Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về QUYỀN CON NGƯỜI TRONG xét xử HÌNH sự ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.33 KB, 109 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

PGS:

Phó giáo sư

Nxb:

Nhà xuất bản

PTS:

Phó tiến sĩ (trước đây), Tiến sĩ hiện nay

H:

Hà Nội

M:

Mátxcơva

1




MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
Chương 1: Quyền con người và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con người
1.1 Khái lược quyền con người và vai trò của pháp luật trong việc bảo
đảm quyền con người
1.2 Đặc trưng quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay
2.1 Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con
người của người phạm tội
2.1. 1 Quy định trách nhiệm hình sự

20

2.1. 2 Quy định phân loại tội phạm

22

2.1.3 Quy định hình phạt, mục đích, hệ thống hình phạt

33

2.1.4 Quy định hệ thống chế tài đối với các cấu thành tội phạm
40
2.2 Quy định về xét xử hình sự vớiviệc bảo đảm quyền con người đối
với bị cáo

2.2.1. Các nguyên tắc xét xử
2.2.2 Các nguyên tắc quyết định áp dụng hình phạt

2


(quyết định hình phạt)

2.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế

59

2.2.2.2. Nguyên tắc nhân đạo

61

2.2.2.3. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt

62

2.2.2.4. Nguyên tắc công bằng

63

2.2.3. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử)
2.2.3.1. Quyền được coi là vô tội khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

69


2.2.3.2. Quyền được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục
được pháp luật qui định

69

2.2..3.3. Quyền được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử

69

2.2.3.4. Quyền được tham gia phiên toà

70

2.2.3.5. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng

70

2.2.3.6. Quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của bào chữa
71
2.2.3.7. Quyền được nói lời sau cùng

72

2.2.3.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm

73

Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay
3.1. Quan điểm chung về phương hướng hoàn thiện

3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự.
Kết luận
3


Danh mục tài liệu thao khảo

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và
cũng luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người được
sinh ra và đồng thời cũng phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho
nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là chế
định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, quyền con người được chính thức tuyên bố và ghi
nhận bằng pháp. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, với những
nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang, xét cho cùng cũng chỉ là vì độc lập, tự do,
vì chủ nghĩa xã hội mà cốt lõi của nó là bảo đảm thực hiện quyền con người.
Phản ánh các quá trình phát triển đó, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đến Hiến
pháp 1992 đều thể chế hoá quyền con người, từng bước mở rộng quyền con
người. Trên cơ sở đó, hệ thống chính sách pháp luật bảo đảm quyền con
người ngày càng được củng cố hoàn thiện.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước
ta đã chuyển hoá nhiều nội dung về quyền con người trong các tuyên bố, công
ước quốc tế mà Nhà nước ta tham gia phê chuẩn, ký kết. Bên cạnh các hoạt

động "lập pháp" đó, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, biện pháp và hoạt
động thực tế bảo đảm thực hiện quyền con người. Các cơ quan bảo vệ pháp
luật không ngừng được củng cố, phát triển, xã hội ngày càng công bằng, văn
minh, tạo cho mọi người có môi trường tự do, bình đẳng để thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con người khỏi các hành vi xâm hại.
Song, quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo
đảm thực hiện nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người
mà còn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành,
5


mọi người tham gia. Trong đó, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Bởi vì, một trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử của Toà án chính là
hoạt động trực tiếp bảo vệ quyền con người đôí với bên bị hại và cả bên bị
cáo - là những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại.
Nhiều năm qua, theo quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham gia đấu
tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, trong xét xử
vẫn còn oan sai; quyền con người của bị cáo có lúc có nơi chưa được tôn
trọng còn bị vi phạm, chưa có biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Điều đó, do nhiều
nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng bộ
của pháp luật có tác động đáng kể.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp bách phải hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con người nhất là
pháp luật trong lĩnh vực xét xử hình sự của Toà án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con người được các tổ chức Quốc tế, các nước trên thế giới nói
chung, Việt Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà
khoa học về quyền con người, quyền công dân. Nổi bất trong các công trình

này là hai tập chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân" của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu để đề ra các phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm "xây dựng và hoàn
thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở
nước ta hiện nay" là luận án PTS của thày giáo Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm
nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
biên soạn cuốn sách "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị", xuất bản
6


năm 1997. PGS. TS Trần Ngọc Đường có một số bài viết về quyền con người,
trong đó có bài "Hành vi hợp pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ công dân" in trong tập 1 chuyên khảo "quyền con
người, quyền công dân". Tạp chí cộng sản tháng 5-1993 có đăng bài "Quyền
con người và quyền công dân" của PGS. TS (hiện nay là Giáo sư, Tiến sỹ)
Hoàng Văn Hảo và Chu Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông viết bài
"Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở
nước ta hiện nay" trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12-1998. Tác
giải Nguyễn Văn Hiện có bài "Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân và tổ chức" - Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 8-1999.
Các công trình khoa học, bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu
nghiên cứu, phân tích, luận giải một số nội dung về quyền con người, các biện
pháp bảo đảm quyền con người, vấn đề bảo vệ quyền con người...
Tiến sĩ Phạm Hồng Hải có bài: "Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự ở nước ta" (tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3 năm
1998) nêu lên một số vấn đề về vi phạm quyền con người từ phía cơ quan tiến
hành tố tụng đối với bị can, bị cáo và từ phía các phần tử xấu đối với những
người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống
quy định của pháp luật nước ta hiện nay về bảo đảm quyền con người trong

xét xử hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
* Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật bảo
đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
* Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu về pháp luật bảo đảm thực hiện
quyền con người đối với bị cáo bị truy tố trước Toà mà không đi sâu phân tích
về pháp luật bảo đảm quyền con người đối với các đối tượng khác trong các
7


vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân, gia đình ... cũng như các bên khác tiến hành
hoặc tham gia tố tụng hình sự.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
* Mục đích: Đưa ra các nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
con người trong xét xử hình sự.
* Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con người và nghiên cứu những đặc trưng
của quyền con người trong xét xử hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự.
- Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân tích tổng hợp, khảo sát, so sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người, đặc
biệt là quyền con người trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực

trạng và đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong xét xử
hình sự.
7. Kết cấu đề tài
8


Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương, 6 tiết.

9


Chương I
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

1.1. KHÁI LƯỢC QUYỀN CON NGƯỜI

Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng
định, nhưng những ý tưởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai
cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khi mà trong các Nhà nước chiếm
hữu nô lệ, con người bị coi là những "công cụ biết nói" thì những tiếng kêu cứu
đòi quyền được sống, được tự do, được quyền làm người ... cũng xuất hiện.
Quyền con người , ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là
"đặc quyền". Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo
trong các Nhà nước cổ đại thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị
nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai đó. Do có những cuộc đấu tranh
"làm cho công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh không làm hại kẻ yếu" mà
đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù còn nhiều hạn chế: là công cụ phục
vụ mục đích thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên được tư tưởng về bình đẳng,

dân chủ, pháp luật hoá tư tưởng về quyền con người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp
luật dần hình thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải
thích các vấn đề tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18
trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện như: Spinoda, Hobbes, Kant...
đã mở ra một trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân
chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên,
có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư

10


tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến
tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của
nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải
thần dân của ông vua.
Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, chế độ Nhà
nước phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn
mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc,
nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật là Bộ luật
do Nguyễn Trãi soạn thảo, được ban hành năm 1843 có kế thừa, bổ sung
những luật lệ được ban hành từ rất nhiều năm trước và được nhiều Bộ luật,
luật sau này tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Và suốt các triều đại phong kiến
Việt Nam, vua mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng tư tưởng nho giáo
bị các triết lý nho giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là cha mẹ của dân,
buộc phải thích cái dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lòng dân". Do
đó, vương quyền của vua bị hạn chế, dân cũng có được một số yếu tố về các
quyền dù còn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng.
Như vậy, trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, tư tưởng về quyền
con người đã được đề cập đến nhưng còn rời rạc. Khi cách mạng tư sản nổ ra

thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì
vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một học thuyết, hay nói cách
khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận. Có thể
nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp 1789. "Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại , quyền con người chuyển từ
phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh vực triết học sang
lĩnh vực pháp lý thực tiễn".[40,27]

11


Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, cộng đồng quốc tế thông qua Liên hiệp
quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến
chương Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên
hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ước này). Ở Việt Nam,
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ
phát triển mới về quyền con người trên đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng
thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên
cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người.
Song, trước hết, quyền con người được hiểu là những đặc quyền mà con
người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà
nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù,
những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì chúng
không thể được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có
sự ghi nhận mà cụ thể là bằng pháp luật. Các đặc quyền được pháp luật ghi
nhận, điều chỉnh thì mới chính thức trở thành quyền của con người.

Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người
được pháp luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ
của mình với các cá nhân khác và với chính quyền.
Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được
xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người
mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền con
người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung xã hội, bị chế ước bởi
từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nước" [32,57] và được
"mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội loài người" [49,21].

12


Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân
con người, nhưng quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các
con người khác trong tập thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con người
trở nên vô nghĩa khi con người tách khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập
thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người không thể tách rời nghĩa vụ
của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].
Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân
dân là những con người cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể
xâm phạm được.
Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có
tính"bẩm sinh" nhưng nó không thể chính thức tồn tại nếu không có pháp luật.
Trước hết, vai trò quan trọng của pháp luật đối với quyền con người là nó ghi
nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con người.

Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận.
Thông qua pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm
quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc
phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền con người.
Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại
một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Quyền con người được pháp luật xác lập
mang tính tối cao, ổn định không dễ dàng thay đổi. Điều 50 Hiến pháp 1992
khẳng định: quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là

13


những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng,
phục tùng.
Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trên phương diện pháp
luật, quyền con người ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ các ý
tưởng về quyền được sống như một con người nhằm thoát khỏi "công cụ biết
nói", tư tưởng về quyền con người dần phát triển lên thành những học thuyết,
thành các bộ luật riêng lẻ và trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng quốc
tế, không phân biệt màu da, địa vị, thành phần. Nhờ có pháp luật mà quyền
con người trở thành giá trị chung của nhân loại, được loài người cùng nhau
tôn trọng, bảo vệ. "Chỉ thông qua pháp luật quyền con người mới trở thành ý
chí và mục tiêu hành động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối
với toàn xã hội" [49,47].
"Lịch sử Nhà nước và pháp luật hàng nghìn năm qua và thực tiễn quốc
tế của thế kỷ XX đã và đang chứng minh xác đáng một hiện thực sinh động
rằng: được xây dựng trên nền tảng của các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền
văn minh nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế nên Nhà nước
pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao

quý nhất đồng thời là khách thể hàng đầu ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ bằng
pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự" [70;9,10]. Vì vậy, hoàn thiện pháp
luật bảo đảm quyền con người có ý nghĩa đặc biệt trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn. Nó "phải được xem là hoạt động thường xuyên của Nhà nước để
một mặt đảm bảo cho mỗi một bước phát triển của quyền con người, của dân
chủ đều được ghi nhận và củng cố bởi các quy định luật pháp phù hợp. Mặt
khác, các quy định pháp lý phải mở đường, định hướng thực hiện phát triển
và thúc đẩy quyền con người trong đời sống quốc gia và quốc tế" [59,12]

14


Song, pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận bước tiến của quyền
con người mà nó còn là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà cả
của công dân để bảo vệ và thực hiện quyền con người.
Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn
trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận,
bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật" (Điều 12 Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc
bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền con người. Với
những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc cứng rắn nhất
bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không được vi phạm.
Đồng thời, pháp luật được bảo đảm thi hành bằng bộ máy Nhà nước cùng với
sức mạnh (dư luận) xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con
người còn được bảo đảm bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi
xâm hại. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con người,
quyền công dân đều phải được xử lý nghiêm minh. Như vậy, pháp luật còn là
thước đo việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Qua công tác thực thi pháp
luật mà rút ra những bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày một tốt hơn quyền
con người.

Cũng chính từ việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người mà pháp
luật trở thành phương tiện để công dân có điều kiện bảo vệ mình. Quyền con
người đã được pháp luật ghi nhận tất yếu phải được bảo vệ khỏi bất cứ hành
vi xâm hại nào. Do đó, pháp luật trước hết là cơ sở vững chắc để công dân đòi
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, pháp luật không thể không
ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước, công chức, viên chức Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người. Pháp luật là chuẩn mực
chung, công bằng đối với mọi người. Do vậy, pháp luật còn là đại lượng để
kiểm tra, đánh giá các quyết định, hành vi của Nhà nước, công chức, viên

15


chức Nhà nước, các tổ chức và các thành viên khác trong việc bảo đảm thực
hiện quyền con người.
Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Con
người với các mối quan hệ của nó là đối tượng của sự quản lý Nhà nước. Do
đó, có thể xảy ra việc lộng quyền từ phía Nhà nước và đối diện với nó, quyền
của người dân bị hạn chế. Nhờ có các chuẩn mực, tiêu chí của pháp luật mà
các sai phạm trên dễ bị phát hiện để khắc phục, sửa chữa. Đối với công dân,
để khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, không có
phương tiện nào bảo đảm hữu hiệu hơn là bằng pháp luật. Vì vậy, cùng với việc
xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ vì con người, cho con người thì
việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người dân để họ bảo vệ riêng mình và bảo
vệ xã hội nói chung. Vậy nên "nhân dân phải bảo vệ luật như bảo vệ chốn
nương thân của mình" [xem 48,6].
Là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng
hàng đầu trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển các mặt của đời sống xã
hội (chính trị, kinh tế, văn hoá...) - là điều kiện thiết yếu để thực hiện quyền

con người. Bởi vì, quyền con người không thể được tôn trọng, bảo vệ trong
một xã hội có nền kinh tế, văn hoá và chính trị khủng hoảng; mà chính trị
muốn ổn định thì đường lối chính sách phải được thể chế hoá thành pháp luật
mới có đủ sức mạnh thực hiện trong xã hội. Chính vì điều đó mà Hiến pháp,
luật của các nước không thể không nhắc đến việc bảo vệ chế độ chính trị xã
hội như một trong những mục tiêu chính của mình. Hay nói cách khác để thực
hiện đường lối bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, quyền con người
phải được thể chế hoá trong pháp luật.
Đối với kinh tế-điều kiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con
người - pháp luật tạo khuôn khổ và môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi để
16


phát huy mọi tiềm năng cho sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, có
hiệu quả. Đối với các quyền của con người về kinh tế cũng được quy định
bằng pháp luật. "Pháp luật là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở
thành quan hệ pháp luật" [19,196] và cũng là phương tiện hữu hiệu để các bên
tham gia hoạt động kinh tế bảo vệ lợi ích của mình.
Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ tất yếu
cũng đòi hỏi phải được thể chế hoá bằng pháp luật và vì mục tiêu cho con
người. Văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ phải tạo ra môi trường xã hội
lành mạnh, tự do để con người có điều kiện phát triển. Trong môi trường ấy,
vừa có điều kiện cho việc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa có điều kiện
để mọi người học tập, vừa thuận tiện cho mọi người được hưởng quyền thông
tin

đồng thời cũng hội tụ được những khả năng để đấu tranh không bị

"đồng hoá" bởi những yếu tố độc hại lai căng từ bên ngoài.
Ngoài việc điều chỉnh hành vi con người, pháp luật còn là phương tiện

đăng tải thế giới quan khoa học, các tư tưởng tiến bộ, có tác dụng giáo dục
các thành viên trong xã hội có ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để họ biết tôn
trọng và bảo vệ quyền của các cá nhân con người trong đời sống cộng đồng.
Ngày nay, pháp luật không phải chỉ đóng vai trò tích cực trong bình
diện của mỗi một quốc gia mà nó còn là phương tiện quan trọng trong hội
nhập quốc tế. Vấn đề quyền con người không thể chỉ là của một người, một
cộng đồng, một quốc gia mà còn là của toàn thể nhân loại. Do đó, pháp luật là
phương tiện để các quốc gia tham gia hội nhập quốc tế và thực hiện các cam
kết quốc tế, bảo đảm cho quyền con người được tôn trọng thực hiện ở mỗi
quốc gia đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
Vì mục tiêu chung là tạo điều kiện, môi tường thuận lợi cho con người
phát triển toàn diện mà loài người hiện nay đang phải đối đầu với những
thách thức vô cung to lớn: đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, giải
17


quyết ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chống đói
nghèo .... mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực đấu tranh chung của cộng đồng thế
giới.
Nhằm thực hiện điều đó, Liên hiệp quốc - Tổ chức quốc tế lớn nhất hành
tinh - đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người.
Với quá trình đó, mỗi một quốc gia phải xây dựng nghĩa vụ của mình
trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, trong đó có việc xây dựng hệ
thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế và đặc biệt là nghiêm
chỉnh thực hiện các cam kết nêu trong Công ước, tuyên bố và điều ước Quốc
tế mà nước mình ký kết hoặc tham gia.
Trước tình hình khu vực hoá, quốc tế hoá hiện nay việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân đặt ra cho pháp luật các yêu cầu phát triển bức
bách, thích hợp, một mặt bảo vệ được quyền lợi chính đáng của công dân
nước mình, mặt khác không được tạo ra những phiền hà không đáng có cho

người nước ngoài và kể cả người không quốc tịch. Như vậy, pháp luật là
phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người giữa các quốc
gia và trong cộng đồng quốc tế.
1.2. ĐẶC TRƯNG QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ HÌNH
SỰ.

Quyền con người không những được pháp luật ghi nhận mà còn được
pháp luật bảo vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con người nào
cũng phải được xử lý theo pháp luật. Song, tất nhiên quyền con người còn có
quan hệ chặt chẽ với chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nước, của các tổ
chức, trật tự xã hội... là những khách thể được pháp luật nói chung và luật
hình sự nói riêng bảo vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại do bất cứ
ai thì người đó phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con người
của bị cáo chỉ có thể được coi là bảo đảm khi xét trong một tổng thể các mối
18


quan hệ khác liên quan đến tội phạm do họ thực hiện. Như vậy, việc xử lý đối
với họ buộc phải tuân thủ những trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ
trong pháp luật, vì dẫu sao, quyền con người của họ vẫn phải được tôn trọng.
Đối với bị cáo, quyền con người của họ là vấn đề hết sức nhạy cảm và có một
số đặc trưng sau:
Là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử trên cơ sở kết luận điều tra
và cáo trạng của viện kiểm sát quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ xâm
hại từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. " Sự xâm hại đó có thể do trình độ
non kém trong tổ chức quản lý, do năng lực làm việc hoặc do thiếu tinh thần
trách nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công chức thoái hoá biến chất, vô
đạo đức" [48,49]. Đồng thời một số cán bộ có thẩm quyền chưa nắm vững
pháp luật và tính thiếu chặt chẽ, cụ thể của pháp luật cũng là những nguyên nhân
dẫn đến việc xâm hại quyền con người.

Trong thực tiễn cuộc sống, với cách thức tổ chức thật uy nghiêm một
phiên toà, vị thế của bị cáo thường là yếu hơn so với các cơ quan tiến hành tố
tụng. "Có vụ ngay tại công đường mà Thẩm phán, công tố cũng công khai
mớm cung, đe doạ ... nếu ngoan cố sẽ tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận
tội không đúng sự thật" [61,60]. Do chỗ vị thế của họ như vậy nên cũng có vụ
người tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo sợ nên cứ gật đầu hoặc dạ.
Nghiêm trọng hơn là có trường hợp, việc tổ chức phiên toà chưa dân chủ nên
đã kết tội oan bị cáo, như vụ Bùi Minh Hải bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai
xử phạt tù chung thân về tội giết người và hiếp dâm nhưng chính tên Tèo mới
là thủ phạm gây ra vụ án này. Tại cơ quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận
tội (???) nhưng tại phiên toà bị cáo không nhận tội, song Hội đồng xét xử vẫn
buộc tội bị cáo.
Hơn ai hết, bị cáo là người có nguy cơ cao bị tước một hoặc một số
quyền. Đành rằng chỉ có người nào phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm
19


hình sự, song việc tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền công dân của bị cáo
như thế nào cho tương xứng, phù hợp, đúng pháp luật là vấn đề vẫn được dặt
ra bức xúc.
Cũng chính vì quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại
cho nên nó cần phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị
tước bỏ hoặc hạn chế trái pháp luật.
Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế),
trong quan hệ pháp luật hình sự (cả hình sự và tố tụng hình sự), hàng loạt các
quy định riêng được đặt ra nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân
của các bên tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Đó là các quy
định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân, nghĩa vụ của Nhà nước,
của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, quy định về tội phạm, hình phạt,
trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng. Tổng thể các quy định đó được tập hợp

thành những tư tưởng, nguyên tắc: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế
mà hướng tới mục tiêu chung là bảo đảm quyền con người. Của bị cáo không
bị tước bỏ trái pháp luật. Các quy định đó không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp luật
cần thiết cho các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng và tránh được lạm dụng
mà trước hết và chủ yếu là để bảo vệ con người, giúp mọi người biết rõ pháp
luật để phòng tránh việc vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời cũng biết
được quyền của mình mà thực hiện, bảo vệ.
Vì giá trị cao quý của quyền con người được xã hội thừa nhận, vì quyền
con người được bảo vệ bằng pháp luật, cho nên quyền con người của bị cáo
chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
trên cơ sở pháp luật. Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có Toà
án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước ra quyết định áp dụng các
biện pháp hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài Toà án,
không một cá nhân hay tổ chức nào có quyền được tước bỏ các quyền của bị
20


cáo. Sự phán quyết của Toà án phải dựa trên cơ sở pháp luật và chỉ tuân theo
pháp luật. "Khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo trình tự và các
điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình
phạt được quy định trong luật" [71,36].
Việc hạn chế quyền của bị cáo do Toà án quyết định và phải dược tiến
hành bằng việc xét xử theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt đã được pháp luật
quy định. Vì thế mà pháp luật tạo ra các trình tự, thủ tục khác nhau nhằm khôi
phục lại các quyền, lợi ích của bị cáo bị xâm hại. Cụ thể là, các giai đoạn xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Các giai đoạn này được tiến
hành theo trình tự chặt chẽ nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các quyền, lợi ích
của bị cáo bị xâm hại, khôi phục lại các quyền, lợi ích bị tước bỏ hoặc hạn chế
trái pháp luật "Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét
xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh" (Điều 72, Hiến

pháp 1992). Đồng thời "người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp
luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và khôi phục danh dự"
(Điều 72, Hiến pháp 1992). Không những thế các trường hợp bị cáo bị kết án
tử hình vẫn có quyền viết đơn xin ân giảm.
Như vậy, quyền con người của bị cáo là vấn đề rất nhạy cảm, dễ có
nguy cơ xâm hại, cho nên pháp luật bằng những quy định của mình tạo ra các
điều kiện, trình tự khác nhau, một mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền tuân theo, mặt khác tạo cơ sở vững chắc cho bị cáo bảo vệ quyền, lợi
ích của mình.

21


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Để bảo đảm quyền con người của bị cáo, pháp luật đưa ra một loạt các
quy định buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ. Pháp luật
bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự là tổng thể các qui phạm pháp
luật qui định về tội phạm, hình phạt và xét xử hình sự cùng các quy định khác
nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và các bên có
liên quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự phải được thể
hiện trên tất cả các phương diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc qui định tội
phạm, hình phạt mà còn qui định việc xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó
phải được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập pháp và áp dụng pháp luật, ở cả trong
luật nội dung và luật hình thức. Ở đó, quyền, nghĩa vụ của các bên tiến hành và
tham gia tố tụng được khẳng định, sự thật của vụ án và trách nhiệm hình sự phải
được xác định một cách khách quan, chính xác nhất. Ở đó, quyền, lợi ích hợp

pháp bị xâm hại phải được khôi phục lại, người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do họ gây ra.
2.1. QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM VÀ HÌNH PHẠT VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI.

2.1.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phương châm " biết để không thực hiện" và "phòng tội hơn trị tội",
cho nên pháp luật hình sự , một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị cấm, mặt khác đưa ra các quy định buộc mọi người phải
tuyệt đối tuân thủ. Theo nghĩa đó, Điều 2 Bộ luật hình sự quy định" chỉ người
22


nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự". Đây là cơ sở thống nhất, duy nhất của trách nhiệm hình sự.
Nó khẳng định "chủ thể của một hành vi tội phạm chỉ có thể là một thể nhân
cụ thể - tức là một cá nhân chứ không phải là một tập thể hay một kiểu cộng
đồng nào" [67,4]. Nếu ai đó (bị cáo) đã phải chịu trách nhiệm hình sự thì ít
nhiều, quyền con người, quyền công dân của họ cũng phải bị hạn chế. Cho
nên, ở đây pháp luật quy định là: trách nhiệm hình sự chỉ được đưa ra áp dụng
đối với người phạm tội, tức là khi mà người đó thực hiện hành vi vi phạm
điều mà pháp luật hình sự cấm, hay nói cách khác một người chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự bởi những hậu quả do hành vi của chính người đó gây ra.
Ngoài việc vi phạm điều cấm của pháp luật hình sự - phạm tội ra, thì bất luận
trong trường hợp nào, trách nhiệm hình sự cũng không thể được đưa ra áp
dụng. Không những thế, chỉ có những dấu hiệu của hành vi được mô tả trong
luật mới là cơ sở cho việc giải quyết trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình
sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, là sự phản ứng của Nhà
nước đối với hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định,
tức là đối với tội phạm. Hành vi có thể được coi là tội phạm nếu có các yếu tố

của một cấu thành tội phạm và được luật hình sự quy định. Các yếu tố cấu
thành tội phạm theo luật hình sự Việt Nam bao gồm: khách thể, mặt khách
quan, chủ thể, mặt chủ quan. Vậy, cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là
cấu thành tội phạm. "Cấu thành tội phạm là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ
cho việc thừa nhận rằng người nào đó đã thực hiện một tội phạm nhất định và
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng cần ở nghĩa rằng, thiếu sự có mặt
của tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm ở sự tổng thể của chúng thì
không thể buộc tội người đã thực hiện tội phạm và do đó không thể truy cứu
trách nhiệm của người đó. Chúng đủ là vì rằng, không cần phải xác định thêm
những số liệu bổ sung vào đó để có cơ sở buộc tội người tương ứng trong việc
23


thực hiện tội phạm [38,291]. Như vậy "hành vi của người nào không có đầy
đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm - cơ sở của trách nhiệm hình sự thì người
đó không phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt" [57, 45]. Đây là một
bảo đảm quan trọng cho trách nhiệm hình sự không thể đặt ra tràn lan, vô cớ.
Tuy vậy, cấu thành tội phạm mới chỉ là cơ sở cần và đủ cho việc thừa
nhận con người có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với hành vi, còn chưa đủ
đối với việc lựa chọn biện pháp trách nhiệm đối với người đó. Để cho việc
cân nhắc, quyết định biện pháp trách nhiệm đối với người phạm tội - bị cáo,
Toà án không thể không xem xét nhân thân của họ. Nhưng ở đây, để bảo đảm
công bằng của pháp luật đối với tất cả mọi người, cũng có nghĩa là bảo vệ mọi
người nói chung thì pháp luật chỉ thừa nhận cơ sở trách nhiệm hình sự là hành
vi phạm tội.
Khác với các hệ thống pháp luật khác, pháp luật hình sự nước ta không
chấp nhận nguyên tắc "tương tự", "án lệ" có thể trừng phạt con người một
cách tràn lan, mà khẳng định, mô tả tất cả mọi tội phạm vào một đạo luật duy
nhất: Bộ luật hình sự. Do đó mà quyền con người, quyền công dân được bảo
đảm vững chắc hơn.

Song Bộ luật hình sự mới dừng lại ở việc quy định "Cơ sở của trách
nhiệm hình sự" (Điều 2 BLHS) mà chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là
trách nhiệm hình sự. Nếu đưa ra định nghĩa về chế định này bên cạnh các chế
định "tội phạm" và "hình phạt" đã được định nghĩa thì sức thuyết phục của Bộ
luật hình sự sẽ cao hơn.
2.1.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự không phải là để trừng phạt
mà các quy phạm này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của cá nhân,
một mặt chúng kích thích các hoạt động hợp pháp, khuyến khích các hành vi
24


tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác động kìm chế, đe doạ các động cơ dẫn
đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân" [21,204]. Do vậy, việc quy
định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là quan trọng, nhưng quan
trọng hơn đối với việc quy định tội phạm là xác định rõ ràng giới hạn giữa
hành vi bị coi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu
không xác định cụ thể giới hạn đó thì có hành vi tuy chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ngược lại, có
trường hợp phạm tội lại coi là vi phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm
nguyên tắc công bằng - là nguyên tắc quan trọng được thừa nhận trong pháp
luật Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định được rằng, tội phạm xuất phát từ những
hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì theo
Mác "Chỉ theo mức độ tôi tự biểu hiện ra, theo mức độ tôi bước vào lĩnh vực
thực tế, thì tôi mới bước vào phạm vi nằm dưới quyền lực của nhà lập pháp.
Ngoài những hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp
luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Những hành vi của tôi đó là
lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì hành vi là cái
duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực, và như vậy là do nó

mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành" [42, 513]. Do đó, các yếu
tố khác như: thái độ, ý định, âm mưu, quan điểm của con người khi chưa
được thể hiện trong thực tế bằng hành vi thì không thể coi là tội phạm được.
Còn tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu vật chất tổng hợp của mọi hành vi
trái pháp luật. Việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác dựa
trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi, từ đó đưa tới các phản
ứng khác nhau của Nhà nước đối với từng loại vi phạm pháp luật - pháp luật
hình sự xác định chính xác giới hạn của hành vi phạm tội và hành vi không
phạm tội và được khẳng định tại Điều 8 BLHS "Tội phạm là hành vi nguy
25


×