Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Một Số Giải Pháp Để Nâng Cao Công Tác Thanh Toán Xuất Nhập Khẩu Theo Phương Thức Tín Dụng Chứng Từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.05 KB, 93 trang )

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp để nâng cao công tác
thanh toán xuất nhập khẩu theo phương
thức tín dụng chứng từ


Lời nói đầu

Trong thời gian qua, nước ta đã và đang đang thực hiện cải cách kinh tế theo hướng
mở cửa, trên nguyên tắc "Hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi", và với tinh thần "Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả". Một chủ trương như vậy chắc chắn sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam
hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia ngày càng sâu vào quá trình hợp tác và phân
công lao động quốc tế.
Trong quá trình đó giao lưu thương mại của Việt Nam và thế giới ngày càng phát
triển đòi hỏi mặt dịch vụ kinh tế đối ngoại phát triển tương ứng. Trong đó hoạt động thanh
toán quốc tế có vai trò hết sức quan trọng.
Thông qua thanh toán quốc tế, giá trị hàng hóa xuất-nhập khẩu được thực hiện, hiệu
quả thanh toán ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của các bên tham gia xuất-nhập khẩu, do đó
việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế là yêu cầu thường xuyên,
bức thiết đối với mỗi ngân hàng thương mại.
Trước năm 1990 ở Việt Nam, hoạt động thanh toán quốc tế do một ngân hàng ngoại
thương đảm nhiệm, chủ yếu là thanh toán với các nước XHCN theo những phương thức
thanh toán đơn giản, thuận lợi như phương thức ghi sổ,vv... Hiện nay ta thực hiện đa
phương hóa quan hệ thương mại, thanh toán chủ yếu vẫn theo các phương thức thanh toán
thông dụng quốc tế như ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ và nhiều ngân hàng thương mại
cạnh tranh với nhau trong hoạt động thanh toán và tín dụng quốc tế.
Từ thực tế đó, việc nghiên cứu hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên để nghiên cứu một
cách toàn diện về cơ chế tổ chức của hệ thống thanh toán quốc tế, từ đó hoàn thiện các
phương thức thanh toán là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải có thời gian, sự hiểu biết sâu sắc


cả về lí luận cũng như thực tiễn trong lĩnh vực này.
Với hiểu biết hạn hẹp của một sinh viên, với thời gian thực tập chưa nhiều tại Hội
Sở Giao Dịch Trung Ương Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và sự giúp đỡ của giảng


viên Hoàng Xuân Quế, trong bài viết này em chỉ xin nêu được những hiểu biết sơ lược về
lĩnh vực thanh toán quốc tế và một vài suy nghĩ của bản thân em về hoạt động của Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam trong công tác thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu thương
mại.

Theo hướng trên, bài viết này em xin trình bày như sau:
Lời Nói Đầu.
Chương I:

Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ .

Chương II:

Thực trạng về công tác thanh toán xuất nhập khẩu thương mại theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam.

Chương III: Một số giải pháp để nâng cao công tác thanh toán xuất nhập khẩu theo
phương thức tín dụng chứng từ.
Kết Luận.


Chương I


Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

I.Vai trò của thanh toán quốc tế.

1. Thanh toán quốc tế.
Trong hoạt động thương mại quốc tế, việc thanh toán có thể diễn ra dưới các hình
thức như dùng hàng đổi hàng hay chỉ trả bằng tiền tệ. Khi chế độ tiền tệ, tín dụng phát
triển thì quan hệ thanh toán quốc tế phát triển thành một hệ thống thanh toán hoàn chỉnh,
dựa trên cơ sở một hệ thống các ngân hàng thương mại đảm nhiệm toàn bộ quá trình thanh
toán.
Thanh toán quốc tế phản ánh sự vận động có tính chất độc lập tương đối của giá trị
trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hóa giữa các quốc gia, do sự không cân bằng
đồng thời giữa sản xuất, tiêu thụ, đầu tư tín dụng giữa các bên tại một thời điểm nhất định.
Về bản chất thanh toán quốc tế là chỉ việc chi trả lẫn nhau giữa các quốc gia để
hoàn tất các khoản về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn, vay nợ, viện trợ dưới
hình thức chuyển tiền hay hình thức thanh toán bù trừ.
2. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Với sự gia tăng mạnh mẽ của giao lưu kinh tế quốc tế, mối liên hệ giữa các quốc gia
ngày càng mật thiết và dần hình thành một thị trường thế giới thống nhất. Các quốc gia có
vai trò như một chủ thể kinh tế trên thanh toán và cạnh tranh với nhau để phát triển. Tuy
nhiên sự cạnh tranh để phát triển tự nó lại phát sinh nhu cầu hợp tác và phân công lao động
quốc tế nhằm giải quyết những nhu cầu về tiền vốn, công nghệ, nhân lực, tài nguyên và thị
trường tiêu thụ.


Tham gia vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế, các quốc gia có điều
kiện tốt nhất để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy các nước phát triển đồng thời là những
quốc gia tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế. Các quốc gia chậm phát triển
có chính sách phát triển kinh tế hướng ngoại đều đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
nhanh chóng vươn lên đạt trình độ tiên tiến. Ngày nay các quốc gia đều thay đổi chiến

lược phát triển kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế hướng ngoại, mở cửa để thu hút đầu
tư, công nghệ, phát triển giao lưu thương mại quốc tế .
Việt Nam đang trên con đường cải cách và mở cửa nền kinh tế, nỗ lực tạo lập một
môi trường thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế, trong đó tập
trung vào việc cải tạo cơ sở hạ tầng, dịch vụ thông tin, dịch vụ ngân hàng và thanh toán
quốc tế.
Về hoạt động ngân hàng, sau khi có hai pháp lệnh ngân hàng và công ty tài chính,
hợp tác xã tín dụng ra đời, chúng ta đã có một hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế
thị trường, đáp ứng tốt hơn quá trình lưu thông tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Trong đó
thanh toán quốc tế đóng một vai trò hết sức to lớn bởi vì thông qua thanh toán quốc tế giá
trị hàng hóa xuất nhập khẩu mới được thực hiện qua các khoản tín dụng, đầu tư và mọi
giao dịch đối ngoại.
Với chính sách kinh tế mở cửa, hướng ngoại đòi hỏi chúng ta phải tổ chức tốt hoạt
động ngân hàng đối ngoại, đặc biệt là khâu thanh toán quốc tế, đảm bảo một điều kiện
thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế của Việt Nam chắc chắn
ngày càng phát triển.
Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Thanh toán trong nội bộ một quốc gia đã phức tạp, thanh toán quốc tế còn phức tạp và khó
khăn hơn do ảnh hưởng của các yếu tố tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; sự khác biệt về ngôn
ngữ, tập quán cũng như khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình từ sản xuất, lưu thông cho
đến thanh toán. Nếu nghiệp vụ thanh toán mà không theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế
thì nó sẽ là một nhân tố kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.


Do đó việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh toán quốc tế là một yêu cầu cấp
bách, thường xuyên đối với bất cứ một quốc gia nào. Nghiên cứu về thanh toán quốc tế
giúp ta có đánh giá đúng đắn về thực trạng hoạt động ngoại thương của Việt Nam, từ đó có
biện pháp cải tiến, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc
tế.


II. Các phương thức thanh toán quốc tế.

Hoạt động thanh toán ở bất cứ một quy mô nào cũng phải đạt được yêu cầu về việc
đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia. Trong hoạt động thương mại quốc tế, quyền lợi
của người bán là phải thu được tiền hàng đầy đủ, nhanh chóng với chi phí thấp nhất; với
người mua thì phải nhận được hàng hoá đúng số lượng, đảm bảo chất lượng và thời gian
giao hàng; còn với trung gian thanh toán thì lợi ích là các khoản tiền hoa hồng và sự an
toàn trong kinh doanh.
Việc đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia trong buôn bán thương mại quốc tế
phụ thuộc vào các đIều kiện thanh toán như: tiền tệ, địa điểm, thời gian, phương thức
thanh toán. Vì vậy, trong hoạt động thanh toán thương mại quốc tế dần dần hình thành nên
các phương thức thanh toán được thống nhất áp dụng. Ngày nay trong thanh toán quốc tế
những phương thức chủ yếu sau thường được sử dụng.
1. Phương thức chuyển tiền (Remittance).
1.1. Khái niệm.
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả
tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người
hường lợi) ở một địa điểm nhất định bằng một phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu
cầu.


Phương thức chuyển tiền là phương thức đơn giản, thuận lợi và hết ít chi phí ngân
hàng. Theo phương thức này việc thanh toán là thanh toán trực tiếp giữa bên mua và bên
bán. ngân hàng chỉ giữ vai trò trung gian. Trong thời gian luân chuyển, số tiền này vẫn
thuộc bên mua.
Phương thức chuyển tiền có nhược điểm là việc trả tiền cho người bán phụ thuộc
vào người mua. Bởi vậy quyền lợi của bên bán không được đảm bảo. Ngược lại trường
hợp bên bán nhận được tiền trước thì cũng không biết được việc giao hàng của bên bán có
đúng hợp đồng hay không, gây tình trạng ứ đọng vốn, giảm vòng quay của vốn.
Phương thức này không đảm bảo quyền lợi cho các bên mua bán trong thanh toán

xuất nhập khẩu thương mại.
1.2. Các bên tham gia.
a. Người trả tiền (người mua, người mắc nợ) hoặc người chuyển tiền (người đầu tư,
kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra nước ngoài) là người yêu cầu
chuyển tiền ra nước ngoài.
b. Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư, hoặc người nào
đó do người chuyển tiền chỉ định).
c. Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng thực hiện lệnh chuyển tiền (thông thường là
ngân hàng nước người trả tiền).
d. Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền thông thường là ngân hàng ở nước
người hưởng lợi.
1.3. Trình tự tiến hành nghiệp vụ.
3

Ngân hàng chuyển
tiền

Ngân hàng
hưởng lợi

Người 2chuyển tiền

4
Người hưởng
lợi


1
1. Giao dịch thương mại.
2. Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư/điện) cùng với ủy nhiệm chi (nếu có tài

khoản tại ngân hàng).
3. Chuyển tiền ra nước ngoài cho ngân hàng đại lý.
4. Chuyển tiền cho người nhận.
1.4. Trường hợp áp dụng.
1. Trả tiền nhập khẩu với nước ngoài
- Khi nào thì chuyển tiền: Thường là ngay sau khi nhận xong hàng hoá, hoặc là sau khi
nhận được chứng từ hàng hoá, cũng có khi chuyển tiền trước khi giao hàng.
- Số tiền được chuyển dựa vào:
+ Trị giá của hoá đơn thương mại.
+ Kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy ra số tiền
phải trả.
- Chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển tiền bằng điện, SWIFT.
2. Thanh toán trong lĩnh vực phi mậu dịch
3. Thanh toán các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá (tiền phạt trả
tiền ứng trước, hoa hồng, chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư, chuyển kiều hối...).
4. Chuyển tiền kiều hối.
1.5. Các yêu cầu chuyển tiền.
1. Muốn chuyển tiền phải có giấy phép của Bộ chủ quản hoặc Bộ Tài Chính.
2. Chuyển tiền thanh toán trong ngoại thương phải có:


- Hợp đồng mua bán ngoại thương.
- Giấy phép xuất nhập khẩu và quota nhập khẩu.
- ủy nhiệm chi ngoại tệ và phí chuyển tiền.
3. Viết đơn chuyển tiền qua Vietcombank hoặc một ngân hàng thương mại nào đó
được phép thanh toán quốc tế ghi đủ:
- Tên, địa chỉ của người hưởng lợi, số tài khoản nếu người hưởng lợi yêu cầu.
- Số ngoại tệ xin chuyển cần ghi rõ bằng số, chữ và các loại ngoại tệ xin chuyển.
- Lý do chuyển tiền.
- Những yêu cầu khác có liên quan.

- Ký tên đóng dấu.
2. Phương thức mở tài khoản (ghi sổ) (Open Account).
2.1. Khái niệm.
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) trên đó ghi các khoản tiền mà
người mua nợ về tiền hàng hoá hay khoản chi khác có liên quan đến việc mua hàng (theo
tháng, quý hoặc nửa năm) thanh toán nợ hình thành trên tài khoản.
Lưu ý:

- Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của các ngân

hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
- Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua
mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh toán
giữa hai bên.
- Chỉ có hai bên tham gia thanh toán: người bán và người mua.


2.2.Trình tự tiến hành nghiệp vụ.
2

Người bán

Người mua
1

1. Giao hàng hặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.
2. Báo nợ trực tiếp.
Chỉ sau khi hai bên mua bán kết thúc dịch vụ hoặc định ký, bên nào nợ sẽ phải
chuyển tiền thanh toán cho bên kia theo phương thức chuyển tiền.
2.3. Ưu nhược điểm.

- Ưu điểm: Phương thức này tạo điều kiện thuận lợi cho người nhập khẩu mua hàng
hoá mà chưa phải trả tiền ngay. Thực chất đây là một hình thức tín dụng mà người bán
dành cho người mua.
- Nhược điểm: Mức độ rủi ro lớn do việc trả tiền phụ thuộc vào người mua, thời
gian thu hồi vốn của nhà xuất khẩu chậm.
2.4. Trường hợp áp dụng.
- Thường dùng cho thanh toán nội địa.
- Hai bên mua bán phải thật sự tin cậy nhau.
- Dùng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng, nhiều lần thường xuyên trong
một định kỳ nhất định (6 tháng, 1 năm).
- Phương thức này chỉ lợi cho người mua.
- Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài.
- Dùng trong thanh toán phi mậu dịch như tiền cước phí vận tải, phí bảo hiểm, tiền
hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi trong cho vay và đầu tư.


 Khi áp dụng cần chú ý:
- Quy định thống nhất đồng tiền ghi trên tài khoản.
- Căn cứ ghi nợ của người bán là hoá đơn giao hàng.
- Căn cứ nhận nợ của người mua là:
+ Dựa vào giá trị hoá đơn giao hàng.
+ Dựa vào kết quả nhận hàng ở nơi nhận hàng.
- Phương thức chuyển tiền bằng thư, điện cần phải thống nhất thỏa thuận của hai
bên.
- Giá hàng trong phương thức ghi sổ thường cao hơn giá hàng bán ngay. Chênh lệch
này là tiền lãi phát sinh ra của số tiền ghi sổ trong khoảng thời gian bằng định kỳ thanh
toán theo mức lãi suất được người mua chấp nhận.
- Định kỳ thanh toán có hai cách quy định:
+ Quy định x ngày kể từ ngày giao hàng đối với từng chuyến hàng.
+ Quy định theo mốc thời gian của niên lịch.

- Việc chuyển tiền thanh toán chậm của người mua được giải quyết như thế nào, có
phạt trả chậm không, mức phạt bao nhiêu, tính như thế nào?
- Nếu phát sinh sự khác nhau giữa số tiền ghi nợ của người bán và số tiền nhận nợ
của người mua thì giảI quyết như thế nào?
3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection Payment).
3.1. Khái niệm.
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng, ủy thác cho ngân
hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.


3.2. Các bên tham gia.
a. Người nhờ thu là bên giao chỉ thị nhờ thu cho ngân hàng (thường là người bán
hoặc cung ứng dịch vụ).
b. Ngân hàng chuyển là ngân hàng mà người nhờ thu giao chứng từ và chỉ thị nhờ
thu.
c. Ngân hàng xuất trình là ngân hàng nhận nhờ thu từ ngân hàng chuyển để xuất
trình chứng từ đến người trả tiền
d. Người trả tiền là người mà chứng từ xuất trình để đòi tiền theo chỉ thị nhờ thu.
3.3. Các loại nhờ thu.
3.3.1. Nhờ thu phiếu trơn.
Là phương thức trong đó người bán hoặc người cung ứng dịch vụ ủy thác cho ngân
hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng
từ hàng hóa thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
-Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
3

Ngân hàng bên
bán


Ngân hàng bên
mua
6

2

7

Người bán

5
1

4

Người mua

1. Người bán giao hàng lập bộ chứng từ giao hàng gửi thẳng cho người mua.
2. Người bán ký phát hối phiếu đòi tiền người mua và nhờ ngân hàng thu hộ tiền hối
phiếu đó.


3. Ngân hàng bên bán chuyển hối phiếu cho ngân hàng bên mua để yêu cầu trả tiền
hoặc chấp nhận trả tiền.
4. Ngân hàng bên mua chuyển hối phiếu cho người mua để trả tiền hoặc chấp nhận
trả tiền.
5. Người mua trả tiền mặt hoặc từ chối trả tiền.
6. Ngân hàng bên mua chuyển trả tiền hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối trả tiền cho
ngân hàng bên bán.
7. Ngân hàng bên bán chuyển tiền hoặc trả lại hối phiếu bị từ chối trả tiền cho người

bán.
- Phương thức nhờ thu phiếu trơn không thích hợp trong thanh toán hàng hoá xuất
nhập khẩu, bởi vì nếu người mua không tốt thì họ có thể nhận hàng nhưng lại có thể gây
khó dễ cho việc trả tiền cho người bán hoặc người mua trả tiền hối phiếu (đối với hối phiếu
trả tiền ngay) nhưng họ không biết người bán giao hàng như thế nào vì chứng từ gửi hàng
không đi kèm hối phiếu, tốc độ thanh toán theo cách này chậm và ngân hàng chỉ đóng vai
trò trung gian đơn thuần mà thôi. Do đó trong Ngân hàng Ngoại thương ít dùng phương
thức này.
- Phương thức nhờ thu phiếu trơn được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc có quan hệ liên doanh với
nhau dưới dạng công ty mẹ và công ty con hoặc là chi nhánh của nhau.
+ Thanh toán về các dịch vụ có liên quan tới xuất-nhập khẩu hàng hóa, vì
việc thanh toán này không cần thiết phải kèm theo chứng từ như tiền cước phí vận tải, bảo
hiểm, phạt bồi thường...
3.3.2. Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection).
Là phương thức trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc
cung ứng dịch vụ, lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu (chứng từ gửi hàng và hối phiếu) và
nhờ ngân hàng thu hộ tiền của tờ hối phiếu đó với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc


chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao toàn bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để họ
nhận hàng.
Tuỳ theo thời hạn trả tiền mà phương thức này chia làm hai loại:
 Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (Documents against payment - D/P ).
Được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay.
- Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
1. Người bán giao hàng cho người mua.
2. Người bán lập bộ chứng từ thanh toán (hối phiếu + chứng từ gửi hàng) nhờ ngân
hàng thu hộ.
3. Ngân hàng chuyển toàn bộ bộ chứng từ thanh toán cho ngân hàng bên mua và

nhờ ngân hàng này thu hộ tiền ở người mua.
4. Ngân hàng bên mua yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu để nhận chứng từ đi
nhận hàng, ngược lại nếu người mua từ chối trả tiền sẽ giữ lại bộ chứng từ và báo cho ngân
hàng bên bán biết.
5.6.7. Giống như trình tự nhờ thu phiếu trơn.
 Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents against acceptance - D/A).
Trình tự thanh toán giống như D/P nhưng khác ở chỗ người mua chỉ phải ký chấp
nhận trả tiền vào hối phiếu thì sẽ được trao toàn bộ chứng từ gửi hàng. Đến kỳ hạn trả tiền
ghi trên hối phiếu, người mua sẽ chuyển trả tiền cho người bán theo các phương tiện thích
hợp. Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán ủy thác cho ngân hàng ngoài việc nhờ thu hộ
tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế bộ chứng từ hàng hoá đối với người mua. Đây
là điểm khác nhau cơ bản với nhờ thu phiếu trơn. Với cách khống chế chứng từ như vậy,
quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
Trong giấy uỷ nhiệm ngân hàng thu hộ, người bán thường nêu rõ cách sử lý để ngân
hàng căn cứ vào đó mà giải quyết khi xảy ra những tình huống cụ thể:


1. Có nên hay không nên yêu cầu người mua trả tiền ngay khi ngân hàng giao bộ
chứng từ hoặc chờ đến khi hàng đến bên người mua thì mới trả tiền.
2. Trả tiền theo tỷ giá nào, nếu như hối phiếu và hoá đơn được lập theo một loại tiền
mà được trả theo một loại khác.
3. Phải xử lý như thế nào trong thường hợp hàng hoá đến sớm hơn vận tải đơn. Có
thể nêu rõ là người mua trả tiền theo hoá đơn khi có sự đảm bảo của ngân hàng là vận đơn
sẽ được giao cho người mua ngay sau khi ngân hàng nhận được. Trong những trường hợp
khác, uỷ nhiệm ngân hàng lưu kho hàng hoá cho đến khi nhận được chứng từ.
4. Ngân hàng phải xử lý như thế nào khi người mua từ chối chấp nhận trả tiền hoặc
người mua không có khả năng thanh toán.
Tuy nhiên nhờ thu kèm chứng từ còn bộc lộ nhược điểm là mặc dù người bán thông
qua ngân hàng mới chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hóa của người mua, nhưng
chưa khống chế được việc trả tiền của người mua, người mua có thể kéo dài việc trả tiền

bằng cách dây dưa chưa nhận chứng từ hàng hóa hoặc có thể không trả tiền cũng được nếu
tình hình thị trường bất lợi cho họ hoặc người mua về mặt tài chính thiếu hụt không có khả
năng thanh toán. Mặt khác việc trả tiền còn quá chậm, từ lúc gửi hàng cho đến khi nhận
được tiền trong phương thức này có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm. Trong phương
thức này, ngân hàng chỉ có vai trò là người trung gian thu tiền hộ, còn không có trách
nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
- Thường được áp dụng trong những trường hợp sau:
+ Số tiền hàng xuất khẩu thường là hàng mẫu.
+ Hàng xuất khẩu chưa ký hợp đồng, chỉ gửi bán hoặc trường hợp khó bán nhờ
người nhập khẩu tiêu thụ hộ.
+ Người xuất khẩu không thực hiện đúng các điều kiện của thư tín dụng phải
chuyển sang uỷ thác thu


3.3.3. Vấn đề sử dụng phương thức nhờ thu.
Văn bản pháp lý thông dụng của phương thức nhờ thu là bản “ Quy tắc thống nhất
về nhờ thu chứng từ thương mại” của phòng thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 1995 số
xuất bản 522 có hiệu lực từ 1-1-1996.
Muốn sử dụng được bản quy tắc này, hai bên mua và bán phải thống nhất quy định
trong hợp đồng. Hiện nay phương thức này còn được áp dụng trong các trường hợp như
xuất khẩu thăm dò thị trường đối với những mặt hàng mới bán trong thị trường lần đầu,
mặt hàng có giá trị thấp, chất lượng không đồng đều, hoặc trong trường hợp áp dụng
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ mà bộ chứng từ có sai sót nghiêm trọng khoong
khắc phục được thì người bán cũng lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu qua ngân hàng của
mình. Trong trường hợp người mua từ chối thanh toán vì lý do nào đó thì khi đó người bán
phải tự giải quyết việc bán số hàng đã gửi đi này. Lúc này quyền lợi của bên bán sẽ thiệt
hại.
4. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credit).
Đây là phương thức thanh toán thông dụng nhất hiện nay, khối lượng thanh toán
ngày càng rộng lớn, do đó Phòng Thương Mại Quốc tế tại Pari đã ban hành quy tắc và thực

hành thống nhất về tín dụng chứng từ để các bên xuất khẩu và nhập khẩu, các ngân hàng
có liên quan đến nhu cầu áp dụng, nhằm tránh những sự hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra.
4.1. Khái niệm.
Phương thức tín dụng chứng từ là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân
hàng. Một cách đầy đủ hơn, tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết của một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng - Issuing Bank) cho người bán (hoặc người hưởng lợi Beneficiary) theo yêu cầu và sự chỉ thị của người mua (Applicant) để trả ngay hoặc tới một
thời điểm xác định trong phạm vi thời hạn đã xác định và căn cứ vào các chứng từ đã được
quy định.


4.2. Các bên tham gia.
- Người mua tức là người yêu cầu mở L/C (the Applicant for the Credit).
- Người hưởng lợi L/C tức là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác
do người bán chỉ định (the Benificiary).
- Các ngân hàng thường có rất ít, nhất là ngân hàng mở L/C (the Issuing Bank),
ngân hàng thông báo ( the Advising Bank ) ngoài ra còn có thể có các ngân hàng khác
tham gia như:
+ Ngân hàng xác nhận (the Confirming Bank).
+ Ngân hàng hoàn trả (the Reimbursing Bank) tức là một ngân hàng khác
được ngân hàng mở L/C hoặc ngân hàng xác nhận chỉ định thay mình trả tiền.
+ Ngân hàng chuyển tiền (the Remitting Bank) tức là ngân hàng chuyển
chứng từ.
+Ngân hàng chiết khấu (the Negotiating Bank) là ngân hàng đứng ra mua hối
phiếu hay thương lượng chứng từ do người bán ký phát cho ngân hàng theo yêu cầu của
ngân hàng mở L/C.
Trong thực tế, nghiệp vụ về tín dụng chứng từ không nhất thiết phải có đủ các loại
ngân hàng nói trên cùng tham gia. Thông thường chỉ có 3 ngân hàng tham gia là ngân hàng
mở, ngân hàng thông báo và ngân hàng hoàn trả.
4.3. Trình tự tiến hành nghiệp vụ.
2


Ngân hàng mở
L/C

Ngân hàng
thông báo

5
6

8

7

1

6

5

3


Người nhập
khẩu

4

Người xuất
khẩu


1. Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở
L/C cho người xuất khẩu hưởng.
2. Căn cứ vào nội dung, yêu cầu của thư xin mở L/C thì ngân hàng mở L/C sẽ lập
một L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài thông báo việc mở L/C và
chuyển L/C đến người xuất khẩu.
3. Khi nhận được L/C này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo toàn bộ nội dung về
việc mở L/C đó và chuyển bản gốc L/C cho người xuất khẩu.
4. Ngườixuất khẩu nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, nếu có điều nào
trong L/C chưa thoả mãn thì tiến hành đề nghị mở sửa đổi L/C, bổ sung L/C cho phù hợp
với hợp đồng.
5. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu tiến hành lập bộ chứng từ thanh toán theo
yêu cầu của L/C xuất trình thông qua ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng nào đó
(nếu L/C không hạn chế thanh toán) để yêu cầu đòi tiền ngân hàng này kiểm tra chứng từ
và làm thủ tục đổi tiền theo chỉ thị của L/C và gửi chứng từ cho ngân hàng mở L/C.
6. Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với L/C
thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán
và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho ngân hàng gửi chứng từ.
7. Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hóa
cho người nhập khẩu.
8. Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả
tiền lại cho ngân hàng mở L/C, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.


III. Thư tín dụng thương mại là công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng
từ

Thư tín dụng (Letter of Credit - L/C) là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C
cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán
phù hợp với nội dung của L/C đó.

Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán
tức là phải căn cứ vào nội dung và yêu cầu của hợp đồng. Người nhập khẩu làm đơn yêu
cầu mở L/C và sau khi L/C đã được mở rồi thì nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua
bán.
1. Nội dung chủ yếu của L/C.
1.1. Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C.
- Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số hiệu là dùng để
trao đổi, thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện L/C.
- Địa điểm mở L/C là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người
xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn luật pháp áp dụng khi
xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó.
- Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh sự cam kết của ngân hàng mở L/C với
người xuất khẩu, là ngày ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu chính thức chấp nhận
đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, là ngày bắt đầu tính thời gian hiệu lực của L/C và
cuối cùng là ngày căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc
mở L/C có đúng thời hạn quy định trong hợp đồng hay không.
1.2. Tên, địa chỉ những người liên quan đến L/C .
Những người liên quan đến L/C được chia làm hai loại:


* Các thương nhân: Bao gồm người nhập khẩu (người mở L/C)và người xuất khẩu
(người hưởng lợi).
* Các ngân hàng liên quan đến L/C: Bao gồm ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông
báo, ngân hàng hoàn trả, ngân hàng xác nhận ngân hàng chiết khấu.
- Ngân hàng mở L/C (the Opening Bank or the Issuing Bank) là ngân hàng được hai
bên mua bán thỏa thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có quy định trước
thì người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng mở L/C như
sau:
+ Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để mở L/C và tìm cách
thông báo nội dung L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu. Thông

thường việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông qua một ngân hàng đại
lý của mình ở nước người xuất khẩu.
+ Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C, của người xuất
khẩu đối với L/C đã được mở, nếu có sự đồng ý của họ.
+ Kiểm tra chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến, nếu thấy các
chứng từ phù hợp với những điều quy định trong L/C và không mâu thuẫn lẫn nhau thì có
thể thương lượng và trả tiền cho người xuất khẩu và đòi lại tiền ngân hàng người nhập
khẩu, ngược lại thì từ chối thanh toán.
+ Kiểm tra chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chỉ
chịu trách nhiệm kiểm tra “bề ngoài” của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không,
chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực
của chứng từ... Mọi sự tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ là do người xuất
khẩu và người nhập khẩu tự giải quyết.
+ Ngân hàng được miễn trách nhiệm khi ngân hàng rơi vào các trường hợp
bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất, hoả
hoạn... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán
những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những quy định dự phòng.


+ Mọi hậu quả phát sinh do lỗi lầm của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu
trách nhiệm, ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C theo quy định của từng
ngân hàng.
- Ngân hàng thông báo (the Advising Bank): Thường là các ngân hàng đại lý của
ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu. Quyền lợi và nghiã vụ của ngân hàng thông
báo như sau:
+ Khi nhận được điện thông báo của ngân hàng mở L/C về việc mở L/C,
ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới
hình thức văn bản.
+ Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó,
chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương.

Nếu ngân hàng thông báo sai thì phảI chịu trách nhiệm. Do đó cuối bức đIện mở L/C
thường có câu: “Please note that we assume no responsibility for any error and/or
ommision in the transmisson and/or translation of the cable”. Tức là: “Xin lưu ý, chúng tôi
không chịu trách nhiệm về bất cứ sự lỗi lầm hay thiếu sót trong khi chuyển và dịch bức
điện này”.
+ Khi nhận được bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu chuyển đến,
ngân hàng phảI chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ thanh toán đó đến ngân hàng mở
L/C. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do sự chậm trễ hoặc
mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh được rằng
mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện.
- Ngân hàng hoàn trả (the Negotiating Bank or the Paying Bank): Có thể là ngân
hàng thông báo mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C ủy nhiệm.
Nếu địa điểm trả tiền được quy định tại nước người nhập khẩu thì ngân hàng trả tiền
thường là ngân hàng mở L/C. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như ngân hàng mở
L/C khi nhận được bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến.


- Ngân hàng xác nhận (the Confirming Bank): Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho
ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của họ, ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn,
có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế hoặc ngân hàng thông báo.
Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một ngân hàng khác phải xác nhận cho mình sẽ
làm giảm uy tín của mình. Mặt khác, muốn được xác nhận thì ngân hàng mở L/C phải trả
thủ tục phí rất cao và đôi khi phải đặt cọc trước, mức tiền đăt cọc có thể đạt tới 100% giá
trị của thư tín dụng (full cash cover).
1.3. Số tiền của L/C.
- Phải được ghi bằng số và bằng chữ, phải thống nhất với nhau, không thể chấp
nhận một L/C có số tiền ghi bằng chữ và bằng số mâu thuẫn với nhau.
- Tên của đơn vị tiền tệ phải được ghi rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đôla nhưng
trên thế giới có nhiều loại đôla khác nhau.
- Không nên ghi số tiền dưới dạng một số tuyệt đối vì ghi như thế người xuất khẩu

khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C quy định, đặc biệt là đối với những mặt hàng
rời (quạng, than, gỗ...). Một khi giá trị hàng giao đã không khớp với giá trị trên L/C thì khó
có thể được thanh toán, vì ngân hàng sẽ đưa ra lý do bộ chứng từ thanh toán không phù
hợp với điều kiện quy định trong L/C. Cách ghi tiền tốt nhất là ghi một số giới hạn mà
người xuất khẩu có thể đạt được dù là hàng giao có tính chất nguyên chiếc hay cái rời.
1.4. Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng.
- Thời hạn hiệu lực của L/C là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho
người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó
và phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu
tính từ ngày mở L/C (Date of Issue) đến ngày hết hiệu lực (Date of Espiry).
- Thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau phụ thuộc vào quy định của hợp đồng.
Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối
phiếu. Ví dụ: “Available agianst presentation of your draft at sight on Bank of Tokyo”


(thanh toán khi xuất trình hối phiếu trả tiền ngay). Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời
hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay, hoặc có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của
L/C nếu như trả tiền có kì hạn. Song có điều quan trọng là những hối phiếu có kỳ hạn phải
được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C .
- Thời gian giao hàng (Date of Delivery): Thời hạn này cũng được ghi trong L/C và
do hợp đồng mua bán quy định. Thời hạn giao hàng có thể có quan hệ chặt chẽ với thời
hạn hiệu lực của L/C.
Trong trường hợp vì lý do nào đó, hai bên thoả thuận phải kéo dài thời hạn giao
hàng thêm x ngày mà không đề cập đến việc kéo dài thời hạn hiệu lực của L/C, thì đương
nhiên ngân hàng mở L/C cũng phải hiểu rằng thời hạn hiệu lực mặc nhiên cũng được kéo
dài thêm x ngày sau đó. Song để tránh tranh chấp, trong điện đề nghị điều chỉnh thời hạn
giao hàng, người xuất khẩu cũng đề nghị kéo dài thời hạn hiệu lực của L/C. Ngược lại nếu
hai bên thoả thuận kéo dài thời hạn hiệu lực của L/C mà không nói đến kéo dài thời hạn
giao hàng thì không thể hiểu là thời hạn giao hàng cũng tự động được kéo dài.
1.5. Những nội dung về hàng hóa.

Tên hàng, số lượng, trọng lượng, quy cách phẩm chất bao bì, ký mã hiệu... cũng
được ghi vào L/C.
1.6. Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa.
Các điều kiện cơ sở giao hàng ( FOB, CIP, C&F), nơi gửi và nơi giao hàng, cách
vận chuyển và cách giao hàng... cũng được ghi vào trong L/C.
1.7. Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình.
Đây là nội dung then chốt của L/C, bởi vì bộ chứng từ thanh toán quy định trong
L/C là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng và làm đúng như điều quy định trong L/C, do vậy ngân hàng mở L/C phải
dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với những điều quy định trong L/C.


1.8. Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C.
Đây là nội dung cuối cùng của L/C và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở
L/C đối với L/C này. Sự cam kết của ngân hàng mở L/C đối với L/C phải nêu bật được ba
ý sau:
+ Đây là sự cam kết thực sự (Engagement), tức là ngân hàng mở L/C cam kết sẽ trả
tiền bằng uy tín và trách nhiệm của mình đối với khách hàng.
+ Là sự cam kết có điều kiện (Conditional Engagement), tức là ngân hàng chỉ thực
hiện sự cam kết của mình với điều kiện là người xuất trình hối phiếu phải có bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với nội dung đã quy định của L/C.
+ Là sự cam kết dự phòng (bảo lưu), tức là ngân hàng chỉ cam kết tôn trọng các hối
phiếu xuất trình đúng hạn và phù hợp với các đIều kiện của L/C, còn có trả tiền hay không
tùy thuộc vào việc xem xét bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C và không mâu thuẫn
với nhau.
1.9. Chữ ký trên L/C hay mã khoá.
L/C thực chất là một cam kết trả tiền có điều kiện của ngân hàng mở L/C nên
người kí nó phải là người có chữ ký uỷ quyền. Nếu L/C mở bằng Telex thì L/C phải có mã
khoá đúng do hai bên quy định thì L/C mới có giá trị.

1.10. Những điều khoản đặc biệt khác.
Ngoài những nội dung kể trên khi cần thiết, ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu
có thể thêm những nội dung khác như có thể đòi hoàn trả tiền bằng điện, về điều kiện đóng
gói hoặc ghi chú khác.
2.Tính chất của L/C.
Điều 3 trong “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” bản sửa đổi
năm 1993 số 500 của phòng thương mại quốc tế quy định: “ Các thư tín dụng về bản chất
là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng này có thể làm cơ sở cho L/C, nhưng các ngân


hàng không hề có liên quan gì hoặc không hề bị ràng buộc bởi những hợp đồng đó, thậm
chí ngay cả khi có bất kỳ một điều dẫn chiếu nào đến các hợp đồng đó được ghi vào L/C ”.
Như vậy, thư tín dụng có các tính chất sau:
- Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán nhưng sau khi ra đời
lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Tính chất này cực kì quan trọng đối với việc
sử dụng L/C trong thanh toán quốc tế.
- Thư tín dụng là một văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng nước người nhập
khẩu đối với người xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản
thanh toán của hợp đồng thương mại. Do đó thư tín dụng phải dựa trên cơ sở hợp đồng.
Những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán như tên hàng, số lượng, giá cả và tổng trị
giá hợp đồng, quy cách phẩm chất, bao bì, thời hạn giao hàng, nơi hàng đến, người trả tiền,
người hưởng lợi... là căn cứ duy nhất của người mua để dựa vào đó mở L/C cam kết trả
tiền cho người bán. Khi nhận được thư tín dụng, người bán phải kiểm tra L/C đó. Hợp
đồng mua bán là căn cứ để người bán kiểm tra L/C. Nếu L/C không mâu thuẫn với hợp
đồng thì người bán sẽ giao hàng và thực hiện nghĩa vụ của mình. Còn ngược lại thì người
bán đề nghị người mua sửa đổi thư tín dụng cho phù hợp rồi mới giao hàng.
Nhưng vì L/C lại do ngân hàng mở để cam kết trả tiền theo yêu cầu của người mua,
cho nên sau khi L/C đã được mở tại một ngân hàng nhất định vào một thời gian nhất định
thì nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Tính chất độc lập của thư tín dụng thể
hiện ở chỗ là nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi L/C (tức là người bán)

không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Ngân hàng mở thư tín
dụng chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở L/C của người mua chứ không căn cứ vào hợp đồng
và chỉ căn cứ vào nội dung L/C để trả tiền cho người bán, căn cứ vào những chứng từ mà
người bán xuất trình. Việc thanh toán của ngân hàng không căn cứ vào thực trạng hàng
hóa. Nếu thực trạng hàng hóa không đúng với chứng từ thì hai bên mua bán phải trực tiếp
giải quyết với nhau không liên quan gì đến ngân hàng, không liên quan đến phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ; nếu người mua không thanh toán tiền với ngân hàng thì ngân


×