Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.71 KB, 80 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRỊNH THỊ THU HẰNG

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN HÙNG HẬU

HÀ NỘI. 2010


MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG ĐỂ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
1.1.

Cơ sở kinh tế - xã hội để hình thành tư tưởng chính trị-xã hội của Mạnh Tử

1.2.

Tiền đề tư tưởng để hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử

Chương 2: NỘI DUNG CHÍNH TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA MẠNH TỬ
2.1. Đường lối "nhân chính" của Mạnh Tử
2.2. Tư tưởng "dân bản" của Mạnh Tử
Chương 3: Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ ĐỐI
VỚI NƯƠC TA HIỆN NAY


3.1. Đánh giá mặt tích cực và hạn chế của tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
3.2. Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử đối với nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc do Khổng Tử sáng
lập ra và Mạnh Tử phát triển được gọi là Nho giáo Khổng - Mạnh. Khổng Tử được coi
là ông tổ của Nho giáo còn Mạnh Tử là người đã kế thừa và phát triển xuất sắc tư tưởng
của Khổng Tử. Đề cập tới vấn đề này, nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc là
Trương Đại Niên đã nói: “Trong lịch sử học thuật Trung Quốc, nhà tư tưởng cỏ ảnh
hưởng lớn nhất phải kể đến Khổng Tử, sau đó đến Mạnh Tử” Nhưng “Nếu như không
có Mạnh Tử, tư tưởng Khổng Tử cũng không thể thịnh hành như thế. Vì thế, người đời
sau gọi hệ thống tư tưởng Khổng Tử là đạo Khổng - Mạnh cũng chính là sự thể hiện vai
trò hiển hách của Mạnh Tử” [42, tr.158].
Có rất nhiều ý kiến cho rằng, Nho giáo thực chất là một học thuyết chính trị-xã
hội của giai cấp cầm quyền. Chính vì vậy, phần chủ đạo trong tư tưởng triết học của
Mạnh Tử cũng là tư tưởng chính trị - xã hội. Trong tư tưởng chính trị - xã hội, Mạnh
Tử đề cao đường lối nhân nghĩa, đề cao vai trò của người dân trong xã hội và vạch rõ ra
nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi người đổi với đất nước. Điều này được thể hiện ở một
hệ thống các phạm trù như “dân vi bản”, “nhân nghĩa”, “vương đạo”, “bá đạo”, “tu
thân”, “nhân, lễ, nghĩa, trí”... rất sâu sắc của Mạnh Tử.
Tư tường chính trị - xã hội của Mạnh Từ được truyền vào nước ta hàng ngàn năm
nay. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam, đặc
biệt từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu
và sử dụng tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử làm hệ tư tưởng và công cụ trị nước,

đào tạo ra những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp phong kiến
thống trị. Từ nửa cuối thế kỷ XIX trở lại đây, mặc dù cái bệ đỡ của Nho giáo nói chung
và của tư tưởng Mạnh Từ nói riêng là chế độ phong kiến không còn nữa nhưng một số
nội dung của tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử vẫn còn ảnh hưởng ở một số lĩnh
vực trong đời sống xã hội ở nước ta.
Hiện nay, chủ trương “lấy dân làm gốc” “con người là trung tâm” đều có liên quan
đến tư tưởng “nhân chính” và “dân vi quý - xã tắc thứ chi - quân vi khinh” của Mạnh
Tử. Tư tưởng chính trị-xã hội của Manh Tử có ý nghĩa to lớn để chúng ta tiếp thu xây
dụng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3


Theo chu kỳ, nền kinh tế thế giới cứ một giai đọan nào đó lại diễn ra một cuộc
khủng hoảng. Hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế đã kéo theo nhiều vấn đề xã
hội phức tạp khác. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra năm 2008 bắt
đầu ở các nước phương Tây và nó có ảnh hưởng tói toàn cầu. Nhiều ý kiến cho rằng,
một trong những nguyên nhân làm cho phương Tây, những quốc gia đầu tiên rơi vào
cuộc khủng hoảng kinh tế đó là ở các nước đó đang mất cân bằng giữa kinh tế và đạo
đức. Trong khi đó chúng ta biết rằng, sự cân bằng giữa kinh tế và đạo đức cùng lý tưởng
sống là một trong những tiền đề vô cùng quan trọng để thiết lập một xã hội phát triển
hài hoà và bền vững.
Nhưng cũng sau cuộc khủng hoảng này Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường
quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới. Singapo cũng là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của
Nho giáo. Giải thích về nguyên nhân làm cho Singapo phát triển như ngày hôm nay,
cựu thủ tướng Lý Quang Diệu đã thừa nhận một trong những động lực làm cho Singapo
phát triển đó chính là Nho giáo. Qua đây chúng ta thấy Nho giáo nói chung và tư tưởng
của Mạnh Tử nói riêng đã có nhiều ảnh hưởng nhất định trong sự phát triển của một số
nước Châu Á. Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung
và của Mạnh Tử nói riêng ở các quốc gia trên là những bài học vô cùng quý báu mà
chúng ta phải tham khảo.

Xã hội Việt Nam hiện đại đang đặt ra nhiều vấn đề chúng ta phải giải quyết. Quá
trình toàn cầu hoá một mặt đã và đang làm cho nền kinh tế nước ta phát triển, mặt khác
quá trình nó cũng đang đặt ra nhiều nguy cơ thách thức trong đó có sự khủng hoảng đạo
đức của một bộ phận không nhỏ của người Việt Nam. Ở nước ta, nếu biết kế thừa có
chọn lọc những tinh hoa vân hóa nhân loại trong đó có tư tưởng chính trị-xã hội của
Mạnh Tử thì sẽ phần nào khắc phục được những thiếu sót trên. Nhận thức được tầm
quan trọng của tinh hoa văn hoá truyền thống đổi với sự phát ừiển của xã hội Việt Nam
hiện đại, tại Đại hội lần thứ X (2006), Đảng ta đã xác định: “Tiếp tục phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [23, tr.106]. Theo chủ trương đó thì nhiệm vụ
khai thác và làm giàu thêm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại
trong xã hội hiện đại, trong đó có Nho giáo la một trong những nhiệm vụ hết sức quan

4


trọng. Hiện nay, trước những biến động hết sức phức tạp của đời sống xã hội, một số
nhà nghiên cứu có xu hướng trở lại vấn đề Nho giáo trên tinh thần gợi đục khơi trong
nhằm phát huy những giá trị tích cực của Nho giáo. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
sự ảnh hưỏng của tư tưởng chính tri- xã hội của Mạnh Tử ở Việt Nam. Tuy nhiên, do
những điều kiện khác nhau, các công trình đó chưa cho chúng ta một cái nhìn khái quát
trên bình diện triết học tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử và đặc biệt là ảnh hưởng
của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Và đó cũng chính là lý do mà tác giả chọn vấn
đề “Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử và ý nghĩa của nó đối với nước ta hiện nay”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu Nho giáo nói
chung và tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử nói riêng. Chúng tôi có thể khái quát
một số thành quả nghiên cứu sau:

Các công trình nghiên cứu về Mạnh Tử nói riêng có: Nho giáo của Trần Trọng
Kim, Khổng học đăng của Phan Bội Châu, Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy
Anh. Các công trình này đã phản ánh những quan điểm cơ bản của Mạnh Tử về chính
trị, xã hội, về triết học, về nhân sinh quan. Tuy nhiên, ở các tác phẩm này, các tác giả đã
thể hiện những thái độ cực đoan về Nho giáo, hoặc phủ nhận hoàn toàn những giá trị
tích cực của Nho giáo, hoặc là muốn làm sống lại những giá trị của Nho giáo. Tác phẩm
Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm đã có cái nhìn biện chứng về Nho giáo, theo ông,
Nho giáo có cả mặt tích cực và hạn chế.
Mặc dù những công trình trên đây vẫn mang tính chất chủ quan của người nghiên
cứu nhưng chúng ta không thể phủ nhận những giá trị của các công trình này. Tuy
nhiên, các công trình trên vẫn chưa trình bày đầy đủ về các phạm trù, nội dung của Nho
giáo và của Mạnh Tử.
Những tác phẩm nghiên cứu Manh Tử gồm có: Mạnh Tử linh hồn của nhà Nho của
Nhà Xuất Bản Đồng Nai, Những câu nói bất hủ của Mạnh Tử của Đỗ Anh Thơ, Mạnh Tử
tư tưởng và sách lược của Trí Tuệ, Mạnh Tử của Nguyễn Hiến Lê. Các công trình này đã
trình bày những luận điểm chính trong tư tưởng của Mạnh Tử. Tuy nhiên, phần trình
bày còn chưa đầy đủ, ở một vài chỗ trong những tác phẩm này còn thể hiện tính chủ
quan của tác giả khi bàn về những câu nói của Mạnh Tử.

5


Bên canh những công trình trên còn có các bài báo khác như: Quan niệm của Nho
giáo về xã hội lý tưởng của Nguyễn Thanh Bình đăng trên tạp chí Triết học, (số 3) năm
2001, Những điểm tương đồng và dị biệt trong học thuyết “tỉnh người” của Nguyễn Thanh
Bình đăng trên tạp chí Triết học, (số 9) năm 2002. Tuy nhiên, các bài viết này cũng mới
chỉ đề cập và đánh giá một cách khái quát nhất từng nội dung cụ thể của Nho giáo chứ
chưa đề cập hoàn toàn tới tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử. Bên cạnh đó còn có
các bài báo khác như Mạnh Tử quan niệm về nhân nghĩa của Hoàng Ngọc Yến đăng trên
tạp chí Tia sáng, Từ tư tưởng nhân nghĩa đến đường lổi“nhân chính” trong học thuyết

chỉnh trị - xã hội của Mạnh Tử của Bùi Xuân Thanh đăng trên chí Triết học, (số 2) năm
2008. Hai bài báo này chủ yếu đề cập tới tư tường nhân nghĩa của Mạnh Tử nhưng
chưa đầy đủ.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng Mạnh Tử đổi với lịch sử nước ta thời
phong kiến có các công trình sau: Lịch sử tư tưởng Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ
biên, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thể kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập I
của Trần Văn Giàu Nho học và Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Nho học ở
Việt Nam - Giáo dục và thi cử của Nguyễn Thế Long, Học thuyết chính trị- xã hội của
Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thể kỷ XI đến nửa đầu thế kỳ XIX) của
Nguyễn Thanh Bình, Đặc điểm của Nho Việt của Nguyễn Hùng Hậu đăng trên tạp chí
Triết học, (số 5) năm 1998. Các công trình này phần này đã trình bày được sự ảnh
hưởng của của Nho giáo nói chung và tư tưởng của Mạnh Tử ở Việt Nam trong thời kỳ
phong kiến.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Nho giáo và tư tưởng chính tri- xã hội I của Mạnh
Tử ở nước ta thời kỳ hiện đại có các công trình sau: Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc
xây dụng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay của Minh Anh đăng trên tạp chí Triết học, Khai
thác các giá trị của truyền thống Nho học phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều
kiện toàn cầu hoá của Nguyễn Trọng Chuẩn đăng trên tạp chí Triết học. Nghiên cứu Nho
giáo trong bối cảnh khu vực và thời đại của Phan Văn Các, Đạo đức Nho giáo với việc rèn
luyện và nâng cao phẩm chất đạo đức cộng sản, của Nguyễn Thanh Bình, đăng trên tạp chí
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, (số 4) năm 2000, Nho giáo với vấn để phát triển kinh
tế Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Thanh Bình.
Các công trình trên đã nghiên cứu một cách khái lược về ý nghĩa của Nho giáo và

6


tư tưởng của Mạnh Tử đối với việc hoàn thiện đạo đức của con người Việt Nam hiện
nay. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của tư tưởng của Mạnh: Tử về đường lối đức trị đối với
người cầm quyền, về vấn đề tu thân rèn luyện đạo đức của con người hiện nay như thế

nào là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng chính
trị- xã hội của Mạnh Tử và ý nghĩa của nó trong việc hoàn thiện đạo đức con người
đáp ứng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay của đất nước là một việc làm
cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đề tài tập trung làm rõ tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử và ý
nghĩa của nó đối với nước ta hiện nay
- Nhiệm vụ của đề tài là:
+ Phân tích và khái quát cơ sở kinh tế- xã hội và tiền đề tư tưởng để hình thành nên
tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử.
+ Phân tích và khái quát những nội dung chính trong tư tưởng chính trị- xã hội của
Mạnh Tử.
+ Làm rõ ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử và ý nghĩa của nó
đối với nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng chính trị- xã hội của Manh Tử và ý nghĩa của nó
đối với nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, lịch sử. Luận văn sử
dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin trong nghiên cứu
xã hội, con người và nghiên cứu lịch sử triết học.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một sổ phương pháp nghiên cứu cụ
thể: Phân tích- tổng hợp; lôgíc- lịch sử; đổi chiếu- so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ và hệ thống hoá những nội dung chính trong tư tưởng
7



chính tri- xã hội của Mạnh Tử và ý nghĩa của nó đối với nước ta hiện nay.
Luận văn cỏ thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu Nho giáo
nói chung và tư tưởng của Mạnh Tử nói riêng, đặc biệt là ý nghĩa của nó đối với Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phân mờ đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phân nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở kinh tế- xã hội và tiền đề tư tưởng để hình

thành nên tư tưởng

chính trị- xã hội của Mạnh Tử.
Chương 2: Những nội dung chính trong tư tưởng chính trị- xã hội của I Mạnh Tử.
Chương 3: Ý nghĩa của tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử đối với nước ta
hiện nay.

8


Chương 1
CƠ SỞ KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG
ĐỂ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
Mạnh Tử (371- 289 TCN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư. Ông là người nước
Châu, sát nước Lỗ (nay là huyện Châu thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc).
Mạnh Tử được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút vào thời Chiến Quốc, ông
thuộc dòng dõi quý tộc. Nhưng tới đời ông cha, chi của ông sa sút nên tuy là quý tộc
mà sống như bình dân. Ông mồ côi cha, tuy nhiên ông lại được sự vỗ về, quan tâm của
mẹ. Mẹ của Manh Tử là người phụ nữ hiểu biết lễ nghĩa, hiền từ và nhân ái. Bà dồn hết
lòng vào việc chăm sóc Mạnh Tử và mong Mạnh Tử học hành thành đạt. Điển tích có
ghi Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt

nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Dư,
tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các
tư tưởng Khổng giáo.
Sống trong thời Chiến Quốc, là giai đoạn xã hội loạn lạc, Mạnh Tử đi chu du khắp
nơi đem học thuyết của mình để khuyến cáo các vua chư hầu, nhằm định yên thiên hạ,
thống nhất quốc gia về một mối. Đến đâu ông cũng giảng đạo lý cho các bậc cầm
quyền để giúp họ có phương pháp trị nước hiệu quả mà nhân đạo, nhân chính.
Tuy nhiên, trong bối cảnh “Thiên hạ đang lo hợp tung, liên hoành, lấy việc đánh
nhau làm giỏi. Thế mà Mạnh Tử lại nói đạo đức của các đời Đường, Ngu, Tam đại”
[66, tr.433], do vậy, các vua chư hầu không sử dụng học thuyết của ông. Cuối cùng ông
đành lui về ở ẩn ở nước Lỗ và noi gương Không Tử, ông mở trường dạy học truyền bá
tư tưởng của mình.
Về cuối đời, ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những
cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Chính vì vậy, chúng tôi tìm hiểu nội dung tư tưởng
chính trị- xã hội của Mạnh Tử thông qua cuốn sách Mạnh Tử . Nhận xét về tầm quan
trọng của sách Mạnh Tử trong đường học vấn của Nho giáo thì sách Mạnh Tử rất có giá
trị. Theo như Trình Y Xuyên đời nhà Tống nói: “Kẻ đi học nên lấy sách Luận ngữ và
sách Mạnh Tử làm cốt. Đã biết được hai bộ sách ấy, thì không cần phải học năm Kinh
cũng rõ được đạo của thánh hiền” [42, tr.264]. Trong hàng ngũ Nho gia, ông được coi

9


là Á thánh chỉ đứng sau Khổng Tử.
Theo nguyên lý cơ bản của triết học macxít, giữa tư tưởng và các điều kiện kinh tếxã hội luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, với tính cách là một hình
thái ý thức xã hội, triết học trong quá trình hình thành và phát triển luôn chịu sự chi
phối, ảnh hưởng sâu sắc của những điều kiện lịch sử kinh tế- xã hội nhất định. Lịch sử
triết học hàng ngàn năm của nhân loại, từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây đã chứng minh
rằng không có một học thuyết, trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống
không, mà đều hình thành, phát triển trên những nền tảng, điều kiện kinh tế, chính trị,

văn hoá xã hội nhất định. Đó là sản phẩm của lịch sử, của dân tộc và của thời đại, đồng
thời cũng là tấm gương phản chiếu sâu sắc đến đời sống muôn vẻ của lịch sử, dân tộc và
của thời đại đó. C.Mác đã từng viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất,
họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế, quý giá và vô
hình được tập trung lại trong tư tưởng triết học” [46, tr.156]. Nhiều nhà nghiên cứu nổi
tiếng của Trung Quốc cũng đã khẳng định: “phàm đã gọi là một học thuyết quyết không
thể là một cái gì đó từ trên trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm
ra được nhiều nguyên nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó” [42, tr.12]. “Nhà
tư tưởng thường chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh sống. Cảnh trí chung quanh khiến cho
nhà tư tưởng có ý thức về cuộc sống theo một lối nào đó, và triết học của nhà tư tưởng,
do đó, sẽ có những điểm nhấn mạnh hay không đề cập tới, làm thành những nét đặc biệt
của một triết học” [42, tr. 12].
Qua các nhận định trên, chúng ta thấy tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử
không phải là sản phẩm của sự tư biện thuần tuý của tư duy. Nó không ra đời từ mảnh
đất trống không mà nó được hình thành, phản ánh bối cảnh kinh tế- xã hội Trung Quốc
đấy biến động thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Chính vì vậy, để có cái nhìn đúng đắn nội
dung tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử thì chúng ta phải đi phân tích căn nguyên
của vấn đề này, tức là phải phân tích cơ sở kinh tế- xã hội và tiền đề tư tưởng cho việc
hình thành tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử.
1.1. CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẺ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
Trong lịch sử Trung Quốc thời kỳ cổ đại, Xuân Thu- Chiến Quốc được coi là thời
kỳ có nhiều biến động, rối ren nhất. Thời Xuân Thu- Chiến Quốc kéo dài từ thế kỷ VIII
10


TCN đến thế kỷ III ITCN. Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc đánh dấu
bước chuyển từ việc sử dụng đồ đồng sang sử dụng đồ sắt và việc dùng bò làm sức kéo
trở thành phổ biến, sắt là một phát hiện của dân tộc Di, một tộc người ở về phía Đông
của dân tộc Hoa. Người Hoa Hạ kế thừa được công nghệ đúc sắt của người Di đã chế

tạo ra nhiều công cụ lao động bằng sắt. Sự ra đời của đồ sắt có thể coi như một cuộc
cách mạng trong công cụ sản xuất. Nó trở thành động lực manh mẽ thúc đẩy nền kinh tế
cổ đại Trung Quốc phát triển trên nhiều lĩnh vực nhất là nông nghiệp - là ngành kinh tế
giữ vai trò đặc biệt quan trọng, lâu đời trong đời sống xã hội Trung Quốc. Ngoài ra,
việc sử dụng công cụ bằng sắt là chủ yếu trong quá trình sản xuất đã đem lại sự phát
triển manh mẽ của nền sản xuất thủ công nghiệp.
Trên cơ sở phát triển thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển hơn trước,
tiền tệ đã xuất hiện, trở thành vật trung gian trong trao đổi, mua bán. Đây là thời kỳ
khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Ở Trung Quốc, đã xuất hiện nhiều thành thị
buôn bán nhộn nhịp ở các nước Hàn- Tề- Tần - Sở.
Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ
thị tộc của giai cấp quý tộc thành thị. Thành thị của quý tộc là những đem vị khu vực
kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên. Kinh Thi gọi đó là hiện tượng hai đô thị sánh nhau
trong nước. Sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong xã hội một tầng
lớp thương nhân giàu có và danh tiếng như Phạm Lãi, Huyền Cao (nước Trịnh), Tử
cống (vốn là học trò của Khổng Tử)... Tầng lớp này do nắm trong tay kinh tế nên ngày
càng có thế lực và tham vọng về quyền lực chính trị, đe doạ đến quyền lực của giai cấp
quý tộc cũ. Họ ngày càng có thế lực, nhiều người kết giao với chư hầu, công khanh đại
phu, có nhiều ảnh hưởng đối với đời sống chính trị đương thời.
Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến sự biến đổi
trong kết cấu giai tầng của xã hội, kéo theo các biến động khác về lĩnh vưc chính tri- xã
hội. Ngoài tầng lớp thương nhân đã đề cập, nhiều giai tầng mới cũng xuất hiện trong
đó nổi bật là giai cấp địa chủ ngày càng giàu có và lấn át giai cấp thị tộc cũ. Mặt khác,
do nhân dân được tự do khai khẩn ruộng đất (đặc biệt là ở nước Tần) nên một số bình
dân đã trở thành phú gia, trở nên giàu có, mà khi địa vị đã thay đổi sẽ dẫn đến sự thay
đổi về quyền lợi. Mâu thuẫn chính nổi bật trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa tầng lớp
địa chủ với giai cấp quý tộc thị tộc, giữa bộ phận bảo thủ và bộ phận cấp tiến ngay

11



trong lòng giai cấp quý tộc, giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với
giai cấp quý tộc thị tộc Chu, giữa nông dân công xã thuộc các bộ tộc bị người Chu nô
dịch với nhà Chu và tầng lớp địa chủ mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động
của họ. Đó chính là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi xoá bỏ chế độ nô
lệ thị tộc, thiết lập chế độ xã hội mới - xã hội phong kiến.
Tất cả những điều trên đã làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội Trung Quốc
thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Vai trò của nhà Chu không còn được như trước nữa,
thiên tử nhà Chu chỉ là vua bù nhìn, thể chế chính trị nhà Chu bị rệu rã. Chế độ gia
trưởng (tông pháp) duy trì sự ổn định của xã hội Tây Chu suốt 300 năm, đến thời kỳ
này không còn đủ mạnh để thống tri và trấn áp các nước chư hầu. Do ruộng đất từ
chỗ “Dưới gầm ười này không nơi nào không phải là đất của nhà vua” [39, tr.1132]
dần trở thành tài sản riêng của giai cấp địa chủ mới lên đã dẫn đến sự sa sút về địa vị
kinh tế của giai cấp quý tộc thị tộc Chu, và đưa đến hệ quả tất yếu là sự mất dần địa
vị kinh tế, chính trị của giai cấp này. Ngôi thiên tử của nhà Chu chỉ còn là hình thức,
các nước chư hầu không tuân lệnh, không chịu cống nạp, không thuần phục nhà Chu
nữa. Các trật tự lễ nghĩa cùa nhà Chu không còn được coi trọng. Đến thời Chiến
Quốc thì nhà Chu hoàn toàn mất hết quyền lực.
Các nước chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh, không
chịu cổng nạp mà mang quân thôn tính lẫn nhau, tự xưng là bá. Xuân I Thu - Chiến
Quốc là thời kỳ “vương đạo suy vi”, “bá đạo” nổi lên lấn át “vương đạo”. Mặt khác,
chiến tranh kéo dài liên miên giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân
càng ngày càng thêm khổ cực, trật tự xã hội bị rối loạn, lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại.
Sự tranh giành quyền lực khiến người ta không còn coi trọng nhân nghĩa nên cảnh tôi
giết vua, con hại cha thường xuyên xảy ra trong xã hội đương thời. Thực trạng xã hội
ấy cùng với nạn “tiếm ngôi việt vị” và tình trạng các vua chư hầu tự ý phá bỏ chế độ
triều cống chứng tỏ lễ nghĩa nhà Chu đã bị băng hoại, kỷ cương phép nước đã bị lu mờ
và luân thường đạo lý đã bị đảo lộn.
Tất cả tình hình trên đây là sự phải ánh một thời kỳ lịch sử, mà ở đó xã hội đang
diễn ra quá trình đấu tranh hết sức gay go và phức tạp giữa cái cũ chưa mất hẳn và cái

mới đang manh nha. Đó là quá trình tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ đan xen với quá
trình phong kiến hoá. Vì vậy, có thể nói, thời Xuân Thu là thời kỳ quá độ từ chế độ nô

12


lệ gia trưởng theo kiểu phương Đông sang chế độ phong kiến tập quyền. Trong thời kỳ
quá độ ấy, xã hội Trung Quốc đang rất cần tìm ra một hướng đi mới để thu về một
mối, kết thúc cục diện phân tranh, và chính điều đó đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều đạo
lý xử thế, nhiều dòng tư tưởng khác nhau trong đó có Nho gia.
Tần nằm về phía tây, đất đai cũng rất rộng, chỉ kém Sở (nhất là sau khi nghe lời
Tư Mã Thác; Tần Huệ Vương đem quân chiếm được đất Ba Thục). Tuy đất đai gồm
nhiều rừng núi, dân chúng cũng còn bán khai, nhưng được lợi thế là có cửa Hà Cốc,
một hẻm núi rất hiểm trở, và khi đóng lại thi quân địch dù có thiên binh vạn mã cũng
không qua được, thành thử Tần không bị các nước ở phía đông (Hàn, Ngụy, Tổng...)
tấn công, có thể yên ổn tổ chức sự cai trị, khai khẩn đất đai, trữ lương, luyện binh để
chờ thời. Nhất là từ năm 362 TCN, Tần Hiếu Công dùng Thương Ưởng, áp dụng biến
pháp của Thương ưởng thì Tần càng mau mạnh. Thương Ưởng đặt ra pháp lệnh rất
công bình, vô tư; phạt thì không kiêng kẻ có uy quyền lớn, thưởng thì không vì tình
riêng.
Không chỉ cố vấn về pháp luật, Thương Ưởng còn giúp nhà Tần đề ra những
chính sách khuyến nông, chính sách thuế khóa hiệu quả. Điều này đã giúp cho nước
Tần trở thành nước hùng mạnh nhất ữong các nước.
Dùng biến pháp mười sáu năm, Tần đã mạnh lên rất nhiều. Năm 343 TCN, Hiếu
Công xưng bá, nhiều chư hầu bắt đàu thấy nguy cơ. Năm 333 TCN, Yên, Triệu, Hà,
Ngụy, Tề, Sở theo mưu kể của Tô Tần, hợp tung để chống Tần, nhưng chỉ được một
năm phe hợp tung tan, Tần càng đắc thế. Năm 325 TCN, Tần xưng vương. Năm 311
TCN, Trương Nghi đề xướng thuyết liên hoành, liên kết các nước từ đông sang tây và
đứng về phe Tần để phá các nước khác, và lần lần nhờ tướng Bạch Khởi, Tần thắng
được Ngụy, Hàn, hạ được Sở, uy hiếp được Tề, diệt được Triệu, chiếm được Chu. Năm

256 TCN, nhà Chu dâng đất cho Tần. Từ đó, nhà Tần thôn tính lần lượt các nước khác
và thống nhất Trung Quốc năm 221-TCN.
Thời Chiến Quốc, chiến tranh không còn giữ cái luật “quân tử”- không giết kẻ bạinhư ta thường thấy ở thời Xuân Thu, mà có tính cách dã man, rừng rú: tàn phá cho thật
nhiều, đổ máu cho thật nhiều, chiếm đất bắt dân lành làm nô lệ, còn lính địch thì giết
hàng ngàn, hàng vạn. Dân chủng bị nạn chiến tranh bất tuyệt, già nửa phải đi lính, còn
kẻ ở nhà thì phải nộp thuế gần hết phần hoa lợi. Các vua chúa, đại thần, hầu hết đều

13


truỵ lạc, sống cực kì xa hoa trên xương máu của dân. Những bức tường do những quốc
gia xây dựng nên để ngăn chặn các bộ lạc du mục phía Bắc và ngăn chặn lẫn nhau là
tiền thân của Vạn lý trường thành sau này. Nói về sự tàn khốc của chiến tranh, Chiến
quốc sách chỉ rõ: “Càng tới gần mãn cục thì chiến tranh càng khốc liệt mà tình cảnh
càng bi đát: có nước bắt lính tới một phần năm dân số, ông già bảy chục tuổi cũng phải
tòng quân, có nước thu thuế của dân tới hai phần ba huê lợi mới đủ nuôi quân đội” [41,
tr.9]. Phẫn uất trước cảnh tính mạng của con người bị coi rẻ do cuộc chiến gây ra, Mạnh
Tử viết: “Đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng, đánh nhau tranh thành,
giết người thây chết đầy thành” [48, tr.26-27]. Mặt khác, chiến tranh và sự phát triển
của kinh tế hàng hoá đã thực sự làm tan rã công xã nông thôn. Công xã nông thôn tan rã
cùng với việc mua bán ruộng đất tự do đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào
trong tay số ít lãnh chúa, địa chủ giàu có. Đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải
đi cày thuê, cuốc mướn để kiếm sống, từ đó xuất hiện sự bóc lột bằng phát canh thu tômột trong những biểu hiện của quan hệ sản xuất phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy,
lòng người cũng thay đổi Người ta chỉ đuổi theo tư dục mà bỏ hết nhân nghĩa. Chính vì
vậy, Mạnh Tử đã từng nhận xét rằng: “Hiện nay, lòng dạ người đã bị cỏ lâu (các tư dục)
bế tắc hết rồi” [48, tr.266-267]. Tất cả tình hình đó đã đẩy mâu thuẫn xã hội tới điểm
đỉnh, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ đến những giờ phút cuối cùng.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến đổi toàn diện về các mặt kinh
tế, chính trị, xã hội như vậy đã dẫn đến sự thay đổi cơ bản về tư tưởng, Chiến
quốc là một: thời đại loạn, nhưng cũng là thời tư tưởng Chiến quốc phát triển

mạnh; Người đời sau gọi đây là thời kỳ “Bách gia tranh minh”- trăm hoa đua nở,
trăm nhà lên tiếng.
Chính trong quá trình "tranh mionh" đẻ ra những nhà tư tưởng vĩ đại,
hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh mà những tư tưởng cơ
bản của nó còn tồn tại và ảnh hường sau đó trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc
cho tới các thời đại sau này.
Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa quá trình “tranh minh” giữa các nhà tư tưởng đó
không đưa đến một quan điểm chung thống nhất, một câu trả lời nhất quán cho
câu hỏi lớn của lịch sử. Trong cùng một cơ sở hiện thực xã hội, với cùng một
mục đích, nhưng do khác nhau về địa vị lợi ích giai cấp, khác nhau trong cách

14


đánh giá, nhìn nhận về thực trạng xã hội, về nguyên nhân của tình trạng loạn lạc
cũng như về đạo đức nhân sinh... mà các nhà tư tưởng đã đề xuất những phương án
cải cách xã hội không giống nhau. Chính trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng vĩ đại hình thành nên những trường phái triết học như Nho gia, Đạo gia,
Pháp gia, Mặc gia...
Trừ ở nước Tần ra thì ở các nước khác ngôn luận được hoàn toàn tự do. Các vua
không nghi kị, mà còn tôn trọng kẻ Nho sĩ, mời họ làm cố vấn, tuy không theo chính
sách của Khổng gia, nhưng đãi họ rất hậu; còn hạng biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghị,
Phạm Tuy, Công Tôn Diễn thì một bước lên chức trưởng quốc, Có một điều chúng ta
lần biết là thời Chiến Quốc có một điểm tiến bộ hơn thời Xuân Thu. Nếu như ờ thời Xuân
Thu, chỉ cỏ tầng lớp quý tộc được đề cao thì ở thời Chiến Quốc vì tranh đấu để tồn tại,
các vua chư hầu phải dùng những người tài giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế, võ
trang... ở bất kỳ trong giai cấp nào. Chính vì vậy, địa vị của kẻ sĩ được thăng tiến, địa vị
của hàng quý tộc giảm dần, các giai cấp được tương đối bình đẳng về pháp luật. Điều
này đã hình thành nên những quan niệm của Mạnh Tử về cách đổi xử của nhà vua với
quân thần.

Trong lịch sử Trung Quốc thời cổ đại, Chiến Quốc là thời kỳ diễn ra
những biến chuyển mạnh mẽ sâu sắc về mọi mặt mà tiền đề của sự biến
chuyển ấy đã được tạo ra từ giai đoạn Xuân Thu. Ngoài vấn đề kinh tế phát
triển thì ở thời kỳ này, văn hoá, học thuật (các ngành thiên văn học, y học,
toán học, nông học, sinh vật học, văn học, sử học, triết học) cũng đã đạt được
những bước phát triển mới và có nhiều thành tựu lớn lao.
Những tri thức khoa học đó đã góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất xã
hội phát triển và góp phần phát triển trình độ nhận thức. Đó chính là cơ sở cho
thế giới quan triết học nảy nở, phát triển và để lịch sử đào tạo ra những nhà tư
tưởng lớn của mình.
1.2. TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG ĐỂ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
Không có một học thuyết nào được ra đời trên mảnh đất trống không
mà sự ra đời của nó là sự kế thừa những tư tường triết học trước đó. Tư tưởng
Mạnh Tử ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này. Chúng ta không thể giải
15


thích chính xác thực chất và nội dung tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử
nếu chỉ dựa vào bối cảnh kinh tế- xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến
Quốc mà không chú ý đến việc Mạnh Tử tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phát
triển tư tưởng của các phái Nho giáo, Đạo giáo, Mặc gia... một cách sâu sắc.

* Thứ nhất là phái Nho giáo. Mạnh Tử kế thừa nhiều tư tưởng của Nho giáo, đặc
biệt là tư tưởng đức trị và học thuyết tính người của Nho giáo.
Thuyết tính thiện- cơ sở lý luận trực tiếp cho tư tướng chính trị- xã hội của Mạnh
Tử.
Tìm hiểu quan điểm của Mạnh Tử về tính người là rất quan trọng vì đây là nền
tảng xây dựng nên các quan điểm khác của Mạnh Tử.
Tính người là một vấn đề quan trọng được Nho giáo đề cập nhiều trong lịch sử
triết học Trung Quốc. Đây được coi là vấn đề trung tâm của Nho giáo, là nền tảng để

giải quyết các vấn đề khác. Nguyễn Đăng Thục cho rằng vấn đề này là “vấn đề trọng
đại trong triết học phương Đông” [6, tr.22].
Vấn đề tính người được đặt ra và giải quyết trên các nội dung cơ bản sau: Bản
tính của con người là gì? Do đâu mà có? Chúng ta có thể cải tạo được tính người hay
không? Và cải tạo vấn đề này nhằm mục đích gì?
Trong cuốn sách Trung dung, Khổng đã đưa ra một nguyên lý cơ bản về tính
người: “Mệnh Trời ban cho gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo, tu theo đạo gọi là giáo”
[33, tr.85]. Từ mệnh đề này, phần lớn các nhà Nho đều cho rằng “tính” của con người
có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con người và con người
bẩm thụ lấy. Theo đó, tính là cái bẩm sinh ban đầu, là cái nguyên sơ mà con người có
được nhờ trời. Như vậy, tính của con người là thiện hay ác là phụ thuộc chủ yếu vào sự
tu dưỡng, giáo dục của con người.
Khổng Tử là người đầu tiên đưa ra quan niệm về “tính người”. Quan niệm tính người
của ông là tư tưởng có tính chất nền móng ban đầu cho các nhà Nho về sau, trong đó có
Mạnh Tử kế thừa và phát triển. Khi nói đến “tính người”, Khổng Tử cho rằng: “Bản
tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau” [33, tr.614]. Rõ ràng, theo
Khổng Tử tính của con người khi mới sinh ra là hoàn toàn ngây thơ, trong trắng, tự
nhiên, chưa bị thay đổi bởi ngoại cảnh và các yếu tố xã hội. Và cái bản tính ấy do bẩm
16


thụ được ở trời, cho nên mọi người đều có cùng bản tính này. Đặc biệt, ông khẳng định
rằng, cái bản tính ban đầu ấy của con người có thể bị biến đổi bởi các điều kiện, yếu tố
ngoại cảnh, bởi sự tu dưõng đạo đức của con người. Điểm đáng lưu ý trong quan niệm
về tính người của Khổng Tử là ông đã nhìn thấy phần nào sự thật về quan hệ giữa con
người với xã hội. Theo ông, con người ta không thể vượt qua cái “tập”- đó chính là sự
tác động của tập quán, hoàn cảnh sống, điều kiện sống và nói rộng ra là sự chi phối của
điều kiện lịch sử cùng vói nhân sinh quan của mình. Luận điểm “tính tương cận dã, tập
tương viễn dã” của ông đã cho thấy sự cần thiết phải lập đạo cho con người, bởi lẽ con
người có tính do trời phú nhưng không phải ai cũng giữ được. Khi người ta theo đuổi

dục vọng, sống phóng túng thì tính không khỏi rơi vào tình trạng bất biến. Trong hoàn
cảnh ấy con ngưòi sẽ đánh mất đức nhân và trở thành vô đạo. Con người vô đạo sẽ dẫn
đến cả nước vô đạo, từ đó kéo theo cả thiên hạ vô đạo. Chính vì vậy, phải lập đạo cho
mọi người hữu đạo, cả nước hữu đạo và cả thiên hạ hữu đạo.
Như vậy, mặc dù Khổng Tử chưa luận bàn, giảng giải gì nhiều về vấn đề tính
người nhưng quan niệm về tính của ông là tư tưởng cơ bản, đặt nền tảng ban đầu để từ
đó các nhà Nho về sau kế thừa, phát triển.
Từ thời Chiến Quốc trở về sau, xã hội có nhiều biến loạn, lúc đó vấn đề tính người
mới thực sự được các nhà Nho quan tâm với nhiều quan niệm khác nhau. Sự khác nhau
này là do điều kiện lịch sử và nhu cầu cai trị của giai cấp phong kiến thống trị quy định.
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, “bản tính con người là gì?” Cáo Tử cho rằng: “Bản
tính người ta như nước chảy, khơi sang Đông thì sang Đông, khơi sang Tây thì sang
Tây. Bản tính người ta không phân biệt thiện với bất thiện, cũng như nước chẳng phân
biệt Đông, Tây vậy” [33, tr.l 193]. Như vậy, ở đây Cáo Tử cho rằng tính người không
thiện, không ác.
Trong sách Mạnh Tử, Mạnh Tử bàn nhiều về thuyết tính thiện ở chương Cáo Tử.
Để trả lời câu hỏi “bản tính con người là gì?”, Mạnh Tử xuất phát từ những giá trị có
tính xã hội và thiên về đạo đức nên khẳng định bản tính của con người là thiện. Ông
nói: “Nước đúng là không phân biệt Đông Tây, nhưng há không phân biệt cao thấp hay
sao? Bản tính người ta vốn thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp vậy. Người ta
chẳng ai là bất thiện, như nước luôn luôn chảy xuống thấp vậy” [33, tr.1193]. Trong
chương Cáo Tử, Mạnh Tử đã rất nhiều lần phê phán quan điểm “tính vô thiện, vô bất

17


thiện” của Cáo Tử. Ông nói: “Bản tính của mọi sinh vật đều gọi là tính cả... thì tính của
con chó cũng như tính của con bò, tính của con bò cũng như tính của người ta, chứ gì?”
[33, tr.l 195]. Chúng ta thấy rằng, Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán quan điểm tính không
thiện không ác của Cáo Tử bằng những ngôn từ rất sắc sảo và với thái độ khắt khe.

Giải thích vì sao tính người là thiện thì theo Mạnh Tử cứ theo cái bản năng của
người ta, thì ai cũng có thể làm lành, cho nên nói là thiện. Nếu có điều gì bất thiện thì
không phải là cái tội ở cái bản năng của người ta. Vì ông đưa ra hình ảnh minh hoạ, đó
là đứa trẻ khi mới sinh ra vốn đã sẵn có tình cảm quyến luyến với cha mẹ, lòng yêu mến
anh chị em của mình, ai cũng động lòng thương xót và muốn cứu đứa trẻ khi nhìn thấy
nó sắp té xuống nước. Và từ đây mở rộng ra, theo Mạnh Tử, ai cũng có Tứ đoan hay Tứ
thiện tâm. Ông nói rằng: “Lòng trắc ẩn ai ai cũng có, lòng tu ố ai ai cũng có, lòng cung
kính ai ai cũng có, lòng thị phi ai ai cũng có. Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu
ố là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí
vậy. Nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng phải ở ngoài đổ khuôn vào ta, mà ta có sẵn cả, chẳng qua
không nghĩ tới mà thôi” [33, tr.1205]. Rõ ràng, theo quan niệm của ông thì nhân, nghĩa,
lễ, trí của con người là các đức khi con người sinh ra đã có sẵn rồi.
Như vậy, ở đây Mạnh Tử khẳng định bản tính con người là thiện và cái thiện là do
trời phú cho con người, nó thuộc về bản năng con người, sinh ra con người đã có sẵn.
Bàn về tính người là gì, ngoài thuyết tính thiện của Mạnh Tử ra thì thời kỳ Chiến
Quốc còn xuất hiện thuyết tính ác của Tuân Tử.
Trong sách Nho giáo của Trần Trọng Kim có nói rằng, sau Mạnh Tử độ bốn mươi
năm có Tuân Tử là đại biểu nổi tiếng về học thuật Nho giáo. Theo Tuân Tử: “tính của
người là ác, những điều thiện là người đặt ra” [38, tr.305]. Tuân Tử viện các lẽ để bác
cái thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Theo ông, vì cái tính vốn ác nên thánh nhân mới đặt
ra nhân nghĩa lễ phép để kiểu sức cho cái tính thiện, chứ nếu tính con người là thiện thì
còn cần gì đến bậc thánh bậc vương và nhân nghĩa lễ phép làm gì nữa. Ông cho rằng,
có thể giáo dục giáo hoá để thay đổi bản tính ác của con người vì “Tính là cái ta không
thể làm ra được, nhưng có thể hoá đi được. Tính là không phải tự nhiên ra có được,
nhưng có thể làm cho có được. Chú ý làm lụng, tập thành thói quen để hoá cái tính”
[38, tr.308]. Lý do Tuân Tử khẳng định và bảo vệ thuyết tính ác là vì Tuân Tử sinh sau
Mạnh Tử và khi đó xã hội Chiến Quốc đã rối ren và loạn lạc hơn.

18



Vậy, bản tính của con người có bị thay đổi không? Mạnh Tử cho rằng có: Bản tính
của con người là thiện, nhưng hoàn cảnh làm cho bản tính đó thay đổi. Manh Tử lấy ví
dụ chứng minh rằng: “Những năm no đủ, bọn con em phần lớn hiền lành, những năm
đói kém, bọn con em phần lớn hung bạo. Chẳng phải tại trời phú cho tính chất khác
nhau như thế. Chỉ tại hoàn cảnh nhấn chìm con tim mới ra như vậy” [33, tr.1209]. Con
người sở dĩ thành bất thiện là do hoàn cảnh tác động làm cho cái tâm tính bị lu mờ hoặc
sai lệch tính thiện của con người làm cho con người không còn phân biệt phải trái, thiện
ác.
Hoàn cảnh làm cho bản tính của con người thay đổi nhưng con người lại có thể cải tạo
bản tính đó để đưa nó thành thiện, Mạnh Tử cho rằng: “nếu khéo bồi dưỡng, vật nào
cũng sinh trưởng, nếu mất bồi dưỡng vật nào cũng tiêu ma” [33, tr.1214]. Ở đây, chúng
ta nhận thấy Mạnh Tử đề cao việc giáo dục giáo hoá, bồi dưỡng đạo đức của con người
để con người từ cái mầm thiện vươn tới cái chí thiện để sánh ngang với trời đất Theo
Mạnh Tử, để đạt tới cái chí thiện đó thì con người phải tồn tâm, dưỡng tính, phát huy
hết bản thân.
Mục đích của việc cải tạo tính người là nhờ có việc cải tạo tính người mà con
người có thể nhận biết được tính, nhận biết được tính thì có thể nhận biết được trời đất
vì cái lý của muôn vật đều có đủ noi tâm tính mình. Nhờ có giáo dục mà con người trở
nên tốt đẹp hơn, đưa con người trờ thành bậc quân tử, đưa xã hội từ “vô đạo” thành
“hữu đạo”.
Tuy nhiên, trong quan niệm về tính thiện của Mạnh Tử ít nhiều bộc lộ lập trường
giai cấp khi ông cho rằng: một mặt, tính thiện là điểm chung, vốn có của tất cả mọi
người, mặt khác ông lại cho rằng, chỉ có bậc quân tử mới giữ được tính thiện ấy còn
bậc thứ dân hay tiểu nhân thường bị dục vọng, ngoại cảnh che lấp, cho nên ngay từ đầu,
cái bản tính thiện do trời phú ấy dễ bị đánh mất. Đó là điểm khác nhau giữa người quân
tử và kẻ tiểu nhân. Sở dĩ có điều này là do ông muốn bảo vệ lập trường giai cấp của
mình để duy trì trật tự xã hội cũ. Vì thực chất của việc nghiên cứu bản tính con người
của các triết gia, trường phái là nhằm hoàn thiện, xây dựng mẫu người có đủ khả năng
đưa đời sống chính trị- xã hội vào trật tự, kỷ cương, nền nếp theo ý đồ của giai cấp

mình. Đề cập tới vấn đề này, Nguyễn Tài Thư có viết: Vấn đề con người trong các học
thuyết cổ đại Trung Quốc thực chất là vấn đề khả năng hoạt động chính trị- xã hội và

19


phẩm chất chính trị- xã hội của con người thống trị. Lý luận về vấn đề đó là những
quan niệm sao cho kẻ thống trị giành được chính quyền và giữ được chính quyền, sao
cho xã hội được yên ổn và mọi người trong đó được sống thư thả theo khuôn khổ của
họ [42, tr.72].
So với Khổng Tử, quan niệm tính thiện của Mạnh Tử có khuynh hướng duy tâm
hơn, nhìn nhận bản chất con người thiên về các phương diện tinh thần, đạo đức. Trong
“thuyết tính thiện” và “thuyết tính ác” của Mạnh Tử và TuânTử, dù có những yêu tố và
cách lý giải khá hợp lý nhưng không thể tránh khỏi tính chất trực quan, máy móc, siêu
hình. Mạnh Tử thì thiên về mặt xã hội, đạo đức, còn Tuân Tử thì thiên về mặt bản năng,
tự nhiên của con người để lý giải bản tính vốn có của con người. Rõ ràng, các ông chưa
nhận thức được rằng, bản chất, bản tính của con người là sự thống nhất không thể tách
rời giữa cái sinh vật và cái xã hội. Chính sự khác nhau và hạn chế cơ bản này đã dẫn tới
sự đối lập giữa “thuyết tính thiện” và “thuyết tính ác” trong Nho giáo.
Mặc dù vậy, sự lý giải về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử trái ngược
nhau nhưng đó không phải là sự đối lập nhau hoàn toàn. Cả hai đều thống nhất ở chỗ
là, có thể nhờ giáo dục, giáo hoá để hướng con người ta hướng tới điều thiện. Quang
Đạm nhận xét rằng: “Trong học thuyết tính người, hai thầy Mạnh và Tuân chỉ khác
nhau ở khía cạnh nhận xét và trình bầy chứ không hoàn toàn là quan điểm của hai cá
nhân riêng lẻ nào đó, mà là những quan điểm phản ánh trạng thái đầy mâu thuẫn của hệ
tư tưởng xã hội nước Trung Hoa cổ đại thời Xuân Thu - Chiến Quốc suốt trên dưới hai
thế kỷ trong hoàn cảnh thiên hạ vô đạo” [24, tr.26]. Mặt khác, các ông đều giống nhau
ở luận điểm cho rằng, hoàn cảnh xã hội làm thay đổi bản tính con người và có thể giáo
dục, giáo hoá làm cho bản tính con người trở nên tốt hơn.
Như vậy, khẳng định bản tính người là thiện, Mạnh Tử đã đặt người thống trị và

người bị trị ở quan hệ bình đẳng nhận thấy họ đều có tính thiện phổ biến. Thánh nhân
cũng như người dân, người dân có thể tu dưỡng đạo đức để trở thành các bậc Thánh
nhân. Đây là tư tưởng rất mới, rất nhân đạo, nhân ái của Manh Tử so với xã hội Trung
Quốc thời Chiến Quốc lúc bấy giờ.
Chính học thuyết tính thiện là nền tảng, là cơ sở lý luận cho rất nhiều các học
thuyết khác của Mạnh Tử.
Tư tưởng đức trị của Khổng Tử- tiền đề lý luận của tư tưởng chính trị- xã hội

20


của Mạnh Tử. Tư tưởng đức trị là những quan niệm về đường lối trị nước, quản lý xã hội
dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những nguyên tắc quy phạm đạo
đức để điều chỉnh hành vi của con người trong các quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống
nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Đức trị phản ánh nhu cầu lợi ích xã hội của giai cấp thống trị, được biểu hiện
dưới hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân
lý, được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự giác. Nó được củng cổ bằng
những tấm gương đạo đức.
Khổng Tử, tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni (551-479 TCN), sinh ra ở
nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhỏ đang sa sút. Thời đó quê hương ông là nơi bảo
tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của nhà Tây Chu. Khổng Tử là một trong những
người đầu tiên đề ra tư tưởng đức trị. Ông rất coi trọng việc nhà cầm quyền sử dụng
đức để làm chính trị. Trong sách Luận ngữ đã rất nhiều lần Ông đề cao vai trò của đức
trị. Khổng Tử còn khẳng định rằng, đạo đức là biện pháp hiệu quả nhất để thu phục
nhân tâm, nhân lực trong việc đường lối trị nước vì Khổng Tử nói: “Lấy đức để làm
việc chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều chầu
về” [33, tr.214].
Khổng Tử và Mạnh Tử đều coi đạo đức, lễ giáo có vai trò quyết định trong việc
duy trì quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị và củng cố chế độ phong kiến, trong

việc quản lý xã hội. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt
dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng
đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ gìn trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” [33,
tr.215]. Qua đây chúng ta thấy, Khổng Tử rất đặc biệt đề cao vai trò của đức trị- coi đó
là cách trị nước tốt nhất. Đứng trước bối cảnh thực tiễn của một thời đại mà “Vương đạo
suy vi”, “bá đạo” nổi lên lấp át “vương đạo” của nhà Chu, trật tự, lễ nghĩa của nhà Chu
bị đảo lộn, Khổng Tử than rằng” “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha
không phải đạo cha, con không phải đạo con” [33, tr.483]. Trong lập trường của bộ phận
cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, ông chủ trương lập lại trật tự của nhà Chu với
một nội dung mới, phù hợp với hiện thực khi đó mà ông cho là “khuôn mẫu”, “lý
tưởng”.
Tư tưởng đức trị- của Khổng Tử là sự kế thừa tư tưởng của Vân Vương, Chu Công,
21


là sự phát huy tư tưởng của thời kỳ Tây Chu để mong lập lại kỷ cương mà khi đó nhà
Chu đã làm cho nó trở nên suy đồi. Để thực hiện lý tưởng chính tri đó của mình, ông đã
xây dựng nên học thuyết về Nhân- Lễ- Chính danh. Đây chính là nguồn gốc lý luận trực
tiếp của triết học Mạnh Tử nói chung và tư tưởng chính trị- xã hội của ông nói riêng.
Trước hiện thực xã hội thời nhà Chu bị đảo lộn, Khổng Tử cho rằng nguyên nhân
của tình trạng đó là do tình trạng “danh không chính”, “ngôn không thuận”- nghĩa là
tình trạng “loạn danh”. Xuất phát từ đó ông chủ trương thiết lập lại trật tự xã hội, duy trì
kỷ cương phép nước theo đường lối “nhân trị” và đưa ra chủ nghĩa “chính danh định
phận”.
Khổng Tử là người đầu tiên đặt ra chính danh. Ông yêu cầu phải đặt đúng tên sự
vật và gọi sự vật bằng đúng tên của nó sao cho danh phải đúng với thực chất của sự vật.
Trong tư tưởng đức trị, chính danh là yêu cầu mỗi người cần phải có một phẩm chất
tương xứng với địa vị xã hội của mình và phải suy nghĩ, hành động đúng với địa vị ấy,
không được tranh giành địa vị và bổn phận của người khác, giai cấp khác. Nếu không
chính danh xã hội sẽ loạn.

Trên cơ sở xác định loạn danh là nguồn gốc của sự loạn lạc, phân tranh trong xã hội
Trung Quốc đương thời, Khổng Tử chủ trương chính danh để đưa xã hội từ loạn tới
thịnh trị nên khi Tử Lộ hỏi về việc trị nước thì ông trả lời: ‘Tất phải chính danh chứ gì”
[33, tr.498]. Chính danh là yếu tố vô cùng quan trọng đối với nhà cầm quyền vì “danh
không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không
nên thì lễ nhạc chẳng hung vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng
trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” [33, tr.499]. Do vậy,
“người quân tử đã nêu được tên gọi ắt nói ra được lời, đã nói được ra lời ắt là làm được.
Đối với lời nói ra, người quân tử không bao giờ cẩu thả vậy” [33, tr.499].
Trong thuyết chính danh, Khổng Tử phân chia xã hội thành năm mối quan hệ cơ
bản: vua- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh- em, bạn- bè. Tiêu chuẩn riêng cho từng đối
tượng trong các mối quan hệ đó mặc dù không giống nhau nhưng nó đều thể hiện sự
tôn ti, phép tắc, là tiêu chuẩn của đạo làm người. Điểm đặc sắc trong quan điểm về mối
quan hệ vua- tôi là, Khổng Tử phản đối việc duy trì ngôi vua theo huyết thống. Tư
tưởng ấy chứng tỏ đã có lúc Khổng Tử đã vượt qua lập trường giai cấp, không coi trọng
đẳng cấp xuất thân của kẻ cầm quyền mà chỉ chú trọng đến tài đức của họ. Theo ông,

22


có ba điều nhà cầm quyền phải thực hiện là đảm bảo lương thực cho dân no ấm, xây
dựng được lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ dân và phải được lòng tin với dân.
Trong ba điều ấy thì yếu tố dân tin là quan trọng nhất. Như vậy, có thể nói, Khổng Tử
là người đầu tiên đã đột phá vào tập quán truyền thống trong việc lựa chọn nhà cầm
quyền của xã hội trước đó và đương thời. Ông luôn luôn đề cao tài đức của kẻ cai trị,
quan tâm đến việc khơi dậy và phát huy những đức tính tốt đẹp ở con người và mong
muốn dùng đức để thu phục nhân tâm.
Chính vì thế, để thực hiện chính danh Khổng Tử kiên trì theo quan điểm sử dụng
đạo đức làm công cụ. Nội dung công cụ đạo đức ông đưa ra bao gồm nhân, trí, dũng.
Trong đó nhân đã bao gồm cả lễ, nghĩa, trung, trí, tín. Nhân đứng đầu trong các điều

thiện, là rộng nhất của đạo làm người.
Nhân theo Khổng Tử có rất nhiều nghĩa. Khi trả lời thế nào là nhân, ông đã tuỳ vào
trình độ học vấn và tư cách của từng người mà trả lời có khác nhau. Phàn Trì hỏi về
nhân, Không Tử trả lời: “Đó là người biết yêu người” [33, tr.493]. Nhân là “làm nhân
là khắc kỷ, phục lễ” [33, tr.513]. Khi Trọng Cung hỏi về điều nhân, ông trả lời như
sau: “Điều gì mình gì mình không muốn, chớ thi hành cho người khác” [33, tr.473].
Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về việc thi hành nhân chính, Khổng Tử nói rằng: “Có
thể làm được năm điều (đối với mọi người) trong thiên hạ, là thi hành nhân chính
vậy....Khổng Tử nói: “Đó là: Cung kính, khoan dung, thành tín, cần mẫn và có ơn huệ.
1. Cung kính thì không khinh nhờn, 2. Khoan dung thì được lòng mọi người, 3. Thành
tín thì được người tín nhiệm, 4. Cần mẫn thì nên công, 5. Có ơn huệ thì dễ sai khiến
người” [33, tr.619]. Tựu chung lại, nhân là những điều đối với mình và đối với người,
nên nhân có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người rất hợp tính hợp
lý. Như Khổng Tử đã nói trong chương Lý nhân của sách Luận ngữ: “Chỉ có người
nhân mới biết yêu người, biết ghét người (một cách chính đáng” [33, tr.267].
Đối lập với nhân là bất nhân. Khổng Tử phân biệt rõ người có nhân và kẻ bất
nhân. Người có nhân luôn luôn có tình cảm chân thật, biết hiếu đễ và trung thứ còn kẻ
bất nhân là đầy mưu mô, khôn khéo, không có tình cảm thật thà chất phác. Bất nhân sẽ
tất yếu dẫn đến bất trung, hay làm hại tổn người khác. Từ đó cho thấy, nhân là gốc lớn
của đạo làm người, nhờ đó mà mỗi người biết được phải trái, đúng sai. Do đó, lời nói,
hành vi của mỗi người phải phù hợp với đạo nhân, lấy nhân làm gốc. Khổng Tử nói:

23


“Quân tử từ bỏ đạo nhân, ôi, sao mà nên danh? Quân tử không bao giờ trái với đạo
nhân, dù chỉ trong khoảng một bữa ăn. Lúc vội vàng cũng vậy, lúc khốn đốn cũng vậy”
[33, tr.268].
Vói Khổng Tử, đứng trên phương diện nhân cách thì nhân là đạo đức riêng của con
người, còn đứng trên phương diện thực tiễn thì nhân lại trở thành nguyên tắc luân lý

nên ông rất đề cao vai trò của đức nhân trong việc tri quốc, bình thiên hạ. Theo ông,
đức nhân phải là cái đích tu dưỡng của kẻ cai trị. Nó cần thiết hơn tất cả những gì cần
thiết khác, bởi lẽ đối với nhà cầm quyên, đức nhân như một thành trì để giữ gìn và bảo
vệ những gì mà họ đã đạt được. Để đạt được đức nhân để chính danh Ông nhấn mạnh
vai trò của trí. Khổng Tử cho rằng, người có nhân không thể thiếu trí, trí là sự sáng
suốt, minh mẫn để phân biệt, đánh giá con người và tình huống nhằm xác định cách
ứng xử cho phải đạo. Trả lời Phàn Trì ông nói trí là: “Đó là người biết người” [33
tr.493]. Khi nhìn thấy người ngã xuống giếng, kẻ có trí là kẻ biết tìm cách cứu người
chứ không phải là kẻ liều chết cứu người, hy sinh vô ích.
Trí theo quan niệm của Khổng Tử, một mặt là tri thức bẩm sinh của mỗi người
do trời phú, mặt khác nó còn là kết quả của quá trình học tập trong đời sống. Khổng Tử
rất đề cao việc học, và bản thân ông cũng cố gắng trở thành một nhà giáo dục. Tư
tưởng học làm quan của ông một mặt thể hiện lập trường giai cấp, nhưng mặt khác nó
lại động viên con người dám đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc nước, việc
dân. Những luận điểm “hữu giáo vô loại”, khuyên học trò tự tin ở mình, tìm cách xoá
bỏ sự thụ động của người tiếp thu tri thúc, ứng dụng việc học vào cuộc sống mà ông
đưa ra trong đường lối giáo dục, sau này vẫn được các nhà Nho trong đó có Mạnh Tử
kế thừa và phát triển.
Phạm trù Dũng của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa về mặt thể lực mà còn có ý
nghĩa về mặt tinh thần. Dũng là lòng can đảm: “Người trí chẳng nghi hoặc, người nhân
chẳng lo âu, người dũng chẳng sợ hãi” [33, tr.418]. Lòng can đảm không có nghĩa là sự
liều chết, do đó dũng gắn liền vói trí. Khổng Tử nói: “cương dũng mà thiếu trí thì loạn”
[33, tr.375].
Những tư tưởng trên đây cho thấy Khổng Tử luôn luôn chủ trương lấy đạo đức
làm gốc trong việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đối với ông, khi nhà cầm quyền biết
mang đức nhân làm chính trị, quần chúng nhân dân sẽ cảm phục, tin theo. Khi ấy họ

24



ngồi yên mà được cả thiên hạ. Chính trị là một công việc đầy phức tạp. Từ Khổng Tử
trở về nước vấn đề chính trị thường tách rời đạo đức. Sự áp đặt của kẻ cai trị thường
gây ra sự phản kháng của nhân dân, từ đó sinh ra loạn lạc. Khổng Tử nhận thấy nước
loạn, lòng dân không yên chẳng qua do vua không ra vua, tôi không ta tôi, cha không ra
cha, con không ra con. Chính vì vậy, ông khuyên Tề Cảnh Công: “quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử”. Để làm được điều đó ông đòi hỏi người làm chính trị phải là tấm
gương sáng về đạo đức cho dân, họ phải tu thân, không được lười biếng, phải có tấm
lòng trung thực trong cách đối xử và trong công việc. Như vậy, trong nghĩ của ông,
việc làm chính trị cốt ở bản thân mình.
Mặt khác, trong chính trị, Khổng Tử rất coi trọng giáo hoá dân, đề cao nhân tài,
tài lại không tách rời với đức. Khi kẻ tài đức chấp chính họ sẽ biết lo cho dân về kinh
tế, quốc phòng và biết cai trị bằng đắc nhân tâm. Chính những tư tưởng ấy của ông đã
đặt nền móng tư tưởng dân bản trong đường lối chính trị của Mạnh Tử sau này.
Từ đường lối chính trị trên đây của Khổng Tử, chúng ta nhận thấy Khổng Tử
chính là người đặt nền móng cho tư tưởng đức trị. Tư tưởng ấy của ông thể hiện tập
trung ở những luận điểm: lấy đạo đức dẫn dắt nhân dân, hướng dẫn dân làm giàu kết
hợp với giáo hoá dân và coi trọng dân sinh.
Kế thừa tư tưởng chính danh của Khổng Tử, khi đưa ra mối quan hệ giữa người
với người trong xã hội, Mạnh Tử cũng yêu cầu con người trong xã hội phải danh chính
ngôn thuận, ứng xứ đúng với địa vị danh phận của mình. Như trong chương Đằng Văn
Công, Mạnh Tử nói: “Thánh nhân dạy dân biết các giềng mối của con người: giữa cha
con có tình thân ái, giữa vua tôi có nghĩa vụ, vợ chồng có phân biệt, anh em có thứ tự,
bạn bè có chữ tín” [33, tr.949]. Như vậy, con người phải nắm vững danh phận của mình
với người khác trong xã hội để mà hành xử sao cho phù hợp.
Mạnh Từ sống sau Khổng Tử hơn một trăm năm. Thời đại của ông hỗn loạn hơn
đời Khổng Tử cả về phương diện xã hội lẫn tư tưởng. Trong khi các triết gia đương thời
đang cố gắng tìm ra hướng đi mới trong việc bình ổn xã hội thì Mạnh Tử vẫn trung
thành vói đường lối đức trị trên đây của thầy mình. Toàn bộ tư tưởng chính trị- xã hội
của Mạnh Tử được ông xây dựng trên nền tảng là tư tưởng đức trị của Khổng Tử nên
có thể nói, tư tưởng đức trị Khổng Tử đưa ra từ thời đại Xuân Thu chính là nguồn gốc

lý luận trực tiếp cho tư tưởng chính trị- xã hội của ông.

25


×