) với tổng số tiền là 8 tỷ đồng (BL109 đến 112, 118, 121).
Sau khi nhận tiền, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã giao cho Cơng ty Đại Nam 5.000 tấn khoai mì
lát khơ vào kho trữ hàng tại Campuchia do Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương thuê; Doanh nghiệp tư
nhân Nguyệt Phương cam kết sẽ giao hàng tại cảng Việt Nam theo đúng thoả thuận trong hợp đồng.
Ngày 04/6/2006, hai bên lập Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương đồng ý mua lại số lượng (5.000 tấn mì lát) mà Cơng ty Đại Nam đã ứng tiền để Doanh nghiệp tư
nhân Nguyệt Phương mua trữ với điều kiện: Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương sẽ trả lại tiền của Công
ty Đại Nam đã ứng tổng cộng là 8 tỷ đồng và tiền lãi là 160 đồng/1kg, tổng cộng 8,8 tỷ đồng; thời hạn
thanh toán chậm chất là ngày 15/8/2006; nếu quá thời hạn trên mà khơng thanh tốn thì Doanh nghiệp tư
nhân Nguyệt Phương phải chịu lãi suất chậm thanh toán 1,1%/tháng (kể từ ngày 16/6/2006) và phải chịu
phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán là 5%/tháng (kể từ ngày 16/8/2006); cộng hai khoản là 6,1% /tháng trên
số tiền còn nợ (BL50).
Ngày 05/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương (bên A) và Công ty Đại Nam (bên B) ký Bên bản
thanh lý hợp đồng số 38/BBTLHĐ/2006 với nội dung chính (tóm tắt): “.. Hai bên thống nhất chấm dứt Hợp
đồng mua bán số 34/HĐĐN-06 ngày 20/3/2006 để được thay thế bằng một nghĩa vụ dân sự khác, cụ thể:
bên A xác nhận đã nhận đủ số tiền ứng trước mua hàng của bên B… với số lượng giá trị của 3.000 tấn khai
mì lát khơ; Nay bên A không muốn thực hiện tiếp tục Hợp đồng số 34/HĐĐN-06.. nên xin thanh lý hợp
đồng và cam kết sẽ trả cho bên B số tiền đã thực nhận là 4,8 tỷ đồng và cộng với số tiền lãi mỗi kg khoai mì
lát là 160 đồng/kg, tương tự số tiền là 480 triệu đồng; tổng cộng bên A phải thanh toán cho bên B số tiền
là 5,28 tỷ đồng..”(BL 53).
Cùng ngày 05/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương cũng ký Bên bản thanh lý Hợp đồng số
39/BBTLHĐ/2006 với nội dung tương tự như Biên bản thanh lý hợp đồng số 38 nói trên; theo đó, Doanh
nghiệp tư nhân Nguyệt Phương xác nhận đã nhận đủ 3,2 tỷ đồng trị giá của 2.000 tấn khoai mì lát, nhưng
chưa giao khoai mì lát khơ cho Cơng ty Đại Nam và cam kết sẽ hồn trả cho Cơng ty Đại Nam số tiền 3,2 tỷ

đồng; cộng với số tiền lãi mỗi kg khoai mì lát là 160đồng/kg, tương tự số tiền là 320 triệu đồng; tổng cộng
là 3,52 tỷ đồng (BL55).
Sau khi ký biên bản thoả thuận mua lại khoai mì lát, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương mới trả cho
Công ty Đại Nam 800 triệu đồng vào các ngày 11/7/2006 (500 triệu đồng), ngày 12/8/2006 (100 triệu
đồng), và ngày 30/8/2006 (200 triệu đồng) bao gồm 447.425.125 đồng tiền lãi và 352.574.875 đồng tiền
phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
Ngày 30/8/2006, Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương lập Phụ lục Biên bản thoả
thuận bán khoai mì lát; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương xác nhận cịn nợ Cơng ty Đại Nam
8.447.425.125 đồng và cam kết đến ngày 30/9/2006 mà chưa thanh tốn hết thì Doanh nghiệp tư nhân
Nguyệt Phương phải chịu thêm 5%/tháng trên tổng số tiền còn nợ, cộng với 6,1%/tháng đã thoả thuận
ngày 04/6/2006 là 11,1%/tháng (BL57); Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đề nghị Cơng ty Đại Nam
tính lãi + phạt vi phạm theo Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006 là 6,1%/tháng.
Sau đó, Cơng ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã nhiều lần đối chiếu công nợ và ngày
14/9/2007, hai bên lập Biên bản thoả thuận giải quyết cơng nợ; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương xác nhận tính đến ngày 14/9/2007 cịn nợ Cơng ty Đại Nam 41.475.062.625 đồng (gốc, lãi +phạt vi
phạm nghĩa vụ thanh tốn (16,1%/tháng) nhưng xin Cơng ty Đại Nam chốt cơng nợ lại cịn 30 tỷ đồng và
chịu lãi suất chậm thanh toán từ 01/7/2007 là 1,5%/tháng; đồng thời tự nguyện giao 5 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (bản chính) cho Cơng ty Đại Nam để thế chấp đảm bảo thanh toán số nợ
29.572.235.740 đồng (BL68,78).
Ngày 05/12/2007, Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương lập Biên bản làm việc; theo
đó, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương xác nhận nợ quá hạn chưa thanh toán gồm nợ gốc
29.574.453.657 đồng và lãi quá hạn là 2.040.135.597 đồng; tổng cộng 31.614.589.254 đồng (BL76).


Do Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương nhiều lần xác nhận công nợ nhưng đến nay chưa trả, nên ngày
25/3/2008 Cơng ty Đại Nam khởi kiện tại Tồ án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh yêu cầu buộc
Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trả 29.572.235.740 đồng và lãi suất nợ quá hạn là 150% căn cứ
theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định đến khi Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trả
hết nợ (BL01, 169).
Đại diện Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trình bày:

Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương thừa nhận vào các ngày 20/3/2006 và 09/5/2006, Doanh nghiệp tư
nhân Nguyệt Phương có ký hai hợp đồng số 34, 35 với Công ty Đại Nam. Theo đó Doanh nghiệp tư nhân
Nguyệt Phương sẽ bán cho Cơng ty Đại Nam 5.000 tấn khoai mì lát khô. Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương đã nhận 8 tỷ đồng.
Ngày 04/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương có đủ hàng để giao nhưng do quá trình thu mua,
thời hạn kéo dài, khoai mì đổi màu, Cơng ty Đại Nam khơng nhận vì cho rằng chất lượng hàng khơng đạt,
nên hai bên thoả thuận Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương mua lại số khoai mì nói trên với giá 8 tỷ
đồng và chịu lãi 160 đồng/1kg; tổng cộng Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương phải trả Công ty Đại Nam
8,8 tỷ đồng. Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã trả 800 triệu đồng, cụ thể: ngày 11/7/2006 trả 500
triệu đồng, ngày 12/8/2006 trả 100 triệu đồng; ngày 30/8/2006 trả 200 triệu đồng; còn 8 tỷ đồng tiền vốn
hẹn đến ngày 30/9/2006 trả.
Ngày 15/01/2007, kho hàng của Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương bị cháy làm thiệt hại trên 10 tỷ
đồng nên Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương gặp khó khăn trong việc thanh tốn cho Cơng ty Đại Nam.
Do chưa có tiền thanh lý hợp đồng, phía Cơng ty Đại Nam tự ý đưa ra mức lãi và phạt lên đến 16,1%/tháng
và ép buộc phải ký vào giấy nhận nợ nên Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã ký nhiều biên bản nhận
nợ. Đến ngày 05/12/2007, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương ký nhận nợ lần cuối cùng là
31.790.153.420 đồng, trong đó số tiền lãi và phạt vi phạm là 23.790.153.420 đồng. Với lãi suất và phạt vi
phạm do Công ty Đại Nam tính 16,1%/tháng là quá cao, nên Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương không
đồng ý với mức lãi suất và phạt vi phạm này.
Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương yêu cầu Toà án xem xét cho Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương
được trả số nợ gốc cho Công ty Đại Nam là 8 tỷ đồng và tính lãi cho phù hợp (BL165,154).
Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 03/KDTM-ST ngày 14/7/2008, Toà án nhân dân tỉnh Tây
Ninh đã quyết định (tóm tắt): “- Chấp nhận một phận yêu cầu của Công ty TNHH thương mại Đại Nam,
buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trả tiền mua bán hàng hố cịn nợ gốc và tiền lãi theo hợp
đồng là 10.237.670.000 đồng…”
- Các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2008/QĐ-BPKCTT ngày 27/5/2008 và
02/2008/QĐ-BPKCTT ngày 06/6/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh tiếp tục có hiệu lực thi hành đến
khi Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương thi hành xong bản án này;
- Ngân hàng Công thương Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tây Ninh hồn trả cho Cơng ty TNHH thương mại Đại
Nam số tiền 68.200.000 đồng theo Phiếu thu số 0058 ngày 28/5/2008 và phiếu thu số 0019 ngày

10/6/2008…”.
Ngày 21/7/2008, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương có đơn kháng cáo.
Ngày 28/7/2008, Cơng ty Đại Nam có đơn kháng cáo.
Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 129/2008/KDTM-PT ngày 15/10/2008, Toà Phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định (tóm tắt): “ Chấp nhận một phần kháng cáo
của nguyên đơn - Công ty TNHH thương mại Đại Nam, sửa bản án sơ thẩm…; chấp nhận một phần yêu cầu
của Công ty TNHH thương mại Đại Nam buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trả tiền mua bán
hàng hoá theo hợp đồng; Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương do bà Thái Thị Hon là chủ phải trả cho
Công ty TNHH thương mại Đại Nam số tiền nợ của 4538 tấn khoai mì là 16.336.800.000 đồng…
- Các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2008/QĐ-BPKCTT ngày 27/5/2008 và
02/2008/QĐ-BPKCTT ngày 06/6/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh tiếp tục có hiệu lực thi hành cho
đến khi Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương thi hành xong bản án này;
- Ngân hàng Công thương Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tây Ninh hồn trả cho Cơng ty TNHH thương mại Đại
Nam số tiền 68.200.000 đồng theo Phiếu thu số 0058 ngày 28/5/2008 và Phiếu thu số 0019 ngày
10/6/2008..”.
Ngày 28/10/2008, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu
trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 03/KN-VKSTC-V12 ngày 18/02/2009, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng
nghị bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 29/2008/KDTM-PT ngày 15/10/2008 của Toà Phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số


03/2008/KDTM-ST ngày 14/7/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh và Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 29/2008/KDTM-PT ngày 15/10/2008 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành
phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật, với lý do (tóm tắt):
- “Việc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương ký hợp đồng mua bán khoai mì lát cho Cơng ty TNHH
thương mại Đại Nam là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Sau khi ký hợp đồng Cơng ty TNHH thương mại
Đại Nam đã hồn thành nghĩa vụ chuyển tiền, nhưng khi kiểm tra hàng hố thấy hàng khơng đảm bảo

chất lượng nên ngày 4/6/2006, hai bên lập biên bản xác nhận: .. Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương
đồng ý mua lại và có trách nhiệm trả tiền cho Công ty TNHH thương mại Đại Nam theo thoả thuận về gốc,
lợi nhuận, thời hạn thanh toán và trách nhiệm chậm trả.
Ngày 5/6/2006 hai bên đã thống nhất thanh lý hợp đồng mua bán khoai mì và được thay thế bằng nghĩa
vụ dân sự khác là nghĩa vụ trả tiền, như vây là hợp đồng đã chấm dứt. Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương trả lại Công ty TNHH thương mại Đại Nam số tiền mua khoai mì lát mà Cơng ty TNHH thương mại
Đại Nam đã chuyển cho Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương, cộng lãi là 160đồng/kg, tổng cộng hai
khoản tiền là 8,8 tỷ đồng, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã trả cho Công ty TNHH thương mại Đại
Nam 800 triệu đồng, sau đó không trả tiếp và hai bên đã tiến hành lập nhiều biên bản thoả thuận về việc
thanh toán gốc và tiền phạt, tiền lãi theo nguyên tắc gốc cộng lãi và phạt.
Do Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên Công ty Đại Nam khởi kiện ra Toà
án, yêu cầu Toà án buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương phải thực hiện nghĩa vụ dân sự là trả tiền,
chứ khơng u cầu Tồ án buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương phải thực hiện hợp đồng kinh
doanh, thương mại. Vì vậy tranh chấp này là tranh chấp dân sự chứ không phải tranh chấp hợp đồng kinh
doanh thương mại. Việc Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định tranh chấp là tranh chấp kinh
doanh, thương mại để thụ lý giải quyết theo các quy định của pháp luật về mua bán hàng hoá (Điều 29 Bộ
luật tố tụng dân sự) dẫn đến việc áp dụng pháp luật về nội dung (Điều 428, 438 Bộ luật dân sự) là khơng
chính xác, mà tranh chấp này là tranh chấp dân sự, vì vậy Tồ án nhân dân thụ lý theo quy định tại Điều 25
Bộ luật tố tụng dân sự, phán quyết của Toà án phải căn cứ vào Điều 290 và Điều 305 Bộ luật dân sự thì mới
đúng pháp luật.
- “… bản án phúc thẩm căn cứ vào giấy báo giá khoai mì lát là 360đ/kg (bản phơ tơ khơng có cơng chứng)
do Công ty Đại Nam cung cấp làm chứng cứ để ra quyết định là chưa đúng tại điểm 2.1 mục II Nghị quyết
số 04/2005/HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng cứ chứng minh”; Toà án cấp phúc thẩm quy giá trị
của khoai mì lát ra tiền để buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương phải trả cho Công ty Đại Nam là vi
phạm nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự”.
XÉT THẤY
1. Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương tranh chấp với nhau về nghĩa vụ thanh toán
phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá (các Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 và số 35/HĐĐN-06). Trong quá
trình thực hiện hợp đồng, Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã thay đổi nội dung

các hợp đồng trên bằng việc lập và ký Biên bản thoả thuận bán lại khoai mì lát ngày 04/6/2006 và đã thanh
lý các Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 và số 35/HĐĐN-06 để thay thế hợp đồng khác (Biên bản thoả thuận bán
khoai mì lát ngày 04/6/2006). Sau đó, Cơng ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã nhiều
lần đối chiếu công nợ.., nhưng Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương khơng trả được nợ theo cam kết,
Tồ án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về
hợp đồng mua bán hàng hố là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Toà án cấp sơ thẩm và Tồ án
cấp phúc thẩm khơng có nhận định và không viện dẫn điểm a khoản 1 Điều 29, khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố
tụng dân sự là thiếu sót.
2. Việc Tồ án cấp sơ thẩm áp dụng các Điều 428 (quy định về hợp đồng mua bán tài sản), Điều 438 (quy
định về nghĩa vụ trả tiền), Điều 476 (quy định về lãi suất) của Bộ luật dân sự năm 2005 và Toà án cấp phúc
thẩm áp dụng các Điều 428 và 438 Bộ luật dân sự để giải quyết vụ án này là không đúng. Đối với vụ án này
phải áp dụng quy định tại các Điều 300 (quy định về phạt vi phạm), Điều 301 (quy định về mức phạt vi
phạm) và Điều 306 ( quy định về yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán) Luật thương mại năm 2005 mới
đúng.
3. Theo Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006 thì Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương
cam kết đến ngày 15/8/2006 trả đủ 8,8 tỷ đồng cho Công ty Đại Nam, nếu quá thời hạn trên mà chưa trả
đủ thì phải chịu lãi suất chậm thanh toán là 1.1%/tháng và phải chịu phạt thêm 5%/tháng trên số tiền còn


nợ cho Công ty Đại Nam; tổng hai khoản là 6,1%/tháng.
Vào các ngày 11/7/2006, 12/8/2006 và 30/8/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã thanh toán
được 800 triệu đồng; như vậy, tính đến ngày 30/8/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương cịn nợ
Cơng ty Đại Nam 8 tỷ đồng tiền gốc.
Tại Phụ lục Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 30/8/2006, Công ty Đại Nam yêu cầu Doanh nghiệp
tư nhân Nguyệt Phương thanh toán số tiền trên trước ngày 30/9/2006, nếu quá hạn thì phải chịu lãi suất
là 1,1%/tháng và chịu phạt vi phạm 10%/tháng trên số tiền chậm thanh tốn; cịn Doanh nghiệp tư nhân
Nguyệt Phương cam kết đến ngày 30/9/2006 trả hết số nợ còn lại và đề nghị được tính mức lãi và mức
phạt vi phạm theo Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006 là 6,1%/tháng.
Sau đó, Cơng ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương còn nhiều lần đối chiếu công nợ và
Công ty Đại Nam đưa ra mức phạt vi phạm hợp đồng lên đến 15%/tháng và lãi suất chậm thanh toán là

1,1%/tháng. Đến ngày 14/9/2007, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương lại xin được trả lãi theo lãi suất
ngân hàng là 1,5%/tháng kể từ ngày 01/7/2007.
Như vậy, Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương chỉ thống nhất được với nhau về mức
lãi suất chậm thanh toán là 1,1%/tháng; thoả thuận của các đương sự về trách nhiệm thanh toán tiền lãi
do chậm thanh tốn là khơng trái pháp luật. Riêng về việc phạt vi phạm hợp đồng, các đương sự có thoả
thuận và thoả thuận này là không trái pháp luật; nhưng các đương sự không thống nhất được với nhau về
mức phạt sau mỗi làn đối chiếu công nợ. Hơn nữa, mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà các đương sự
đưa ra (5%/tháng, 10%/tháng hay 15%/tháng) đều không đúng pháp luật. Theo quy định tại Điều 301 Luật
Thương Mại 2005 thì mức phạt (hoặc tổng mức phạt đối chiếu với nhiều vi phạm) do các bên thoả thuận
trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Toà án cấp sơ thẩm căn cứ các Điều 428, 438 và 476 BLDS 2005 để buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương phải chịu lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước công bố và không phải chịu phạt vi phạm
hợp đồng là không đúng pháp luật và không đúng với thoả thuận không trái pháp luật của đương sự (thoả
thuận về trách nhiệm thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán và về phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của
Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương và Công ty Đại Nam tại Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày
04/6/2006).
Tồ án cấp phúc thẩm khơng chấp nhận cách tính lãi của Tồ án cấp sơ thẩm, không chấp nhận mức lãi
suất (1,1%/tháng) và mức phạt vi phạm (15%/tháng) là 16,1%/tháng do nguyên đơn đưa ra và buộc bị đơn
trả lại số tiền nợ của 5.000 tấn khoai mì lát theo thời giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 3.600đ/kg (theo
Báo giá khoai mì do ngun đơn cung cấp) cũng là khơng đúng pháp luật.
Trường hợp này cần phải căn cứ vào các Điều 300, 301, 306 Luật thương mại năm 2005 và thoả thuận
(không trái pháp luật) của các đương sự tại Biên bản thoả thuận bán lại khoai mì lát ngày 04/6/2006 để
xem xét về việc phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và khoản tiền lãi trên số tiền chậm thanh tốn, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Mặt khác, theo Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trình
bày thì do bị cháy kho hàng tại Campuchia nên Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương gặp khó khăn trong
việc thanh tốn tiền cho Cơng ty Đại Nam. Vì vậy, khi xét xử lại vụ án này, Toà án các cấp cần yêu cầu
đương sự cung cấp lại tài liệu chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra, nếu có đẩy đủ căn cứ thì có thể xem
xét giảm một phần mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cho Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương.
4. Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm quyết định: “Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh tỉnh
Tây Ninh hồn trả cho Cơng ty TNHH thương mại Đại Nam số tiền 68.200.000 đồng..” nhưng khơng có

nhận định gì về số tiền này, lý do Ngân hàng Cơng thương Việt Nam phải hoàn trả số tiền này cho Cơng ty
Đại Nam là thiếu sót và cách tun như vậy cũng khơng đúng pháp luật.
5. Về tố tụng: Tồ án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương là bị
đơn là không chính xác, khơng đúng quy định tại khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 (Chủ doanh
nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà
án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp). Trong vụ án này phải xác định bị đơn là Chủ Doanh
nghiệp tư nhân Nguyệt Phương - bà Thái Thị Hon mới đúng.
Bởi các lẽ trên; căn cứ vào Khoản 3 Điều 291; Khoản 3 Điều 297; Khoản 1,2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự
QUYẾT ĐỊNH
Huỷ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 129/2008/KDTM-PT ngày 15/10/2008 của Toà Phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
03/KDTM-ST ngày 14/7/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân
tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.


Lý do bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị huỷ:
Các Toà án xác định là vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hố
nhưng khơng viện dẫn Khoản 1 Điều 29, Khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự ; không áp dụng các quy
định của Luật thương mại 2005 để giải quyết vụ án là sai lầm. Các Toà án cũng sai lầm trong việc xác định
tư các đương sự của doanh nghiệp tư nhân.
----------------------------------------------------------------------------------------* Tóm tắt bản án : Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương tranh chấp với nhau về
nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá (các Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 và số
35/HĐĐN-06). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương đã thay đổi nội dung các hợp đồng trên bằng việc lập và ký Biên bản thoả thuận bán lại khoai
mì lát ngày 04/6/2006 và đã thanh lý các Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 và số 35/HĐĐN-06 để thay thế
hợp đồng khác (Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006). Sau đó, Cơng ty Đại Nam và
Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã nhiều lần đối chiếu công nợ.., nhưng Doanh nghiệp tư nhân
Nguyệt Phương không trả được nợ theo cam kết.
NHẬN XÉT BẢN ÁN :
Trước hết , theo em nhận định vụ việc nêu trên được xác nhận là một Vụ án kinh doanh thương mại

( Căn cứ Khoản 1 Điều 29 và Khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự )và các văn bản Pháp luật có thể
được áp dụng để giải quyết vụ việc trên bao gồm Bộ luật tố tụng dân sự , Luật Thương Mại 2005 , Bộ
luật dân sự 2005 và Luật Doanh Nghiệp 2014 .
Để giải quyết vụ việc trên Toàn Án cần áp dụng các Điều 300 (quy định về phạt vi phạm), Điều 301 (quy
định về mức phạt vi phạm) và Điều 306 ( quy định về yêu cầu tiền lãi do chậm thanh tốn) Luật
thương mại 2005 thay vì áp dụng Điều 428 (quy định về hợp đồng mua bán tài sản), Điều 438 (quy
định về nghĩa vụ trả tiền), Điều 476 (quy định về lãi suất) của Bộ luật dân sự 2005
Về việc phạt vi phạm hợp đồng , các đương sự có thoả thuận và thoả thuận này là khơng trái pháp luật
; nhưng các đương sự không thống nhất được với nhau về mức phạt sau mỗi làn đối chiếu công nợ.
Căn cứ Điều 301 Luật Thương Mại 2005 : mức phạt (hoặc tổng mức phạt đối chiếu với nhiều vi phạm)
do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm.
=> mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà các đương sự đưa ra (5%/tháng, 10%/tháng hay
15%/tháng) đều không đúng pháp luật.

Điều 428 BLDS 2005 “ Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán “
Điều 438 BLDS 2005 : Nghĩa vụ trả tiền
1. Bên mua phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận; nếu khơng có
thoả thuận thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm giao tài sản.
2. Bên mua phải trả lãi, kể từ ngày chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của
Bộ luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 476 BLDS 2005 : Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng khơng xác định rõ lãi
suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.


Toà án cấp sơ thẩm căn cứ các Điều 428, 438 và 476 BLDS 2005 để buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt
Phương phải chịu lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước công bố và không phải chịu phạt vi


phạm hợp đồng là không đúng pháp luật và không đúng với thoả thuận của đương sự
* Xét thấy vụ việc này cần phải căn cứ vào các Điều 300, 301, 306 Luật Thương Mại 2005 và thoả
thuận (không trái pháp luật) của các đương sự tại Biên bản thoả thuận bán lại khoai mì lát ngày
04/6/2006 để xem xét về việc phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và khoản tiền lãi trên số tiền chậm
thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Căn cứ Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 : “ Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị
đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên
quan đến doanh nghiệp “ . Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định sai Bị đơn là Doanh nghiệp
tư nhân Nguyệt Phương thay vì Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương - bà Thái Thị Hon
=> Quyết định hủy bản án phúc thẩm là hồn tồn chính xác , căn cứ theo Khoản 3 Điều 291; Khoản 3
Điều 297; Khoản 1,2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×