Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Nghi lễ vòng đời của người Dao THanh y ở huyện Hoành Bồ, Tỉnh Quảng Nin - Copy (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 197 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÀ

NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CỦA NGƢỜI DAO
THANH Y Ở HUYỆN HOÀNH BỒ,
TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số
: 62 31 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hoan
2. TS. Đặng Thị Hoa

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung
trình bày trong luận án là kết quả điều tra khảo sát thực địa của tác giả tại tỉnh
Quảng Ninh. Các số liệu, kết quả trong luận án hoàn toàn trung thực.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Thu Hà



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án Tiến sĩ về đề tài: Nghi lễ vòng đời của người
Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành tới:
- Ban Giám hiệu trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội - Nhà
Hát NTTH nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện về thời gian để tôi hoàn
thành chương trình học tập và thực hiện luận án.
- Học viện Khoa học xã hội và Khoa Dân tộc học đã tận tình giúp đỡ,
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
- Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, cán bộ huyện, xã
và đồng bào Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh, địa bàn nơi tôi điền dã, nghiên cứu đã nhiệt
tình giúp đỡ và cộng tác giúp tôi thu thập thông tin, tư liệu của luận án.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã chia sẻ, khích lệ tôi trong thời
gian thực hiện luận án.
- Tập thể hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Hoan và TS.
Đặng Thị Hoa đã tư vấn, định hướng khoa học rõ ràng cho tôi trong quá trình
học tập và thực hiện luận án. Tập thể hướng dẫn đã có những ý kiến gợi mở
và đóng góp trực tiếp vào các nội dung nghiên cứu của luận án.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2016
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ..................................... 8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu....................................................................... 8
1.2. Các khái niệm tiếp cận và cơ sở lý thuyết ..................................................... 14
1.3. Giới thiệu về người Dao Thanh Y ở tỉnh Quảng Ninh ................................. 21
Chƣơng 2: NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ CHĂM SÓC, NUÔI DẠY CON ........ 34
2.1. Quan niệm của người Dao Thanh Y về con người và sinh đẻ ..................... 34
2.2. Nghi lễ và kiêng cữ trong quá trình mang thai .............................................. 35
2.3. Nghi lễ và các kiêng kỵ khi sinh con ............................................................. 38
2.4. Lễ đặt tên.......................................................................................................... 40
2.5. Nghi lễ nhận con nuôi ..................................................................................... 44
2.6. Biến đổi trong nghi lễ sinh đẻ ......................................................................... 44
Chƣơng 3: NGHI LỄ TRƢỞNG THÀNH (LỄ CẤP SẮC) ......................... 50
3.1. Tên gọi và ý nghĩa của lễ cấp sắc trong cộng đồng người Dao ở nước ta........ 50
3.2. Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh............. 53
3.3. Các bước chuẩn bị nghi lễ............................................................................... 56
3.4. Các bước nghi lễ cấp sắc................................................................................. 60
3.5. Những biến đổi trong nghi lễ cấp sắc............................................................. 67
Chƣơng 4: NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN VÀ CƢỚI XIN ...................... 72
4.1. Quan niệm của người Dao về hôn nhân......................................................... 72
4.2. Các nghi lễ trong đám cưới ............................................................................. 76
4.3. Các nghi lễ sau đám cưới ................................................................................ 87
4.4. Biến đổi trong nghi lễ hôn nhân ..................................................................... 90
Chƣơng 5: NGHI LỄ TANG MA ................................................................... 99
5.1. Quan niệm của người Dao Thanh Y về sự tồn tại của linh hồn và cái chết 99


5.2. Nghi lễ trong tang ma.................................................................................... 101
5.3. Biến đổi trong nghi lễ tang ma ..................................................................... 116
Chƣơng 6: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ....................................................... 119
6.1. Kết quả ........................................................................................................... 119
6.2. Bàn luận ......................................................................................................... 126

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 150
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN ......................... 161
PHỤ LỤC ....................... ………………………………………………………………..


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH

:

Công nghiệp hóa

GS

:

Giáo sư

HĐH

:

Hiện đại hóa

KHXH

:


Khoa học xã hội

PGS

:

Phó giáo sư

TS

:

Tiến sĩ

Nxb

:

Nhà xuất bản

Tr. (tr.)

:

Trang

UBND

:


Ủy ban nhân dân

YHCT

:

Y học cổ truyền

VND

:

Việt Nam đồng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc luôn là vấn
đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trong xu thế phát triển hiện nay, dưới
sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và đô thị
hóa, nhiều thành tố của nghi lễ trong văn hóa truyền thống tộc người đang bị
biến đổi. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về văn hóa tộc người nói chung, nghi
lễ vòng đời của các tộc người nói riêng có ý nghĩa quan trọng, góp phần gìn giữ
và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa của các tộc người.
Dân tộc Dao là một trong số ít các dân tộc ở Việt Nam có nhiều nhóm
địa phương như: Dao Tiền, Dao Đỏ, Dao Tuyển, Dao Họ, Dao Quần Chẹt,
Dao Thanh Y, Dao Lô Gang…, Mỗi nhóm Dao có những đặc trưng văn hoá
riêng, đa dạng trong các thành tố văn hoá nhưng lại thống nhất trong một số
nghi lễ truyền thống tộc người. Nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của người
Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh giúp chúng ta

hiểu biết một cách toàn diện và có hệ thống sự đa dạng trong văn hóa của tộc
người Dao nói chung, người Dao Thanh Y nói riêng, đồng thời cung cấp
những luận cứ và tư liệu khoa học cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà
nghiên cứu khoa học, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa các giá trị truyền
thống của người Dao Thanh Y trước sự mai một và biến đổi, trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hóa.
Hoành Bồ là huyện miền núi của tỉnh Quảng Ninh, có 5 dân tộc anh em
cùng sinh sống, trong đó, người Dao có hơn 10.515 người với hai nhóm chính
là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Người Dao Thanh Y cư trú tập trung ở
các xã: Tân Dân (1.804 người), Bằng Cả (1.239 người), Đồng Lâm (2.095
người). Những giá trị văn hóa phi vật thể của người Dao Thanh Y như: Hội
làng, lễ cấp sắc, hát giao duyên, tục cưới hỏi, ma chay... được duy trì và bảo

1


tồn từ đời này sang đời khác. Trong đó, nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh
Y đã trở thành dấu ấn trong tiềm thức, là nét đẹp văn hóa tinh thần không thể
thiếu của mỗi người dân nơi đây và cũng là một nét sinh hoạt văn hóa cộng
đồng mang đặc trưng văn hóa truyền thống của các dân tộc ở Việt Nam.
Các loại hình sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành từ
những thói quen, phong tục tập quán trong đời sống sinh hoạt phù hợp với
điều kiện tự nhiên, mang những biểu trưng riêng, đậm bản sắc văn hóa tộc
người. Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y là một di sản văn hóa quý
báu, đồng thời cũng là một kho tư liệu rất quý giúp cho việc nghiên cứu về
nhiều lĩnh vực như: Tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa tộc người… Các nghi lễ
vòng đời của người Dao Thanh Y cũng chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng
mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện bản chất tốt đẹp và mang đậm bản sắc
dân tộc Dao. Thông qua nội dung các bài cúng khấn, các bài hát trong nghi lễ
đã nói lên khát vọng của con người mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc,

thể hiện những quan niệm về đạo đức, chứa đựng những giá trị nhân văn
mang tính hướng thiện và có tính giáo dục sâu sắc. Đồng thời cũng thể hiện
quan niệm đạo đức về lòng chung thủy, tình nghĩa vợ chồng qua lễ kết hôn;
quan niệm về nguồn gốc, tổ tiên dòng họ qua lễ cúng Bàn Vương; học giáo lý của
Đạo giáo, học đạo lý làm người qua lễ cấp sắc...
Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc giao lưu và tiếp
biến văn hóa của người Dao ở Việt Nam nói chung và người Dao Thanh Y ở
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã và đang diễn ra.
Khi vốn văn hóa các dân tộc, đặc biệt là ở nhóm Dao Thanh Y, đang dần biến
đổi, thậm chí có thể mai một mất đi, thì việc nghiên cứu và bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa ấy trong cuộc sống đương đại là rất cần thiết. Do đó, việc
nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y trong bối cảnh hiện
nay không chỉ góp phần giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp của tộc người
mà còn cung cấp những luận cứ khoa học giúp tỉnh Quảng Ninh nhận rõ

2


những giá trị văn hóa của người Dao Thanh Y để có hướng bảo tồn, kế thừa
và phát huy những mặt tốt cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, giúp
cơ quan quản lý nhà nước có những giải pháp phù hợp trong việc ổn định an
ninh chính trị, kinh tế, xã hội, bảo tồn và phát huy các di sản của các tộc
người phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII Về xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và tiếp
tục triển khai Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI Về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Xuất phát từ những nhận thức trên, với thực tế hơn 25 năm làm công tác
văn hóa, tác giả luận án là một giảng viên, biên đạo múa dân gian, dân tộc.
Nghiên cứu và tìm hiểu nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y, với mong
muốn đóng góp thêm vào sự hiểu biết sâu sắc hơn những đặc trưng văn hoá, về

nguồn gốc lịch sử, về sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá của nhóm Dao Thanh Y
với các nhóm Dao khác ở tỉnh Quảng Ninh, từ đó cung cấp những tư liệu khoa
học cho các cấp chính quyền địa phương nơi đây trong việc đề xuất, tìm ra các
giải pháp thích hợp trong việc giữ gìn, làm giàu bản sắc văn hoá phù hợp với
chủ trương, chính sách về nếp sống văn hoá mới của Đảng và Nhà nước tại địa
phương. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh
Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành
Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
- Nghiên cứu có hệ thống và toàn diện nghi lễ vòng đời của người Dao
Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, góp phần làm sáng tỏ đặc
trưng văn hóa của người Dao Thanh Y trong đời sống văn hóa tinh thần
truyền thống cũng như những biến đổi hiện nay.
- Thông qua nghiên cứu, làm rõ những yếu tố biến đổi trong nghi lễ vòng
đời của người Dao Thanh Y từ năm 1986 đến nay, tìm ra những giá trị và một

3


số hạn chế của các nghi lễ trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá tộc
người.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cho việc bảo tồn và phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt không còn phù hợp trong nghi lễ vòng đời
của người Dao Thanh Y.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghi lễ vòng đời (gồm: sinh đẻ,
cấp sắc, hôn nhân và tang ma) của nhóm Dao Thanh Y ở Quảng Ninh, trong
đó tập trung nghiên cứu, thu thập tư liệu tại xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu nghi lễ
sinh đẻ, nghi lễ trưởng thành (lễ cấp sắc), nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang

ma của người Dao Thanh Y từ truyền thống đến biến đổi. Phạm vi truyền
thống được giới hạn là giai đoạn trước năm 1986; Giai đoạn biến đổi được
xác định là từ đổi mới năm 1986 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp luận
Thực hiện luận án này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để xem xét đối tượng
nghiên cứu có mối quan hệ lịch đại và đồng đại, có sự vận động, biến đổi
liên tục trong quá trình phát triển của lịch sử từ truyền thống đến hiện đại;
nghiên cứu sự biến đổi trong các nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh trong mối tương tác với các điều kiện
kinh tế - xã hội, giao lưu tiếp biến văn hóa tộc người. Luận án còn dựa trên
các quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa tộc người phục vụ cho mục đích phát triển và hướng
tới phát triển bền vững.

Phương pháp nghiên cứu

4


Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã sử dụng những phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Đây là phương pháp chủ đạo, quan
trọng nhất nhằm thu thập tài liệu để xây dựng luận án. Tác giả đã sử dụng
các công cụ nghiên cứu trong điền dã dân tộc học như: Quan sát thực địa,
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm: Mỗi công cụ được sử dụng linh hoạt tuỳ
thuộc vào nhóm đối tượng. Tác giả đã thực hiện hơn 35 cuộc phỏng vấn sâu
với các đối tượng, lựa chọn khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp và

địa vị xã hội như thầy cúng, chủ hộ gia đình, nghệ nhân, cán bộ quản lý…
Đây là những người am hiểu phong tục tập quán của người Dao Thanh Y ở
địa phương để tìm hiểu chi tiết về các nghi lễ vòng đời. Qua phỏng vấn sâu,
tác giả đã thu thập được các tư liệu cần thiết để so sánh đồng đại, lịch đại, so
sánh giữa các nhóm đối tượng cung cấp thông tin… Phương pháp thảo luận
nhóm được sử dụng để thu thập thông tin chung của cộng đồng và các ý kiến
đánh giá dựa vào cộng đồng.
Bằng các công cụ nghiên cứu, tác giả tập trung thu thập các tư liệu như: quá
trình thực hiện nghi lễ, các nghi thức, các trò diễn... Trong quá trình sử dụng
phương pháp quan sát, phỏng vấn, ghi chép của điền dã Dân tộc học có sự trợ
giúp của một số phương tiện như máy camera, máy ảnh, máy ghi âm …
- Phương pháp tọa đàm, xin ý kiến chuyên gia: Tác giả thực hiện trao đổi
trực tiếp với những chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực nghi lễ như các cán bộ
nghiên cứu văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh, các chuyên gia ở Trung ương có kinh
nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực về nghi lễ vòng đời, có kiến thức về văn
hoá Dao…, để thu thập những ý kiến đánh giá chuyên sâu và những kinh
nghiệm của họ phục vụ cho các vấn đề nghiên cứu của luận án.
- Phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê: Trong quá trình nghiên
cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ thống, so sánh,
thống kê có chọn lọc nguồn tài liệu của các nhà khoa học khác để kế thừa bổ
sung và rút ra các điểm riêng và chung của đề tài. Một số vấn đề trong luận án

5


được so sánh cả lịch đại và đồng đại nhằm tìm ra sự biến đổi của nghi lễ vòng
đời và những tác động của nó trong đời sống xã hội của người Dao Thanh Y.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, có hệ thống và
chuyên sâu đầu tiên dưới góc độ chuyên ngành Nhân học về nghi lễ vòng đời

của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
- Góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về những đặc trưng văn hoá của nhóm
Dao Thanh Y, về sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá giữa họ với các nhóm Dao
cũng như với các dân tộc khác ở tỉnh Quảng Ninh. Việc nghiên cứu cũng giúp
chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về truyền thống văn hóa, nguồn gốc lịch sử của
người Dao Thanh Y tại một địa phương.
- Góp thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu,
giảng dạy, các nhà quản lý và hoạch định, thực thi chính sách về phát huy các
giá trị văn hoá truyền thống tộc người trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Quảng Ninh và với dân tộc Dao ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án được xây dựng từ các tư liệu thực tế, dưới góc nhìn Nhân học,
góp phần cung cấp cho người đọc một cách có hệ thống những thông tin mới
về nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y.
Qua việc thực hành các nghi lễ (như sinh đẻ, lễ cấp sắc, hôn nhân, tang
ma) chúng ta thấy được giá trị văn hoá, thẩm mỹ, thế giới quan, nhân sinh
quan, bản sắc văn hoá tộc người trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội,
thấy được những mặt tích cực cũng như yếu tố không còn phù hợp với đời
sống văn hoá mới góp phần làm cơ sở khoa học cho các cấp chính quyền địa
phương nơi đây trong việc đề xuất, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách về nếp sống văn hoá mới của Đảng và Nhà
nước tại địa phương, các giải pháp thích hợp trong việc giữ gìn, làm giàu và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong phong trào xây dựng nông thôn mới,

6


phát triển du lịch văn hoá, du lịch cộng đồng ở huyện Hoành Bồ và Festival
Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh .
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
được kết cấu thành 6 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và giới
thiệu địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Nghi lễ sinh đẻ và chăm sóc, nuôi dạy con
Chương 3: Nghi lễ trưởng thành (lễ cấp sắc)
Chương 4: Nghi lễ trong hôn nhân và cưới xin
Chương 5: Nghi lễ tang ma
Chương 6: Kết quả và bàn luận

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam của các tác giả nước ngoài thời kỳ
Pháp thuộc chủ yếu là các linh mục, sĩ quan, một số nhà nghiên cứu khoa học
Pháp. Nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta được công bố trên các tập san
của Trường Viễn đông Bác cổ (BEFEO) và xuất bản thành sách. Đó là các bài
viết của M.Abadie và A.Bonifacy như: Một cuộc công cán ở vùng người Mán
từ tháng 10 năm 1901 đến cuối tháng giêng năm 1902 [5]... Hầu hết các công
trình nghiên cứu này đề cập đến các khía cạnh văn hóa của một số nhóm Dao ở
nước ta như ngôn ngữ, sản xuất kinh tế, phong tục tập quán trong sinh đẻ, cưới
xin, ma chay... Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại dưới dạng mô tả khái
quát và không đi sâu về các nghi lễ vòng đời.
Trong số các tác giả người Pháp, đáng chú ý là A. Bonifacy, một nhà
ngôn ngữ học, đã điều tra điền dã ở nhiều địa phương có người Dao cư trú và

thống kê các tên gọi của từng nhóm Dao (cả tên tự gọi và tên các dân tộc khác
gọi). Ông đã tiến hành phân loại các nhóm Dao trên cơ sở dựa vào hai phương
ngữ, trong đó các nhóm Dao gọi từ người là Mun có Mán Quần Trắng, Mán
Lam Điền, Mán Quần Cộc; còn những nhóm gọi từ người là Miên có Mán
Tiền, Mán Đại Bản hay Mán Sừng... Có lẽ ông đọc được các loại sách ghi
chép bằng chữ Nôm Dao, nên một số công trình nghiên cứu của ông về tôn
giáo tín ngưỡng và văn học dân gian đến nay vẫn còn giá trị tham khảo.
Các học giả Xô Viết trước đây cũng quan tâm nghiên cứu về người Dao
ở Việt Nam. Có thể kể đến một số tác giả như A.I.Lexkinen, N.N.Tsebocxrov,
I.A.Tsebocxrova, M.V.Kriukov... Trong đó, đáng chú ý tới công trình "Chủng
tộc, Dân tộc, Văn hóa" được xuất bản năm 1971 bằng tiếng Nga. Công trình
này đã đề cập đến các yếu tố nhân chủng và một số tập quán liên quan đến các

8


nhóm Dao Đỏ, Dao Thanh Y và Dao Quần Trắng ở Việt Nam, song hầu như
không có tư liệu về nghi lễ vòng đời của tộc người này.
Ngoài ra, phải kể đến một số bài viết của các học giả quốc tế và Việt Nam
đã trình bày tại Hội nghị quốc tế học về người Dao được tổ chức tại Trung
Quốc và Việt Nam. Những bài tham luận khoa học này đã góp phần làm rõ
các vấn đề liên quan tới văn hóa và sự biến đổi kinh tế - xã hội của người Dao
ở Việt Nam và các nước trong khu vực.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Trong các tài liệu thư tịch, người Dao được giới thiệu về nguồn gốc, một
số phong tục tập quán dưới tên gọi là Man. Chẳng hạn như: Kiến văn tiểu lục
của Lê Quý Đôn [30]; “Hưng hóa xứ phong thổ lục" [11]… Các công trình
này ít nhiều đề cập đến nhóm man (từ chỉ chung cho một số dân tộc thiểu số ở
miền núi), trong đó có người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Hưng Hóa ký lược
của Phạm Thận Duật có đề cập nhiều đến các dân tộc ở vùng Tây Bắc Việt

Nam, trong đó có người Dao. Trong mục Phong tục tập quán, Phạm Thận
Duật có nhắc đến đôi nét về người Mán Sừng (Dao Đỏ), người Mán Đạn Tiên
(Dao Làn Tiên)... Tuy nhiên, ông mới chỉ đề cập tới tên gọi, đặc điểm trang
phục và một số tập quán trong hoạt động kinh tế, lối sống [18].
Từ sau khi giải phóng miền Bắc đến nay, để phục vụ cho việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học,
Văn hóa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam.
Đáng chú ý là Trần Quốc Vượng [114], [115], [116]; Bế Viết Đẳng [26], [27],
[28];Bàn Tài Đoàn [29];Nguyễn Khắc Tụng [89], [90]; Phan Hữu Dật [13],
[14], [15], [16], [17]; Lý Hành Sơn [67], [68], [69], [70], [71]; Trần Hữu Sơn
[72], [73], [74], [75];Lê Sỹ Giáo [34];Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý
[52]; Nguyễn Ngọc Thanh [77]; Ngô Đức Thịnh [82], [83], [84];Triệu Tài
Lâm [58]; Hoàng Lương [65]; Vương Xuân Tình [86]; Phạm Văn Dương
[24]… Các công trình nghiên cứu trên đã cho chúng ta một cái nhìn tổng thể
và khá chi tiết về người Dao ở Việt Nam. Với nhiều nguồn tư liệu điền dã
phong phú, chính xác, cụ thể, các tác giả đã đề cập khái quát về tên gọi,

9


nguồn gốc lịch sử, địa bàn cư trú, các hình thức sinh kế, đời sống vật chất,
phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, tri thức dân
gian và những biến đổi trong đời sống sinh hoạt của dân tộc Dao ở nước ta từ
sau 1954 đến nay.
Cũng từ 1954 đến nay, nghiên cứu trực tiếp về các nghi lễ trong chu kỳ
đời người của người Dao, có một số công trình nghiên cứu của Lý Hành Sơn:
Những tập tục liên quan đến dân số và kế hoạch hóa gia đình của người Dao
Tiền ở huyện Ba Bể, Cao Bằng [68], Lễ cưới của người Dao Tiền ở Ba Bể,
Bắc Kạn [69], Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao Tiền
ở Bắc Kạn [71], Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao [70]… Trên cơ sở mô tả

khá sinh động các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người và quá trình biến đổi
của những nghi lễ đó, tác giả Lý Hành Sơn đã làm rõ vai trò, chức năng, giá
trị của những nghi lễ này cũng như đặc trưng văn hóa của người Dao nói
chung, nhất là người Dao Tiền ở Bắc Kạn.
Việc nghiên cứu cụ thể về các nghi lễ trong chu kỳ đời người của dân tộc
Dao còn thấy ở các công trình khác như: Tục cấp sắc của người Dao và tính
giáo dục của nó trong sự phát triển văn hoá xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai [36], Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ Mông Dao ở Việt Nam[61], Người Dao ở Lạng Sơn[63], Lễ cưới người Dao Tuyển
[75], Phong tục tập quán của người Dao Thanh Hoá [111]…
Điểm lại các công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam cho thấy,
các nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa học... đã quan tâm tới nhiều khía
cạnh, lĩnh vực trong đời sống văn hóa - xã hội của người Dao. Đây là nguồn
tài liệu phong phú và quí giá để nghiên cứu một cách toàn điện hơn, sâu sắc
hơn về các nghi lễ vòng đời của dân tộc Dao ở nước ta.
1.1.3. Nghiên cứu về người Dao ở Quảng Ninh
Năm 1999, trong khuôn khổ Chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể,
Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện dự án điều tra, sưu tầm
lễ cấp sắc của người Dao Thanh Phán ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Dự
án đã sưu tầm đầy đủ lễ cấp sắc, mô tả đầy đủ các bước trong lễ cấp sắc của

10


người Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y tại địa phương, 15 nghi lễ của người
Dao Thanh Y và 12 nghi lễ của người Dao Thanh Phán đã được công trình
trình bày sơ lược các bước trong nghi lễ, cũng như diễn giải ý nghĩa của các
bức tranh bắt buộc phải có trong lễ cấp sắc. Có thể nói, lễ cấp sắc là một trong
những phong tục cổ truyền của người Dao chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tâm
linh cũng như nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Những yếu tố đó có tính
nhân văn sâu sắc và được coi như triết lý sống của người dân.

Năm 2005, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở báo cáo
điều tra, sưu tầm hội làng của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành
Bồ đã lập dự án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Dao xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Trong dự án này, các tác giả đã trình bày
các nhóm Dao hiện đang sinh sống tại Quảng Ninh và cách thức phân loại của
từng nhóm Dao, cũng như đề cập một cách khái quát về đời sống kinh tế - xã hội
của người Dao tại xã Bằng Cả.
Ngoài những chương trình lớn kể trên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Quảng Ninh (trước đây là Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh) còn chỉ đạo
thực hiện việc sưu tầm, bảo tồn các loại hình dân ca, dân vũ Dao, lập dự án đầu tư
bảo tồn làng truyền thống dân tộc Dao Thanh Y. Qua dự án bảo tồn làng truyền
thống của người Dao Thanh Y cho thấy, đây là chủ trương lớn của tỉnh trong việc
bảo tồn các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, gắn với mục tiêu bảo tồn cảnh
quan môi trường sống, sinh hoạt đặc thù và tập quán canh tác truyền thống. Bảo tồn
không gian văn hóa, cảnh quan thiên nhiên gắn với phong tục tập quán sinh hoạt
của người dân, cây trồng, các quy trình, phương thức sản xuất, công cụ sản xuất…
Có một số nhà nghiên cứu đã quan tâm tới người Dao ở Quảng Ninh.
Chẳng hạn như: Nguyễn Quang Vinh, nguyên là một sĩ quan biên phòng tỉnh
Quảng Ninh, đã có một số công trình nghiên cứu về người Dao, trong đó, tác
phẩm Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh [113], đã nghiên cứu khá toàn
diện về các vấn đề đặt ra hiện nay ở vùng dân tộc thiểu số nói chung và khu
vực người Dao nói riêng, mô tả khái quát về những đặc điểm văn hóa nổi bật
của các nhóm Dao sinh sống tại địa phương, đặc biệt nhấn mạnh tới những

11


vấn đề liên quan tới tình hình an ninh, quốc phòng tại các huyện trong tỉnh có
người Dao sinh sống. Tác giả Nguyễn Quang Vinh đã tổng kết các vấn đề có
tính thực tiễn của bộ đội biên phòng trong khu vực biên giới, chính vì vậy,

đây là một trong những tài liệu phục vụ cho bộ đội biên phòng và cho cả các
nhà nghiên cứu sử dụng khi đi thực tế tại khu vực người Dao tại Quảng Ninh.
Nguyễn Bảo Đồng (2007) và cộng sự đã có công trình nghiên cứu về các
giá trị y học cổ truyền của người Dao vùng Đông Bắc Việt Nam, trong đó tập
trung khảo cứu chủ yếu vào người Dao ở Quảng Ninh. Các tác giả khẳng định,
người Dao ở Quảng Ninh còn lưu giữ rất nhiều tri thức địa phương về chữa
bệnh bằng thuốc nam gia truyền. Việc khám chữa bệnh bằng YHCT vẫn tồn tại
song song với hệ thống khám chữa bệnh của Nhà nước là do đáp ứng được nhu
cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho người dân, nhất là người nghèo.
Chính việc tham gia của hệ thống thầy lang đã góp phần không nhỏ trong việc
đảm bảo sức khỏe cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn không có điều kiện đến các cơ sở y tế của Nhà nước [31].
Ở một góc nhìn khác, Trần Văn Hà, Lê Minh Anh (2007) đã nghiên cứu
biến đổi tập quán ăn uống của người Dao Thanh Phán ở xã Tân Dân, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Theo các tác giả, những món ăn được gọi là
truyền thống của người Dao khi hạ sơn còn lại rất ít, bản thân người dân cũng
rất ít khi sử dụng và chế biến món ăn truyền thống của mình. Các món ăn trong
những dịp quan trọng như đám cưới, cấp sắc cũng có sự thay đổi rõ rệt khi mà
món ăn thuần Dao có tỷ lệ rất nhỏ, trong khi đó các món ăn có tính chất hỗn
hợp Kinh - Dao có tỷ lệ khá cao, chiếm tỷ lệ từ 40 - 60% tùy thuộc vào loại
hình nghi lễ. Đối với việc ăn uống hàng ngày cũng đơn giản rất nhiều khi mà
lớp trẻ ngày càng tham gia nhiều vào công việc tại các công ty hay cơ quan nhà
nước. Theo các tác giả, nhóm có số lượng thay đổi nhiều nhất tập trung vào
những người tư 20 - 40 tuổi, hầu hết những người này có thiên hướng đi ra
ngoài (buôn bán, công chức, bộ đội…). Như vậy, có thể nói sự biến đổi nhanh
chóng về kinh tế - xã hội trong những năm đổi mới và quá trình đô thị hóa đã
tác động mạnh mẽ tới văn hóa ẩm thực của người Dao, tuy nhiên sự thay đổi đó

12



ở các cộng đồng cũng khác nhau nhất là cộng đồng thuần Dao vào cộng đồng
hỗn hợp [44].
Trong đề tài “Gia đình truyền thống của người Dao Thanh Phán ở xã
Hòa Bình, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh với xây dựng gia đình văn hóa
mới hiện nay”, Nguyễn Thị Thắm đã chỉ ra những yếu tố truyền thống trong
gia đình, vai trò của người phụ nữ Dao trong gia đình và xã hội cũng đã được
nâng cao đáng kể, họ được tham gia các hoạt động của cộng đồng và có tiếng
nói nhất định trong gia đình. Vấn đề giáo dục trong gia đình, các mối quan hệ
giữa cha mẹ, con cái, dòng họ cũng có sự thay đổi theo hướng tích cực, ngoài
các yếu tố truyền thống vẫn được duy trì thì những nét mới trong việc kết hợp
các hình thức giáo dục từ nhà trường và cộng đồng cũng được quan tâm [80].
Vi Văn An trong bài nghiên cứu Tục lệ tang ma của người Dao Thanh
Phán ở Quảng Ninh (Tham luận tại Hội thảo quốc tế về người Dao năm 1995
tại Thái Nguyên) đã đề cập tới khía cạnh của phong tục tập quán của nhóm Dao
Thanh Phán qua tục lệ tang ma cũng như sự tồn tại của linh hồn, quan niệm về
cái chết và sự ảnh hưởng của Tam giáo đối với tục lệ tang ma [1].
Nghiên cứu về người Dao ở Quảng Ninh còn có các tác giả: Trần Văn
Hà (1996), Những biến đổi về kinh tế - xã hội của người Dao ở xã Tân Dân,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh” [43,tr.65- 64], Trần Văn Hà (2006),
Biến đổi các nghi lễ truyền thống tại hai làng người Dao ở tỉnh Quảng Ninh
[44, tr.12 - 19]; Tạ Hữu Dực (2007), Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ
cấu xã hội nông thôn miền núi (nghiên cứu trường hợp ở xã Tân Dân, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) [25, tr.53- 62]; Nguyễn Anh Dũng (1998),
Cuộc sống của người Dao Thanh Y xã Quảng Phong, huyện Quảng Hà, tỉnh
Quảng Ninh [44, tr.12-19].Và một số bài viết của tác giả như: Nguyễn Thị
Thu Hà (2014) Văn hoá truyền thống trong lễ trưởng thành của người Dao
Thanh Y, Hoành Bồ, Quảng Ninh, Tạp chí KHXH miền Trung, số 3, tr .5560 [40]; Nguyễn Thị Thu Hà (2014), Nghi lễ tang ma của người Dao Thanh
Y ở Hoành Bồ, Quảng Ninh, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 365, tr. 18-22
[41]; Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Nghi lễ hôn nhân của người Dao Thanh Y


13


ở Quảng Ninh trong bối cảnh hiện nay, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 367,
tr. 47-51 [42]; Nguyễn Thị Thu Hà (2014), Bảo tồn và phát huy dân ca của
người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Văn hoá nghệ
thuật Quân đội, số 11, tr. 41-43 [39]…
Như vậy, nhiều vấn đề về người Dao ở nước ta đã được đề cập trong
nhiều tác phẩm, bài viết của không ít học giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên,
các nghiên cứu đã công bố mang tính khái quát và chủ yếu đi sâu vào một số
lĩnh vực cụ thể, chưa có nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống và
chuyên sâu về nghi lễ đời người của dân tộc Dao, nhất là nhóm Dao Thanh Y
ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
1.2. Các khái niệm, tiếp cận và cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm
Trong khuôn khổ nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh
Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, tác giả luận giải làm rõ
một số khái niệm cơ bản sau:
- Văn hóa tộc người
Văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng
và đặc thù tộc người, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc
người này với tộc người khác. Các yếu tố văn hoá tộc người là ngôn ngữ mẹ
đẻ, trang phục, các tín ngưỡng và nghi lễ, là vốn dân gian truyền miệng, tri
thức dân gian về tự nhiên, xã hội, về bản thân con người, tâm lý dân tộc…
Mỗi tộc người có nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động sinh kế, lối sống,
nghi lễ, tôn giáo tín ngưỡng riêng, tạo thành đặc trưng của mỗi tộc người và
để phân biệt tộc người này với tộc người khác [83, tr. 229- 230].
- Gia đình là loại hình chung sống có từ hai hay nhiều cá nhân tự xem
mình có quan hệ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và cùng thực

hiện những chức năng trong các lĩnh vực đời sống.
- Nghi lễ
Khái niệm nghi lễ được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau, với cách nhìn
tổng quát, Từ điển tiếng Việt đã quan niệm: Nghi lễ là nghi thức và trình tự

14


tiến hành của một cuộc lễ [91]. Mở rộng khái niệm, Từ điển Nhân học định
nghĩa: Nghi lễ là hành động nghi thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tôn
giáo. Nghi lễ liên quan đến toàn bộ hoạt động của con người, chuyển tải các
thông điệp địa vị văn hóa và xã hội của các cá nhân, bất kỳ hành động của con
người nào có khía cạnh nghi lễ [93].
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, nghi lễ không phải là phản
ứng lại cuộc đời, đó là phản ứng với cái mà tư duy làm nên cuộc đời. Đó
không phải là sự đáp ứng trực tiếp đối với thế giới hoặc thậm chí là với kinh
nghiệm của thế giới, mà đó là phản ứng đối với con người nghĩ về thế giới
(Levis Strauss, 1976). “Nghi lễ thường có bốn yếu tố chính là, hoạt động xã
hội lặp đi lặp lại gồm hàng loạt các động tác có tính biểu tượng dưới múa, hát,
lời nói, điệu bộ, thao tác trên một số đồ vật nào đó; nghi lễ tách riêng khỏi các
hoạt động thường ngày của xã hội; nghi lễ theo đúng một mô hình nhất định
do văn hóa đặt ra; hoạt động nghi lễ liên quan chặt chẽ đến một số tư tưởng
thường xuất hiện trong huyền thoại. Mục đích của thực hiện nghi lễ là để
hướng dẫn việc lựa chọn tư tưởng nêu trên và thực thi chúng qua biểu tượng.
Tuy nhiên, theo quan điểm Nhân học, nghi lễ bao gồm nhiều hoạt động với
tầm rộng hơn các hiểu chung nêu trên bởi: Nghi lễ tạo ra hành động, nghi lễ
hoàn toàn có quyền chuyển đổi, nghi lễ và vui chơi luôn gắn liền và bổ sung cho
nhau” [37, tr. 22- 23].
Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: Nghi lễ có thể dùng để giải tỏa những nỗi
bất an của con người ở cuộc sống trần tục, cũng có thể đưa con người đến gần

hơn thế lực siêu nhiên mà họ tin tưởng [99].
Như vậy, từ các khái niệm trên, có thể thấy rằng, nghi lễ luôn có cấu
trúc rõ ràng, nhất quán về tư tưởng gắn với sinh hoạt đời sống vật chất cũng
như tinh thần của người dân, hình thành nên một quy định mà ở đó tất cả mọi
người phải tuân theo. Nghi lễ là hoạt động xã hội lặp đi lặp lại, gồm một loạt
các động tác có tính chất biểu tượng dưới dạng múa, ca hát, lời nói, điệu bộ,
thao tác trên một số đồ vật nghi lễ tách riêng khỏi các hoạt động thường ngày
trong xã hội. Hoạt động nghi lễ liên quan chặt chẽ đến một số tư tưởng

15


thường xuất hiện trong huyền thoại. Đó có thể là những tư tưởng về bản chất
cái xấu, cái ác, về quan hệ giữa con người và thế giới thần linh.
- Nghi lễ vòng đời là toàn bộ những nghi lễ liên quan đến chu kỳ của một
con người từ khi sinh ra, lớn lên, kết hôn và chết. Trong mỗi xã hội có những
nghi lễ đánh dấu các mốc quan trọng của đời người như: lễ đặt tên, lễ trưởng
thành, lễ cưới, lễ tang...
Theo Từ điển tiếng Việt, thứ nhất, chu kỳ là khoảng thời gian nhất định
để một quá trình tuần hoàn lặp lại sự diễn biến của nó một cách đều đặn. Thứ
hai, chu kỳ là khoảng thời gian tương đối không đổi giữa hai lần diễn ra kế
tiếp nhau của một hiện tượng thường xuyên lặp đi lặp lại [91].
- Chu kỳ đời người được hiểu: (1) Chu kỳ đời người là quá trình sống
của một con người, một cá thể sinh vật, nhìn một cách toàn bộ từ lúc mới sinh
ra cho đến lúc chết (2). Chu kỳ đời người là toàn bộ đời sống xã hội với
những hoạt động, những sự kiện xảy ra trong đó [98].
- Sinh đẻ là sự sinh sôi nảy nở để bảo tồn nòi giống, là công việc của
phụ nữ trong khi họ cố gắng và dùng cơ dạ con của họ để đẩy những đứa con
từ thế giới riêng bên trong tử cung ra một xã hội và văn hóa rộng lớn hơn
[98]. Trevathan (1987) đã miêu tả khá chi tiết về sinh đẻ của người phụ nữ.

Theo ông, có thể thấy, bản chất và ý nghĩa xã hội của sự sinh đẻ đảm bảo quá
trình sinh học, rất cá nhân, nhưng lại phủ dày văn hóa. Trong tất cả các nền
văn hóa, sinh đẻ là một nghi lễ chuyển tiếp, nhấn mạnh những tín ngưỡng sâu
sắc nhất của một nền văn hóa mà tín ngưỡng này được trao truyền và tái
khẳng định trong thời gian chuyển tiếp cơ bản. Các tập quán sinh đẻ hướng sự
tập trung vào các giá trị cơ bản của văn hóa, nói cho người quan sát biết nhiều
về cách mà văn hóa quan niệm về thế giới và vị trí của người phụ nữ [98].
- Hôn nhân theo nghĩa chung nhất là sự liên minh giữa nam và nữ được
hợp thức hóa bởi tập quán và luật pháp của xã hội, nhằm chung sống giới tính
và tái sản xuất ra con người, từ đó sản sinh những quyền hạn và trách nhiệm
của vợ và chồng trong quan hệ với nhau và với con cháu của họ.

16


- Nghi lễ hôn nhân được hiểu là những nghi lễ diễn ra theo tập quán
hoặc theo quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ hôn nhân
là thủ tục khẳng định cuộc hôn nhân đó là hợp pháp làm thay đổi địa vị xã hội
của con người. Để tiến tới hôn nhân cũng như khi đã đạt được cuộc hôn nhân,
mỗi tộc người kể cả mỗi nhóm địa phương tộc người đều trải qua những nghi
lễ nhất định theo quy định mang tính tập quán của tộc người hay nhóm tộc
người đó. Nghi lễ hôn nhân, ngoài mục đích không chỉ đảm bảo cho việc
chứng kiến và có được sự công nhận từ phía cộng đồng về việc hôn nhân, mà
còn để thực hiện một số yếu tố tâm linh gắn với cuộc hôn nhân. Thông qua
nghi lễ hôn nhân thấy được bản sắc văn hóa tộc người và giá trị nhân văn ẩn
chứa trong đó.
Để làm rõ nghi lễ hôn nhân của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, tác giả luận án tập trung vào các nghi lễ trước đám
cưới, trong và sau đám cưới. Qua đó, làm rõ trình tự các bước mà nghi lễ hôn
nhân của nhóm Dao Thanh Y còn được thực hiện cũng như các bước đã lược bỏ

so với hiện tại.
- Tang ma là khái niệm dùng để chỉ cách thức và nghi lễ liên quan
đến người chết và những tín ngưỡng gắn liền với nghi lễ đó mà trọng tâm
là làm thế nào để đưa linh hồn người chết về "an cư" ở thế giới bên kia...
Với tư cách là hiện tượng mang tính phổ quát, người ta thừa nhận, ở khắp
mọi nơi, cái chết đều được hiểu theo cùng một cách. H.R.River (1926) đã
nhận xét rằng, nhờ những hoàn cảnh nghi lễ cụ thể, người chết được giao
cho thế giới tổ tiên chứ không phải cho thế giới của những người đang
sống và như vậy họ không còn được nuôi dưỡng cũng như không còn được
nhắc tới [98]. Durkheim (1915) cho rằng, những tình trạng tâm linh có thể
không bao giờ giải thích được cho các tập quán văn hóa bởi sức mạnh
không thể bác bỏ của cái chết đối với việc làm toát lên những tình cảm
mạnh mẽ nhất, được xem là nguồn của các nghi lễ tang ma khắp mọi nơi.
Vấn đề đặc biệt mà ông quan tâm là ở chỗ, cái chết thường làm nổi lên
những tình cảm mạnh mẽ dường như chỉ gây thêm sự nguy hại cho nhóm

17


có người quá cố. Tuy nhiên, sự giải thích cho các nghi lễ liên quan đến
người chết đòi hỏi sự gắn kết đến bối cảnh văn hóa và xã hội mà nó nằm
trong đó.
- Truyền thống được hiểu là thói quen được hình thành đã lâu trong lối
sống và nếp nghĩ, được trao truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Biến đổi là sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều thay
đổi khác với trước, như: biến đổi xã hội, biến đổi văn hóa, biến đổi tôn giáo
tín ngưỡng... Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ,
tỉnh Quảng Ninh không phải là bất biến mà nó luôn luôn vận động, biến đổi
để thích nghi với hoàn cảnh và yêu cầu của thực tiễn tại địa phương.
1.2.2. Cách tiếp cận và cơ sở lý thuyết

- Cách tiếp cận của đề tài là dưới góc độ Nhân học, do vậy việc nghiên
cứu nghi lễ đời người được chú trọng nhiều hơn về các biểu hiện, chức năng
và vai trò của các nghi lễ trong đời sống xã hội tộc người. Trong khuôn khổ
của luận án, tác giả tiếp cận một số lý thuyết cơ bản của Nhân học, đặc biệt là
những giá trị văn hóa tộc người và sự biến đổi, tiếp biến của văn hóa trong
quá trình vận động và phát triển của xã hội và của mỗi tộc người, mỗi nhóm
tộc người trong những bối cảnh cụ thể.
- Lý thuyết bản sắc văn hoá tộc người
Bản sắc văn hóa tộc người chính là cái hồn, cái sức sống của mỗi dân tộc
thể hiện trong nhiều khía cạnh của văn hóa, đặc biệt là các thành tố văn hóa vật
thể và phi vật thể truyền thống như: Trang phục, nhà ở, ẩm thực, truyện kể dân
gian, dân ca, dân vũ, tri thức địa phương, nghi lễ và tín ngưỡng… Nghi lễ vòng
đời là một trong những thành tố văn hóa còn lưu giữ lại được nhiều nét bản sắc
riêng của mỗi tộc người, mỗi nhóm tộc người và luôn được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác [83].
Việc áp dụng lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người vào nghiên cứu nghi
lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh, sẽ
góp phần quan trọng xác định các đặc trưng văn hoá và bảo tồn, phát huy các

18


giá trị bản sắc văn hóa tộc người trong bối cảnh hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế hiện nay.
- Lý thuyết Nghi lễ chuyển đổi
Vào thế kỷ XX, nhà Nhân học người Bỉ Anorld Van Gennep trong tác
phẩm bằng tiếng Pháp Les rites de passage, xuất bản năm 1960, đã đưa ra lý
thuyết về Nghi lễ chuyển đổi. Theo ông, nghi lễ chuyển đổi là những nghi lễ
đánh dấu sự chuyển đổi của cá nhân trong suốt vòng đời, từ tình trạng này
sang tình trạng khác, từ vai trò, địa vị này sang vai trò, địa vị khác, hợp nhất

những kinh nghiệm của con người và kinh nghiệm văn hóa với vòng đời: ra
đời, sinh con, trưởng thành, kết hôn và chết đi. Nghi lễ chuyển đổi thường đi
kèm với những lễ nghi diễn ra xung quanh những sự kiện liên quan đến đời
người như việc ra đời của một đứa trẻ, tuổi vào đời, hôn lễ, thượng thọ... và
được tiến hành như một sự tiếp nhận khi một cá nhân được chuyển từ vị thế xã
hội này sang một vị thế xã hội khác. Nghi lễ chuyển đổi là lý thuyết đề cập đến
một loại hình sinh hoạt văn hóa được thực hiện nhằm đánh dấu sự chuyển đổi
vị thế của con người trong xã hội. Mỗi nghi lễ phụ thuộc theo nền văn hóa của
mỗi tộc người và tiến hành dưới những hình thức khác nhau [3].
Áp dụng lý thuyết nghi lễ chuyển đổi, luận án mô tả các nghi vòng đời của
người Dao Thanh Y và phân tích những quan niệm về sự trưởng thành và đặc
trưng văn hóa của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
- Lý thuyết biến đổi văn hóa
Cuối thế kỷ XIX, một số nhà Nhân học phương Tây đã có những quan
điểm tiến bộ trong việc xem xét, đánh giá các nền văn hóa. Một loạt các quan
điểm mới về biến đổi văn hóa đã xuất hiện trong bối cảnh này, và một trong
những cách tiếp cận biến đổi văn hóa trong Nhân học Hoa Kỳ với đại diện là
Julian Steward (1902 - 1972). Theo ông, mỗi nền văn hóa có cách tiến hóa
khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện đặc thù của nền văn hóa đó. Để
chứng minh điều này, ông tiến hành nghiên cứu so sánh các cách tiến hóa của
nhiều nền văn hóa qua phân tích quá trình phát triển lịch sử của mỗi nền văn
hóa. Ông gọi nghiên cứu của mình là sinh thái học văn hóa (cultural ecology)

19


×