Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ mối QUAN hệ GIỮA KINH tế và CHÍNH TRỊ với VIỆC đảm bảo GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA sự PHÁT TRIỂN nền KINH tế NHIỀU THÀNH PHẦN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.64 KB, 108 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
những năm trước đổi mới, nhiều nước XHCN trong đó có nước ta ở những
mức độ nhất định đã mắc phải những lệch lạc, chủ quan duy ý chí. Đó là
một trong những nguyên nhân đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước rơi vào
tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Nhận thức được những lệch lạc đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất
nước và nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn. Đường lối chiến lược phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước định hướng XHCN là sự vận dụng sáng tạo quan
điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện nước
ta hiện nay. Đường lối đó đã mở ra triển vọng vừa giải phóng được mọi
năng lực sản xuất, kích thích kinh tế phát triển, vừa đảm bảo sự định hướng
phát triển kinh tế theo mục tiêu chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Qua 30 năm thực hiện đường lối đó, chúng ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Kinh tế phát triển, mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững.
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp cần phải lý giải, giải quyết. Thực tiễn cho thấy, quá trình
phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ
những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN.
Đối mặt với những nguy cơ này, trong cán bộ đảng viên cũng xuất
hiện nhiều băn khoăn, trăn trở: liệu chúng ta có định hướng chính trị được
sự phát triển nền kinh tế đó hay không? Liệu Nhà nước có quản lý, điều tiết
được nền kinh tế đó theo quỹ đạo XHCN hay không?



2

Hơn nữa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN là
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Quá trình này đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa
phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra hình thức và bước đi thích hợp.
Quá trình đó tất yếu phải có sự lãnh đạo của chính trị đóng vai trò "người
cầm trịch" hướng vào mục tiêu CNXH. Chính vì vậy, việc nghiên cứu mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị đặc biệt là tìm ra những giải pháp nâng
cao vai trò của chính trị trong lãnh đạo, quản lý, điều tiết kinh tế để vừa
thúc đẩy sự phát triển kinh tế vừa đảm bảo định hướng XHCN trong sự
phát triển của nó vẫn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đó
là lý do tại sao tác giả luận văn chọn đề tài "Mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay" là đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau liên quan tới luận văn: Khổng Doãn Hợi, "Quan hệ giữa kinh tế và
chính trị ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, 6/1993; Lê Hữu Nghĩa, "Vai trò
của chính trị trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí
Cộng sản, Hà Nội, 5/1996; Nguyễn Tiến Phồn, "Vai trò lãnh đạo chính trị
của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, số 3/1995;
Nguyễn Trọng Chuẩn, "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách
kinh tế và đổi mới chính sách xã hội", Tạp chí Triết học, số 3/1996;
Nguyễn Chí Mỳ, "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản, số
10/1997;...



3

Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập
đến các góc độ khác nhau của đề tài: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, nội dung cơ bản và những điều kiện chủ yếu để thực hiện", Luận án
tiến sĩ Khoa học triết học chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học, của
Nguyễn Văn Oánh; Hà Nội 1994 "Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của
kiến trúc thượng tầng chính trị đối với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học của
Huỳnh Thanh Minh, Hà Nội, 1997; "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn
Văn Ninh, Hà Nội, năm 2001; "Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của
Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Luận án tiến
sĩ triết học của Lê Thị Hồng, Hà Nội, năm 2001.
Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khá nhiều khía
cạnh khác nhau của đề tài, song việc nghiên cứu vấn đề "mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay" vẫn là vấn đề bức xúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi
mới, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị
trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
thời kỳ quá độ lên CNXH.



4

- Làm rõ sự nhận thức và vận dụng về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của chính trị nhằm
đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay.
3.3. Giới hạn của luận văn
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ đó
vào thực tiễn đổi mới của nước ta, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò tác
động của chính trị mà cụ thể là vai trò của các chủ thể như Đảng và Nhà
nước trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Từ đó
nêu bật vai trò quan trọng của chính trị trong việc định hướng XHCN nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chính trị của
Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ giữa
kinh tế - chính trị.

Luận văn có tham khảo kết quả của nhiều công trình có liên quan.


5

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phân tích và
tổng hợp, lịch sử và lôgíc...
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập và
giảng dạy môn triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương 4 tiết.


6

Chương 1
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM

1.1. QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

1.1.1. Quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị trong sự phát triển xã hội
Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Ngày nay, khái niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:

- Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với
mỗi trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
- Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế,
thành phần kinh tế và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý
kinh tế.
Như vậy nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống
xã hội, hay nói cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn,
muốn tồn tại, con người cần phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa
bệnh... Tất cả những gì thuộc kinh tế theo nghĩa đó - còn gọi là tư liệu sinh
hoạt - không phải do thần thánh sinh ra, mà do con người dùng công cụ lao
động của mình tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà
con người dùng để làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo
ra.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể
tiến hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được, mà trái lại, muốn tiến


7

hành sản xuất, con người chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà còn
có quan hệ với nhau để cùng hoạt động, trao đổi kinh nghiệm và kết quả
lao động. Khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ này C.Mác nói: "Người
ta không thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo một cách
nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra
trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó [28, tr. 552]. Vì lẽ
đó, khái niệm "kinh tế" đã chứa đựng trong nó cả những quan hệ giữa
người với tự nhiên, lẫn những quan hệ giữa người với người trong quá trình

sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. Khái niệm "kinh tế" cũng có thể dùng để
chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở
kinh tế của xã hội đó. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên
một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã
hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [29, tr. 15].
Nói đến nền tảng kinh tế của xã hội cụ thể là nói đến toàn bộ những
quan hệ sản xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong
một xã hội cụ thể. Trong các chế độ xã hội tồn tại cho đến nay, bên cạnh
quan hệ sản xuất thống trị vẫn còn quan hệ sản xuất tàn dư của chế độ xã
hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cho nên kinh
tế của một xã hội cụ thể được đặc trưng, trước hết, bởi kiểu quan hệ sản
xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy đồng thời bao gồm cả những quan hệ
sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong cơ sở kinh tế đó, cái
giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và có tác dụng quyết định đối với sự
phát triển kinh tế là quan hệ sản xuất thống trị.
Tóm lại, khái niệm "kinh tế" có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
như đã trình bày ở trên. Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng khái


8

niệm "kinh tế" theo nghĩa là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành cơ
cấu kinh tế của một xã hội cụ thể.
Trong sự phát triển của lịch sử loài người không phải bao giờ cũng
tồn tại chính trị. Chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử, đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của
nó không còn nữa.
Trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, xã hội loài
người chưa xuất hiện vấn đề chính trị. Khi nền sản xuất xã hội phát triển

đến một mức độ nhất định, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại
năng suất lao động cao hơn. Xã hội bắt đầu có của cải dư thừa, tạo điều
kiện khách quan cho sự ra đời của chế độ tư hữu. Sự ra đời của chế độ tư
hữu là cơ sở của sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội, đồng thời là
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các giai cấp đối kháng. Sự đối kháng
giữa các giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa đã dẫn đến
sự ra đời của nhà nước. Từ đó bắt đầu xuất hiện vấn đề chính trị.
"Chính trị" theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước,
là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm
xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính
quyền nhà nước [1, tr. 507].
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã
hội có vị trí khác nhau trong việc quản lý nhà nước. Do đó, các giai cấp,
các tập đoàn xã hội đấu tranh với nhau để giành, giữ và sử dụng nhà nước.
Như vậy, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn, các tầng
lớp xã hội về mặt nhà nước.
Chính trị - những quan điểm, tư tưởng chính trị và những thiết chế
xã hội tương ứng với nó như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã
hội... - là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, khái niệm
chính trị được sử dụng trong luận văn này là hiểu theo nghĩa đó.


9

Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm
trong lịch sử triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên
nhân của các sự biến lịch sử không phải trong kinh tế mà ở trong chính trị,
tôn giáo hoặc trong các nhân tố tinh thần khác.
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi
tìm nguyên nhân của các động cơ tư tưởng trong lĩnh vực tồn tại xã hội, tìm

nguyên nhân của chính trị trong lĩnh vực kinh tế.
Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với chính trị. Vai
trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ: Kinh tế tạo
ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo
ra điều kiện để hình thành các chính đảng của các giai cấp thông qua các
cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho sự ra đời của
nhà nước... Do đó, khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những
quan hệ chính trị, Ph.Ăngghen viết: "Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những
sự kiện kinh tế mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không
đóng một vai trò nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì
ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một lực lượng lịch sử quyết định" [31,
tr. 321].
Trước hết, C.Mác và Ăngghen cho rằng, kinh tế là cơ sở xuất hiện
giai cấp và đối kháng giai cấp. Ph.Ăngghen viết: "Quan niệm duy vật về
lịch sử xuất phát từ luận điểm cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất
là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ, xã hội, rằng
trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm và cùng với
sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều
được quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng
cách nào và những sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào"
[30, tr. 371]. Như vậy, theo Ph.Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ
sở của sự xuất hiện giai cấp trong xã hội. Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của


10

sự xuất hiện giai cấp, của những biến đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi
về chính trị, ở ngay trong kinh tế chứ không phải ở những lực lượng thần
bí, hay ở ý thức chủ quan của con người như các nhà xã hội học trước
C.Mác đã làm. Ph.Ăngghen viết: "Phải tìm những nguyên nhân cuối cùng

của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải
trong đầu óc người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của
người ta..., mà là trong những biến đổi của phương thức sản xuất và
phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không phải
trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [30, tr. 371].
Nhưng, kinh tế không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện giai cấp
trong xã hội mà còn là nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó
chiếm được địa vị thống trị về kinh tế trong đời sống xã hội. Và tất yếu dẫn
đến sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa một bên là giai cấp bị trị, không có tư
liệu sản xuất với một bên là giai cấp thống trị, nắm toàn bộ tư liệu sản xuất
của xã hội. Sự đối lập về kinh tế không thể điều hòa được, tất yếu sẽ dẫn
đến đối kháng giai cấp về chính trị. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định
rằng kinh tế là "cơ sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện
nay" [31, tr. 321].
Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng
của mình để lãnh đạo phong trào. Như vậy, kinh tế còn là cơ sở gián tiếp
của sự hình thành các chính đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính
trị giữa các chính đảng đó với nhau.
Thêm vào đó, sự ra đời của nhà nước, sự xuất hiện các quan điểm
chính trị của một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai
cấp, của nhà nước trong xã hội... đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế.
Nhà nước ra đời cùng sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phân chia
xã hội thành các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị không thể duy trì địa


11

vị thống trị nếu không dựa vào bộ máy bạo lực và các công cụ của nó như
quân đội, pháp luật... Tất cả những cái đó đều bắt nguồn một cách trực tiếp

hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế. Do đó Ph.Ăngghen đã khẳng
định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị đều bắt
nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất, trao đổi của mỗi
một xã hội nhất định trong lịch sử" [30, tr. 303]. Vì vậy, sự ra đời, tồn tại
và tiêu vong của Nhà nước không phải do ý muốn chủ quan của một cá
nhân của một giai cấp nào, mà trái lại, là một tất yếu khách quan, do yêu
cầu phát triển tất yếu của các quan hệ kinh tế.
Không những giai cấp, đảng phái, nhà nước và đấu tranh giai cấp
đều có nguồn gốc từ kinh tế mà hệ tư tưởng chính trị chi phối mọi hoạt
động chính trị như đấu tranh giai cấp, hoạt động của Nhà nước, của các
chính đảng... cũng đều là biểu hiện của kinh tế. Mặc dù chưa trực tiếp chỉ
rõ rằng, hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện của kinh tế nhưng khi nói về mối
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất
định, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi chính trị (gồm có hệ tư tưởng chính trị
và các thiết chế tương ứng cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng) là một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng được sinh ra từ quan hệ kinh tế nhất định
và phản ánh những quan hệ kinh tế đó.
Vì lẽ đó, những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị bao giờ cũng là
sự phản ánh của những mâu thuẫn về kinh tế, và ngược lại, những mâu
thuẫn trong kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đúng như C.Mác
đã khẳng định, mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội. Do đó khi nghiên cứu những
cuộc đảo lộn trong xã hội thì bao giờ cũng phải phân biệt cuộc đảo lộn vật
chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất với những hình thái pháp lý,
chính trị, tôn giáo... tóm lại, với những hình thái tư tưởng, trong đó con
người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết nó [29, tr. 15].


12


Như vậy, mọi nhân tố của chính trị, từ việc hình thành các giai cấp,
đối kháng giai cấp đến đấu tranh giai cấp; từ việc hình thành nhà nước,
chính đảng đến những hoạt động của Nhà nước, của chính đảng cũng như
những quan điểm chi phối những hoạt động đó và toàn bộ lịch sử nói chung
đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ kinh tế. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà C.Mác cho rằng: "Phải lấy những quan hệ kinh tế và sự tiến
triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính trị chứ
không phải ngược lại" [31, tr. 321].
Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị không chỉ biểu hiện
ở chỗ, kinh tế sinh ra chính trị, mà còn biểu hiện ở chỗ, những biến đổi
căn bản trong kinh tế sớm muộn sẽ dẫn đến những biến đổi căn bản trong
chính trị.
Theo Ph.Ăngghen, kinh tế là cái có trước, còn chính trị là cái có sau
và là sự biểu hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, còn chính trị là tính
thứ hai, cho nên sự biến đổi của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến
đổi trong kinh tế. Nhưng không phải cứ có sự biến đổi nào về kinh tế thì
ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị... Song, sự biến đổi của kinh
tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của chính trị càng
diễn ra rõ rệt hơn khi cơ sở kinh tế của xã hội này được thay thế bằng cơ sở
kinh tế của xã hội khác. Sự biến đổi này phù hợp với quy luật khách quan
chi phối sự phát triển của xã hội - đó là quy luật về sự tác động biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác nói rằng, khi "cơ sở
kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn
ít nhiều nhanh chóng" [29, tr. 15]. Sự đảo lộn trước tiên của kiến trúc
thượng tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi trước hết là chính trị.
Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph.Ăngghen đã phê phán quan
điểm của Đuy Rinh cho rằng, chính trị quyết định kinh tế, tất cả các hiện



13

tượng kinh tế đều được giải thích bằng nguyên nhân chính trị. Để đả phá quan
điểm đó, Ph.Ăngghen đã cho rằng "bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh
tế trái lại, là mục đích" [30, tr. 226]. Và do đó "Để thỏa mãn những lợi ích
kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn
thuần" [31, tr. 439].
Tóm lại, kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị, cho nên mọi
hoạt động chính trị đều nhằm đạt đến mục đích kinh tế.
Chính trị được sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến
đổi của nó đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhưng chính trị không phải là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh
tế. Khẳng định điều đó Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp
luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v... đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh
hưởng đến cơ sở kinh tế" [33, tr. 271].
Trong tất cả các nhân tố của chính trị, nhà nước đóng một vai trò
hết sức quan trọng và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Được nảy sinh trên
một cơ sở kinh tế nhất định, nhà nước tác động trở lại đối với sự phát triển
kinh tế. Chính vì vậy, trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp đấu
tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng là để tạo cho giai cấp mình
một sức mạnh kinh tế. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh chính trị của giai
cấp vô sản, Ph.Ăngghen viết: "Chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính chính
trị của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế?
Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một lực lượng kinh tế" [32, tr.
683]. Dựa vào nhà nước, giai cấp nắm chính quyền không ngừng phát triển
lực lượng kinh tế của mình ngày càng vững mạnh. Khi kinh tế phát triển lại
là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước càng được tăng cường mạnh mẽ.
Có như vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai cấp nắm chính quyền nhà



14

nước luôn luôn được đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở kinh tế của một xã
hội nhất định được ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự vững
mạnh của chính quyền nhà nước tương ứng.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ được thể hiện
thông qua sự tác động của nhà nước mà còn thể hiện ở vai trò của hệ tư
tưởng chính trị - một nhân tố quan trọng của chính trị. Nhưng hệ tư tưởng
chính trị tự nó chưa có vai trò gì đối với kinh tế. Vai trò tác động của hệ tư
tưởng chính trị đối với kinh tế được thực hiện thông qua thực tiễn chính trị
của nhà nước, của chính đảng của một giai cấp nhất định. Chỉ thông qua
những hoạt động đó, hệ tư tưởng chính trị mới có tác dụng to lớn trong việc
bảo vệ hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại.
Cũng như sự tác động của nhà nước, hệ tư tưởng chính trị của một
giai cấp tác động đến kinh tế theo hai chiều. Nếu hệ tư tưởng chính trị phản
ánh một cách khoa học và được cụ thể hóa trong các cương lĩnh, đường lối
của các chính đảng, trong pháp luật và các chính sách của nhà nước của
giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát
triển nhanh chóng. Ngược lại, sẽ cản trở sự phát triển của kinh tế.
Như vậy, thông qua sự tác động của hệ tư tưởng chính trị của một
giai cấp nhất định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nước, chính
đảng của giai cấp đó, chính trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
kinh tế, ở một mức độ nhất định, chính trị có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế.
Vai trò của chính trị đối với kinh tế có thể tác động theo hai chiều hướng
tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu nó tác động
cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trái lại, sự tác động ngược chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế
sẽ dẫn đến sự xung đột giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính trị là chướng
ngại vật cản trở sự phát triển của kinh tế.



15

1.1.2. Thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ
quá độ lên CNXH
Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời
kỳ quá độ ở nước Nga, V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lý
luận về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền,
chưa nắm được quyền lực nhà nước thì giai cấp vô sản chưa có quyền lực
kinh tế. Giai cấp vô sản chỉ có được quyền lực ấy khi hoàn thành nhiệm vụ
chính trị là lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và thiết lập nên chính
quyền của giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: "Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng
một vai trò quyết định, tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng cuộc đấu
tranh kinh tế (có tính chất nghiệp đoàn) lại có một tầm quan trọng bậc nhất, vì
những quyền lợi chủ yếu, "quyết định" của các giai cấp, nói chung, chỉ có thể
thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn bản; còn quyền lợi kinh
tế trọng yếu của giai cấp vô sản, nói riêng, chỉ có thể thỏa mãn được bằng
cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng
chuyên chính vô sản" [39, tr. 59]. Theo V.I.Lênin, trong bất cứ cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành chính
quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là
thiết lập một chế độ xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện nhiệm
vụ đó, giai cấp vô sản phải đưa ra được cách tổ chức lao động cao hơn, tức là
nhiệm vụ kinh tế [41, tr. 228]. Do đó, sau khi giai cấp vô sản giành được
chính quyền nhà nước, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện ở
chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập được bộ máy nhà nước của mình, có quyền
sử dụng bộ máy nhà nước đó để giải quyết những nhiệm vụ tiếp theo trong

lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất.
Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị giữ địa vị


16

phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: "nhiệm
vụ quản lý nhà nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ thuần
túy kinh tế, hàn gắn những vết thương do chiến tranh gây ra trên đất nước,
khôi phục lại các lực lượng sản xuất, tổ chức công tác kiểm soát đối với
việc sản xuất và phân phối sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. Nói tóm
lại, nhiệm vụ đó được quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế" [41, tr.
63].
Như vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước ngoặt chính trị
dường như diễn ra trước bước ngoặt về kinh tế. Từ đó, một số người có
quan niệm sai lầm cho rằng, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không
phải do cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa sinh ra. Ngược lại, kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa còn tạo ra và quyết định cơ sở hạ tầng của xã hội xã
hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm đó, họ đi đến kết luận: chính trị kiến trúc thượng tầng quyết định sự xuất hiện biến đổi của kinh tế, của cơ
sở hạ tầng. Do đó, muốn giải thích các hiện tượng xã hội, các hiện tượng
thuộc kiến trúc thượng tầng thì phải xuất phát từ chính trị, từ kiến trúc
thượng tầng của xã hội chứ không phải từ kinh tế, từ cơ sở hạ tầng của xã
hội.
Thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước khác nhau cho thấy, quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể được thiết lập trong lòng xã hội tư bản
chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập sau
khi giai cấp vô sản đã đánh đổ được sự thống trị của giai cấp thống trị. Sau
khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản sử dụng chính quyền đó để
từng bước cải tạo, xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lạc hậu, lỗi thời, cản trở sự
phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời thiết lập nên quan hệ sản xuất

xã hội chủ nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao, nhằm thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy kinh
tế phát triển.


17

Rõ ràng, cơ sở khách quan để dẫn đến bước ngoặt chính trị, thay thế
chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động, đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản
chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, sự phát triển cao của lực lượng sản xuất,
cùng với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của nó đã dẫn đến mâu thuẫn
trong sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu thuẫn
giữa các giai cấp ngày càng gay gắt và không thể điều hòa được. Nói một
cách khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất trong lòng xã
hội tư bản chủ nghĩa dẫn đến mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị. Đó là
điều kiện khách quan dẫn đến bước ngoặt chính trị trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Mặt khác, sau khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, các
giai cấp vẫn còn tồn tại, địa vị của các giai cấp có những thay đổi và quan
hệ giữa các giai cấp cũng biến đổi. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp
vô sản là giai cấp bị tước đoạt hết mọi quyền sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, bị áp bức bóc lột và bị thống trị. Sau khi lật đổ được sự thống trị
chính trị của giai cấp tư sản, thiết lập được chính quyền của mình và sử
dụng chính quyền nhà nước đó, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị
xã hội về chính trị; nắm lấy tư liệu sản xuất đã lớn mạnh và đã được xã hội
hóa dưới xã hội tư bản chủ nghĩa, biến nó thành tài sản xã hội chủ nghĩa.
Chỉ khi đó, giai cấp vô sản mới có thể thực hiện được quyền lực kinh tế của
mình. Và giai cấp vô sản chỉ có thể dựa vào cơ sở kinh tế của mình và sử
dụng nó để cải tạo nền kinh tế của đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, quyền lực chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chỉ có
thể được đảm bảo, giai cấp vô sản chỉ có thể lãnh đạo toàn bộ xã hội, xây
dựng xã hội mới khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm được
trong tay mình quyền lực về kinh tế.


18

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vai trò quyết định của kinh tế đối
với chính trị còn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát triển khách quan của nền
kinh tế quyết định phương hướng hoạt động của đảng, của nhà nước của
giai cấp vô sản, quyết định tính chất và khả năng ảnh hưởng của nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính trị là sự phản ánh tập trung của
kinh tế. Sự phản ánh đó biểu hiện thông qua việc hình thành các tổ chức
chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề, quyết định mục
tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Sự phản ánh tập trung nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế
được thể hiện ở các chính sách kinh tế, ở phương thức hoạt động của các
bộ phận trong hệ thống chính trị. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: "Bất
cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là một vấn đề tổ chức, và ngược
lại... Không thể tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn đề chính trị
được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại" [42, tr. 147]. Trong thời kỳ
quá độ, mặc dù chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với kinh tế, song giải quyết
những vấn đề chính trị cũng chính là vì mục tiêu kinh tế: "Chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế".
Tuy nhiên, trong sự tác động biện chứng với kinh tế, chính trị
không phải là nhân tố thụ động mà là nhân tố tác động mạnh mẽ trở lại đối
với kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm
nổi tiếng của V.I.Lênin về vị trí ưu tiên của chính trị đối với kinh tế.
Trong cuộc đấu tranh với những người theo "chủ nghĩa kinh tế",

V.I.Lênin đã nêu lên vai trò hàng đầu của chính trị đối với kinh tế của các
giai cấp. Trong cuốn "Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về
những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki và Bukharin", tư tưởng về vai trò
hàng đầu của chính trị so với kinh tế lại được V.I.Lênin khẳng định một lần
nữa. V.I.Lênin viết: "Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so


19

với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng
của chủ nghĩa Mác" [44, tr. 349].
Theo V.I.Lênin, vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế là việc
thừa nhận ý nghĩa quyết định của việc giành chính quyền nhà nước, thay
thế chính quyền của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai
cấp vô sản để thực hiện lợi ích kinh tế cơ bản của giai cấp vô sản, để giải
quyết những nhiệm vụ kinh tế. Vì vậy, cần phải có thái độ chính trị đúng
đắn đối với tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, và tổ chức (đặc biệt là vấn đề
tổ chức). Do đó, khi nói về vai trò của công đoàn, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng,
xét về mặt chính trị mà nói, nếu chúng ta có thái độ sai đối với công đoàn
thì chính quyền Xô viết và chuyên chính vô sản sẽ tiêu tan. Trong một
nước nông dân như nước Nga, nếu có sự chia rẽ giữa đảng với công
đoàn, do sai lầm của đảng gây ra thì chắc chắn là chính quyền xô viết sẽ
bị sụp đổ [44, tr. 349]
Xuất phát từ luận điểm trên, V.I.Lênin đã kiên quyết chống lại "chủ
nghĩa chiết chung" của Bukharin. V.I.Lênin cho rằng, Bukharin là người
đặt quan điểm chính trị bên cạnh quan điểm kinh tế đối với công đoàn, mà
không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Ông coi
đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì giai cấp vô sản không thể giữ được
chính quyền trong một nước nông dân, nếu có quan điểm chính trị sai lầm.
Những sai lầm trong chính trị (mà Tơrốtxki và Bukharin đã phạm phải) đã

làm cho Đảng cộng sản phải bỏ nhiệm vụ kinh tế và các công tác sản xuất
vì mất thời gian để sửa chữa những sai lầm đó. Do đó "không có một lập
trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ
vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành
được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" [44, tr. 350].
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, được tự do về
chính trị và hoàn thành về căn bản nhiệm vụ đấu tranh lật đổ chính quyền


20

của giai cấp tư sản, thì những vấn đề về kinh tế, về tổ chức nền kinh tế
quốc dân, quản lý sản xuất, nổi lên vị trí hàng đầu. V.I.Lênin gọi đó là
nhiệm vụ chính trị chủ yếu hàng đầu sau khi giành chính quyền. Ông viết:
Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước
nhà về mặt kinh tế, để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản
xuất được nhiều than hơn, để sử dụng được những lúa mì và than
đó được hợp lý hơn sao cho không có người đói nữa. Chính trị
của chúng ta phải là như vậy... Chúng ta sẽ chuyển hướng sang
thực hiện chính trị trong lĩnh vực kinh tế [43, tr. 483].
Vì thế, theo V.I.Lênin, chính cơ sở của chính quyền, cũng như thực
chất của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ
nghĩa lại là ở chỗ, các nhiệm vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với các
nhiệm vụ kinh tế [40 tr. 162].
Vấn đề đặt ra là, phải chăng tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có chứa
đựng mâu thuẫn? Bởi vì, theo cách diễn đạt của V.I.Lênin, chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế, trong khi đó, ở một chỗ
khác, V.I.Lênin lại cho rằng, trọng tâm của chính trị cần phải chuyển sang
lĩnh vực kinh tế và các nhiệm vụ chính trị lại giữ địa vị phụ thuộc so với

các nhiệm vụ kinh tế.
Trên thực tế, những luận điểm đó của V.I.Lênin không có gì mâu
thuẫn nhau cả. Bởi vì, mỗi tư tưởng của V.I.Lênin đều xuất hiện trong một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đều đề cập đến nhiệm vụ cụ thể của giai cấp vô
sản. Trong thời kỳ giai cấp vô sản chưa được tự do về chính trị - tức là khi
vấn đề chính quyền chưa được giải quyết thì vấn đề giành chính quyền là
nhiệm vụ trung tâm của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản. Toàn bộ hoạt
động của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản đều tập trung vào nhiệm vụ


21

đó. Khi đó, bọn tư sản, địa chủ là người chủ trong nền kinh tế và quản lý
sản xuất, vì thế, nhiệm vụ cải tạo nền kinh tế chưa được đặt ra một cách
trực tiếp và cấp thiết, vấn đề kinh tế lúc bấy giờ chỉ là nhu cầu kinh tế hàng
ngày- như tiền lương, bánh mì, giảm giờ làm, v.v... gắn liền vào cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản. Bởi vì, "Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa giai cấp vô
sản là một giai cấp bị áp bức, một giai cấp bị tước đoạt mất mọi quyền sở
hữu tư liệu sản xuất" [42, tr. 319]. Lúc bấy giờ, giai cấp vô sản không có
quyền lực về kinh tế và quyền lợi về chính trị thì bị bó hẹp trong vòng
thống trị của giai cấp tư sản.
Sau khi giành được chính quyền, ngay từ những ngày đầu của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa, những vấn đề kiểm tra, kiểm soát của giai cấp
vô sản đối với nền sản xuất, đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân,
mà trong đó, giai cấp vô sản là người lãnh đạo cách mạng và đa số nhân
dân lao động là người làm chủ, mới trở thành hiện thực. Công cuộc xây
dựng nền kinh tế là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khi nói về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin cho xây dựng nền kinh
tế là hoạt động chính trị có ý nghĩa nhất. Ông viết: "Dưới chế độ tư sản,
người kinh doanh là bọn chủ chứ không phải là những cơ quan của nhà nước,

nhưng trong nước ta, công tác kinh tế phải là sự nghiệp chung của tất cả mọi
người. Đối với chúng ta, đó là hoạt động chính trị có ý nghĩa nhất" [45, tr.
396-397]. Khi đã trở thành giai cấp thống trị - nắm lấy quyền sử dụng bộ máy
nhà nước và trở thành giai cấp lãnh đạo toàn xã hội, thông qua tổ chức Đảng
của mình - giai cấp vô sản hướng nhiệm vụ của mình vào việc giải quyết
những vấn đề cấp thiết, mấu chốt trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển
nền kinh tế quốc dân. Bởi vì, theo quan điểm của V.I.Lênin, "ngày nay và
có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử cận đại của các dân tộc văn minh, đây là một
sự quản lý trong đó cái có ý nghĩa trọng đại hơn cả không phải là chính trị
mà là kinh tế" [41, tr. 162].


22

Tuy nhiên, trong điều kiện của một nước tiểu nông như nước Nga
V.I.Lênin cho rằng, giai cấp vô sản không thể củng cố nền sản xuất, công
xưởng và nhà máy, không thể phát triển được nền kinh tế quốc dân của
nước mình, nếu không hồi sinh ở một mức độ nhất định giai cấp tiểu tư sản
và sự trao đổi của nó. Chính vì vậy, giai cấp vô sản cần phải có một thời kỳ
dài để chuyển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sang kinh tế xã hội chủ nghĩa,
cải tạo chế độ xã hội cũ và xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại đan
xen cả những yếu tố của xã hội cũ và những nhân tố của xã hội mới. Theo
V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ đó, có những bộ phận, những phần, những
mảnh của cả kinh tế tư bản chủ nghĩa lẫn kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do đó,
việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; cải tạo toàn bộ nền kinh tế theo
hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
trở thành chỉ đạo chi phối thắng lợi các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, không thể hoàn
thành trong một thời gian ngắn.

Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển được
kinh tế, phát triển được đời sống xã hội, thì mọi hoạt động của Đảng, của
nhà nước, của giai cấp vô sản phải được tổ chức một cách thận trọng, tránh
những sai lầm trong chính trị, vì bất cứ một sai lầm nào trong chính trị
cũng gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế.
Trong khi nêu lên vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế,
V.I.Lênin cho rằng, trong thời quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, việc củng cố chính quyền vô sản là tuyệt đối cần thiết. Bởi vì, sau khi
giai cấp vô sản giành được chính quyền, các giai cấp vẫn còn tồn tại, mặc
dù quan hệ giữa giai cấp có những biến đổi; sự chống đối của giai cấp bóc
lột (đã mất chính quyền) ngày càng gay gắt; nền kinh tế còn tồn tại nhiều
thành phần. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn đối với sự


23

phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong thời kỳ này, sự lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân là nhiệm vụ chủ yếu và cơ bản của Đảng cộng sản và của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, vì công tác kinh tế là sự nghiệp của nhân dân lao
động. Do đó, nếu giai cấp vô sản không thiết lập bộ máy nhà nước của
mình và sử dụng nó để quản lý, kiểm kê, kiểm soát được các hoạt động sản
xuất, trao đổi, phân phối sản phẩm trong nền kinh tế thì giai cấp vô sản
không thể nào giữ vững được chính quyền và không thể xây dựng được chế
độ xã hội chủ nghĩa mà còn có nguy cơ quay trở lại chế độ tư bản chủ
nghĩa. Điều này đã được V.I.Lênin nêu rõ trong tác phẩm "Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền xô viết". Ông viết "Nếu nhà nước không tiến
hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất và phân phối các
sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ
không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của
chủ nghĩa tư bản" [41, tr. 224].

Rõ ràng, cũng như nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng
có chức năng kinh tế. Song nhà nước xã hội chủ nghĩa khác về căn bản với
nhà nước tư sản (đặc biệt là nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền)
trong việc thực hiện chức năng kinh tế. Nhà nước tư sản cũng thực hiện
chức năng kinh tế, sử dụng hàng loạt những đòn bẩy kinh tế để quản lý
kinh tế, phân phối lại thu nhập quốc dân, nhưng nhằm phục vụ lợi ích của
bọn độc quyền, để tăng cường bóc lột người lao động. Cái chính trong hoạt
động của nhà nước tư sản là trấn áp những người bị bóc lột - tức đa số
những người lao động - nhằm bảo vệ nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trái lại, hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý nền
kinh tế đất nước nhằm phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động; còn
chức năng trấn áp của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với sự chống đối của
giai cấp bóc lột chỉ là hoạt động thứ yếu; nó sẽ mất đi cùng với việc xóa bỏ
giai cấp bóc lột.


24

Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện chức năng
quản lý kinh tế, xây dựng đất nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước
gắn liền với sự quá độ từ nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa thống nhất. Bởi vì, theo V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội là sự xóa
bỏ giai cấp, nhiệm vụ này không phải làm một lần là xong ngay được. Đây
là nhiệm vụ vô cùng khó khăn; nó chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải
tạo toàn bộ nền kinh tế xã hội, bằng cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa
nhỏ, cá thể, riêng lẻ sang nền kinh tế tập thể lớn [42, tr. 315-316]. Có như
vậy, Đảng và Nhà nước của giai cấp vô sản mới có thể thực hiện được
nhiệm vụ của mình là xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Vì chủ nghĩa cộng sản
không thể xây dựng trên cơ sở của một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà

chỉ có thể được ra đời trên cơ sở phát triển cao của nền sản xuất. Điều này
đã giải thích tại sao Đảng và Nhà nước của giai cấp vô sản lại nêu lên nhiệm
vụ chủ yếu của mình trong thời kỳ quá độ là xây dựng nền kinh tế quốc
dân, kiểm kê, kiểm soát đối với sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phổ
biến kinh nghiệm thực tiễn... Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện các
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào việc xây dựng cơ sở kinh tế kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ đó được giải quyết có hiệu
quả hay không lại tùy thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vào vai trò
quản lý của nhà nước. Do đó, sự hoạt động của Đảng cộng sản, của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa có vai trò hết sức to lớn để tạo ra sự phát triển của
kinh tế - xã hội; tạo ra sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa
tư bản. Vì thế, V.I.Lênin đã cho rằng, để có thể chiến thắng được giai cấp
tư sản, giai cấp vô sản phải đưa ra và thực hiện cho được một kiểu tổ chức
lao động xã hội mang lại năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản.


25

Rõ ràng, với những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản, của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, với sự kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, Đảng
và Nhà nước xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản có vai trò rất to lớn trong sự
phát triển nền kinh tế quốc dân, trong cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản, trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có
mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố
quyết định sự hình thành phát triển của chính trị, song chính trị, có vai trò
hết sức to lớn, nó tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế. Điều này
thể hiện trước hết là ở chỗ; mọi hoạt động kinh tế, mọi sự phát triển của

nền kinh tế không chỉ gắn liền với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa các giai cấp, các dân tộc, mà còn là điều kiện đảm bảo cho hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh, đảm bảo cho chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đó cũng chính là cơ sở vững chắc cho sự thắng lợi của chế độ xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với chế độ xã hội cũ. Tất cả những
điều đó có ý nghĩa chính trị to lớn. Ngược lại, chính sách kinh tế của Đảng
cộng sản, sự quản lý của nhà nước, v.v... đối với kinh tế đều tạo ra động lực
thúc đẩy cho kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Vì thế, V.I.Lênin quan niệm rằng, chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng
đầu so với kinh tế. Đó là hai kết luận cơ bản của Lênin về biểu hiện của sự
tác động biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.


×