1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay,
vẫn được nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của
sự phát triển. Tất nhiên, trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu
trên các bình diện khác nhau. Đến nay, quan điểm hiện đại về phát triển con
người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội dung mới và được nhiều quốc
gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con người theo xu hướng hiện đại đã được
C.Mác đề cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"
(1848). Nhưng đến cuối thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô
tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới
được các chuyên gia của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
quán triệt, lượng hóa và thiết kế một thước đo chung, nhằm đánh giá trình độ
phát triển con người ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về phát triển con người đòi
hỏi phải luận giải một cách toàn diện, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước.
Đây là một yêu cầu cấp bách, cơ bản và lâu dài cho chiến lược phát triển con
người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển
kinh tế - xã hội, và do đó, phát triển con người thường được nhiều quốc gia
ưu tiên hàng đầu cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên
thực tế, không phải quốc gia nào cũng làm được điều này, kể cả các quốc gia
2
phát triển có nhiều tiềm lực về kinh tế. Việc phát triển con người có thực hiện
được hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự phát triển về kinh
tế, còn tùy thuộc vào quan điểm, chính sách và chương trình hành động của
từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong điều
kiện quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, hội
nhập là xu thế tất yếu của thế giới đương đại, các quốc gia đang đứng trước
những cơ hội và thách thức lớn đối với sự phát triển của mình. Theo đó, việc
phát triển con người của các quốc gia cũng được đặt trước những cơ hội và
thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa
mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã
hội, chẳng hạn, làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân hóa
giàu nghèo, mở rộng rủi ro an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống,
đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống, v.v...
Ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, trong bản
"Tuyên ngôn độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế
giới về quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là
những quyền cơ bản và bất khả xâm phạm của mọi người và mọi dân tộc.
Người nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để thực hiện các quyền của
con người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao của mọi hành
động của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con người
là sự kết tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt
Nam qua mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Phát triển là của
con người, do con người và vì con người - đó là giá trị trường tồn của nhân
loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự
nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Đặc biệt,
3
trong 30 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính
sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở rộng
không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các
cơ hội và điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người ngày càng được
xác lập, bảo đảm và mở rộng. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của công
cuộc đổi mới ở nước ta trong 30 năm qua là thành tựu về phát triển con
người.
Chúng ta đạt được những thành tựu đó là nhờ có sự nhận thức một
cách toàn diện về vấn đề phát triển con người, coi nguồn lực con người là
"giá trị quý báu nhất" và đóng vai trò quyết định nhất; con người vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta
luôn chú trọng đến việc đề ra những chính sách nhằm phát huy có hiệu quả cao
nhất nguồn lực con người. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định: "Vì hạnh phúc của con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân" [10, tr.
13](1). Tại Đại hội VIII, Hội nghị Trung ương lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh con người là động
lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc phát triển con người ở nước trong thời kỳ vừa qua,
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế về cả mặt
nhận thức và hành động. Bối cảnh phát triển con người ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay vừa có những cơ hội mới, vừa đứng trước nhiều thách thức.
Điều đó đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện, để từ đó tìm ra những giải
pháp hiệu quả nhằm phát triển con người, đảm bảo cho sự phát triển nhanh và
1
Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.
4
bền vững của đất nước, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới
hiện nay.
Vì những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài "Một số quan điểm cơ
bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở
Việt Nam hiện nay" để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, có thể nói, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề
con người; các nhà triết học đã chú ý đến khía cạnh xã hội cũng như mục tiêu
của phát triển xã hội, xét cho cùng là phát triển con người. Tuy nhiên, các
nhà triết học trước C. Mác và kể cả nhiều trường phái triết học hiện đại mặc
dù đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt ra vấn đề phải lượng hóa sự phát
triển con người một cách triệt để trong thực tiễn.
Như đã biết, vấn đề phát triển con người đã được C.Mác đề cập năm
1848 trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Ở đây, phát triển con
người đã được C.Mác xác định như là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê
phán những hạn chế của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn trong lòng xã
hội tư bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có giai cấp công nhân mới có đủ khả
năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng vô sản, lập nên
chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xóa bỏ mọi sự áp
bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo đầy
đủ những điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người, trong đó, "sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người" [24, tr. 628]
5
Phấn đấu vì sự phát triển của con người là mục tiêu chung của các
Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề lượng hóa sự phát triển con người cùng với sự xác định nội
hàm hiện đại của khái niệm "phát triển con người" (Human development)
được UNDP (United Nations Development Programme) đưa ra vào năm
1990 trong báo cáo đầu tiên về phát triển con người. Người đề xuất và sử
dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong năm này chỉ số HDI
(Human Development Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo chỉ số phát
triển con người và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người"
(Human Development Report - HDR) của UNDP được xuất bản để đánh giá
những thành tựu và hạn chế của các quốc gia về phát triển con người, nghiên
cứu những cơ hội và thách thức cũng như trao đổi những kinh nghiệm về
phát triển con người trên phạm vi thế giới vì sự tiến bộ và văn minh của nhân
loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ và đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về phát triển con
người nhưng chủ yếu với tính cách là nguồn nhân lực, xem xét vai trò của
con người, coi con người là động lực cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay. Có thể nêu một số công trình như: "Nguồn lực con
người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"
(Đoàn Văn Khái, Tạp chí Triết học, số 4 (1995); "Nghiên cứu con người,
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
khi nền kinh tế tri thức xuất hiện" của Phạm Thành Nghị, "Thực trạng nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay" của Phạm Thanh Đức trong cuốn "Nghiên
6
cứu con người, đối tượng và những phương hướng chủ yếu" (2002) do Phạm
Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về giải phóng con người, lấy đó làm cơ sở lý luận, phương pháp luận
cho nghiên cứu về sự nghiệp giải phóng và xây dựng và phát triển toàn diện
con người Việt Nam. Đó là các công trình: "Tư tưởng về sự giải phóng con
người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" của Trần Hữu Tiến. Trích
trong "Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội (1998), "Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và
sự nghiệp giải phóng con người", của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (2003)…
- Cũng có một số người đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác
nhau về phát triển con người như về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa
đói, giảm nghèo… từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu
cầu về phát triển con người mới. Có thể kể ra các công trình như: "Về phát
triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm
Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); "Tính tương thích giữa
phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con người ở Việt
Nam" của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2 (2002);
"Nhà nước và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam"
của Bùi Tất Thắng trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2, (2002)…
Nhìn chung, các công trình trên đều khẳng định yêu cầu phát triển
con người và ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn và xây dựng chính sách
phát triển con người. Song, do yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay vì mục tiêu phát triển nhanh và
bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm cơ
bản về phát triển con người, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải
7
pháp phát triển con người ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả
về mặt lý luận, lẫn thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn
chọn đề tài "Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng
của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu
trên cơ sở kế thừa giá trị của các công trình đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bước đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn
đề phát triển con người, từ quan điểm của các nhà triết học trước Mác, quan
điểm của C.Mác và của quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu
quan điểm của Đảng ta về phát triển con người, đánh giá thực trạng phát triển
con người ở nước ta trong thời gian qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản
của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số giải pháp cho phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết
những vấn đề sau:
- Thứ nhất, luận văn làm rõ quan niệm của một số nhà triết học trước
C.Mác, quan niệm của C.Mác và quan điểm của các nhà triết học hiện đại về
phát triển con người, đặc biệt là về phát triển con người của UNDP; phân
tích, làm rõ nội hàm và phương thức nghiên cứu định lượng về khái niệm
phát triển con người của UNDP, theo đó làm rõ các nội dung có liên quan
đến sự phát triển con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Thứ hai, luận văn trình bày sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con người; phân tích thực trạng phát triển con người ở Việt
Nam trong những năm gần đây, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của thực
trạng này.
8
- Thứ ba, luận văn cố gắng nêu ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến
những hạn chế trong lĩnh vực phát triển con người, từ đó luận giải một số
phương hướng và giải pháp để phát triển con người Việt Nam bền vững.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về phát triển và
tiến bộ xã hội, trong đó có phát triển con người; đồng thời, dựa vào các
nguyên tắc và hệ tiêu chí đánh giá phát triển con người của UNDP để phân
tích thực trạng con người Việt Nam và các vấn đề có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê... để trình bày các luận điểm
của mình.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống những quan
điểm về phát triển con người trong lịch sử triết học, làm rõ quan điểm của
C.Mác về phát triển con người, ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự nhận
thức về con người và phát triển con người trong thời đại ngày nay.
- Luận văn trình bày và làm sáng tỏ hơn quan niệm của UNDP về
phát triển con người; nội hàm của khái niệm phát triển con người, các chỉ số,
các yêu cầu, điều kiện và mục tiêu phát triển con người.
- Luận văn trình bày quan điểm của Đảng về phát triển con người ở
nước ta. Trên cơ sở quan điểm của Đảng và của UNDP, luận văn đánh giá
thực trạng phát triển con người ở nước ta hiện nay, phân tích nguyên nhân
của những mặt chưa làm được trong phát triển con người; đồng thời, bước
9
đầu luận giải một số phương hướng và giải pháp nhằm để phát triển toàn
diện, bền vững con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển
con người, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNDP và
của Đảng, giúp nhận thức sâu sắc hơn về mục tiêu phát triển con người của
nhân loại và của Việt Nam hiện nay, thông qua đó thấy được chương trình và
mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và của cả dân tộc vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con người, do con người, vì sự giải
phóng và phát triển của chính bản thân con người.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách
phát triển con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
10
Chương 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nó
đã được quan tâm ngay từ thời kỳ sơ khai của loài người. Đặc biệt, khoa học
triết học đã nghiên cứu con người ở mức độ khái quát nhất và sớm nhất trong
lịch sử. Tuy nhiên, không phải ngay từ thời cổ đại người ta đã có quan điểm
đúng đắn về con người và càng chưa bàn đến vấn đề phát triển con người.
Chỉ đến khi nền triết học đã phát triển rất cao, vấn đề phát triển con người
mới được đánh giá một cách tương đối hệ thống, đầy đủ. Điều này thể hiện rõ
nét qua lịch sử phát triển của triết học.
1.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC TRƯỚC MÁC
Khi nghiên cứu vấn đề con người, triết học phương Đông, điển hình
là triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại, cũng mới chỉ đạt đến trình
độ thừa nhận con người có phần xác và phần hồn. Phần lớn các quan điểm
đều cho rằng, đối với con người, "phần xác" có thể chết, mất đi, nhưng "phần
hồn" vẫn tồn tại. Điển hình như quan điểm của các trường phái chính thống
của triết học Ấn Độ. Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về con người
của triết học Ấn Độ cổ - trung đại gắn với quan niệm tôn giáo. Con người chỉ
phát triển trong khuôn khổ của sự chi phối của các lực lượng thần thánh, siêu
nhiên. Tư tưởng "giải thoát" con người khỏi những đau khổ trầm luân của
Phật giáo, tuy nhuốm màu sắc tôn giáo, song ít nhiều cũng thể hiện sự quan
tâm đối với vấn đề phát triển con người. Thành ra, ở giai đoạn này, việc phát
triển con người được luận giải theo hướng duy tâm, chỉ là sự giải thoát về
mặt "linh hồn" và phát triển là sự giải thoát của linh hồn cá thể khỏi thể xác,
11
trở về với linh hồn tối cao (Kinh Vêda), về thế giới bên kia, hay với cõi Niết
bàn của đức Phật.
Lấy con người làm trung tâm cho học thuyết của mình, triết học Trung
Quốc cổ - trung đại, với các đại biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử… đã
chú ý nghiên cứu số phận của con người và con đường giải phóng, phát triển
cho con người. Tuy nhiên, hầu hết các trường phái triết học đều dừng lại ở
chỗ coi đời sống con người, sự phân chia đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn... là
do "thiên mệnh", con người không nên và không thể thoát khỏi, cưỡng lại
được "mệnh trời". Mọi cố gắng của con người nhằm thoát khỏi sự an bài
trong hiện thực là vô ích.
Bên cạnh các quan điểm duy tâm, tôn giáo về vấn đề con người và
phát triển con người, ở Ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại còn có một số quan
điểm tiến bộ khi nhìn nhận con người một cách duy vật (Phái Lokayata, phái
Âm dương - Ngũ hành...), coi tính người là do rèn luyện, do giáo dục mà nên...
Trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác, vấn đề con người, bản
chất con người và việc giải phóng, phát triển con người cũng được đặt ra khá
phong phú.
Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đều đề cao vai trò
của con người. Prôtagora đã coi con người là thước đo của mọi vật đang tồn
tại và lần đầu tiên, ông đưa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa người với
người, khẳng định thượng đế tạo ra mọi người đều là người tự do, tự nhiên
không ai biến thành nô lệ cả, con người được tự do phát triển về mọi mặt.
Arixtốt coi con người là một động vật chính trị, một sinh vật xã hội được cố
kết trong một cộng đồng người, trong một xã hội nhất định, "ông cho rằng, để
con người phát triển được thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho người
dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và người dân phải có nghĩa
vụ đối với xã hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà
12
triết học Hy Lạp - La Mã đã đưa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con
người và phát triển con người. Đó là những cơ sở để các nhà triết học sau này
tiếp tục phát triển.
Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trường phái
triết học Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh
sự tồn tại của Thượng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý
do sự quy định của Thượng đế. Các trào lưu triết học thời kỳ này đều cho
rằng, con người là sản phẩm của thượng đế và Thượng đế có vai trò tối cao
đối với đời sống của con người. Giăngxicốt Ơrrgiennơ cho rằng, con người
không có tự do mà sự tự do của con người chỉ có được khi trở về "thế giới
bên kia" và chỉ có thượng đế là tự do tuyệt đối, còn con người không có
quyền tự do định đoạt cuộc sống của mình.
Sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được hình thành và phát triển, giá trị văn hóa cổ đại Hy - La được khôi
phục trên cơ sở của nền kinh tế mới, các giá trị của con người mà từ lâu bị
chế độ phong kiến chà đạp và bị nhà thờ Thiên Chúa giáo Trung cổ làm lu
mờ, hoặc trở nên huyền bí… đã được phục hưng lại theo tinh thần của chủ
nghĩa nhân đạo. Các nhà triết học thời kỳ này (với một số đại biểu như:
Bêcơn, Hốp xơ, Lốccơ, Đềcáctơ, Rútxô…) đã đấu tranh quyết liệt với những
quan niệm tôn giáo thần bí xoay quanh vấn đề con người. Triết học thời kỳ
này đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người, đề cao vai trò thực tiễn
của con người, xem con người là thước đo của mọi vật. Các giá trị văn hóa,
nghệ thuật được đặc biệt chú trọng. Con người được coi là sản phẩm tối cao
và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của thượng đế; là vũ khí vĩ đại nhất của tạo
hóa, có khả năng sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của mình.
Con người có đủ khả năng tự giải phóng và phát triển bản thân mình khỏi
khuôn khổ chật hẹp của Thiên Chúa giáo, của xã hội trung cổ vốn đè nặng
lên đời sống con người. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các quan niệm này
13
là đã không đề ra được mục tiêu giải phóng, phát triển cá nhân người lao
động khỏi sự áp bức và bóc lột.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò của con người. Sự ra đời
của dòng triết học này đã làm cho tư tưởng về con người và phát triển con
người có những thay đổi mới về chất. Điều đó được thể hiện trong cả hai
trường phái triết học duy vật và duy tâm.
Trong triết học Cantơ, con người được coi là một thực thể, hơn nữa,
là một thực thể hoạt động, một nhân tố có vị trí đặc biệt trong thế giới. Thực
thể đó đứng giữa, ở vị trí trung tâm của thế giới "vật tự nó" và thế giới "hiện
tượng". Sự phát triển con người, theo Cantơ là sự phát triển để đạt tới "vật tự
nó", con người được tự do trong thế giới này, còn trong thế giới của những
"hiện tượng" thì tự do của con người chỉ là tương đối, chỉ là cái thứ yếu
không đáng được quan tâm. Con người trong triết học của Cantơ là con người
suy nghĩ và hành động. Tư tưởng của ông đều xuất phát từ bản thân con
người và vì sự giải phóng của bản thân con người. Đây là tư tưởng mang tính
nhân văn, nhân đạo sâu sắc và đặt nền móng cho những quan điểm về con
người sau này của C.Mác.
Khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình
lao động, Hêghen coi sự phát triển con người là sự phát triển của tự do, của
tư duy nhân loại. Ông cho rằng, sự phát triển của tự do của con người là
thước đo đánh giá trình độ phát triển của xã hội. Tuy nhiên, do đứng trên lập
trường của chủ nghĩa duy tâm, nên ông đã đi tới quan niệm sai lầm khi cho
rằng sự phát triển đó là quá trình trở về cái "tinh thần tuyệt đối".
Nhà triết học duy vật nhân bản L.Phoi ơ bắc đặc biệt quan tâm đến
vấn đề con người, coi con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ
thống triết học của mình. Con người trong triết học của L.Phoi-ơ-bắc là sản
phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Giữa con người
14
và tự nhiên nằm trong một thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời. Tuy
nhiên, xét về mặt xã hội, ông chỉ thấy con người có quan hệ duy nhất là quan
hệ tình yêu; từ đó, ông kêu gọi mọi người hãy đối xử với nhau bằng quan hệ
tình yêu tôn giáo và trong điều kiện như vậy, con người được tự do phát triển
bằng tình yêu của chính họ. Vì vậy, con người phát triển là đạt đến mục tiêu
của một tình yêu phổ biến, phi giai cấp, phi lịch sử.
Triết học phi mácxít hiện đại với sự phát triển tuy phong phú nhưng
đầy tính phức tạp với nhiều trường phái khác nhau như: chủ nghĩa thực
chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, hiện tượng học, chú giải
học… đã xem xét vấn đề con người và phát triển con người ở từng khía cạnh
khác nhau. Triết học hiện sinh đi vào cái tôi cá nhân và con người phát triển
để trở về với cái tôi đích thực trừu tượng của mình; hay triết học nhân bản lại
nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh, di truyền, mang tính bản năng và coi đó là sự tồn
tại đích thực, để trở về với cái vô thức… Nói chung, trong triết học phi mác
xít hiện đại, mỗi trường phái đi vào xem xét theo những khía cạnh riêng lẻ,
theo từng "thuộc tính cố hữu" của con người. Sự phát triển con người là quá
trình đi tìm đến cái tôi của cá nhân chung chung trừu tượng.
Như vậy, trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề con người
và phát triển con người đã được các nhà triết học bàn đến. Tùy theo lập
trường triết học của mình, các nhà triết học khác nhau đã xem xét sự phát triển
con người ở các khía cạnh khác nhau, các nhà triết học duy tâm xem xét sự phát
triển con người ở khía cạnh tinh thần, đó là sự phát triển của trí tuệ, sự trở về
của "tinh thần tuyệt đối". Ngược lại, các nhà triết học duy vật, mặc dù đề cao
con người hiện thực, tìm mục tiêu phát triển con người ở chính thế giới hiện
thực, song cũng chưa có nhà triết học nào đề ra được mục tiêu xóa bỏ sự áp
bức, bóc lột trong đời sống của hiện thực của con người. Ngay cả L.Phoi ơ
bắc, nhà triết học duy vật nhân bản tiến bộ nhất của thời kỳ này cũng không
15
vượt qua quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội nói chung và con
người nói riêng.
1.2. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN
Lịch sử triết học đã bước sang một trang mới bằng sự ra đời của triết
học Mác-Lênin. Thành quả to lớn của các nhà sáng lập triết học Mác-Lênin
để lại không dừng lại ở chỗ đưa ra một hệ thống lý luận đúng đắn về bản chất
của thế giới và bản chất con người, mà còn chỉ ra con đường để phát triển con
người một cách duy vật và khoa học.
Về bản chất con người, xuất phát từ việc phê phán những hạn chế của
các quan điểm duy tâm, siêu hình, khi xem xét vấn đề con người, các nhà
sáng lập triết học Mác - Lênin đã giải quyết vấn đề con người một cách khoa
học, đúng đắn trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định
con người là một thực thể sinh học - xã hội - "Con người là một thực thể tự
nhiên có tính người" [27, tr. 234].
Theo quan điểm duy tâm khách quan của Hê-ghen, hoạt động thực tiễn
của con người chỉ là hình thức tha hóa trong việc thực hiện tính tích cực nội tại
của tinh thần, do vậy, nó không thể là đối tượng nghiên cứu trực tiếp và cơ bản
khi xem xét vấn đề con người. Mặc dù xuất phát từ quan niệm coi con người
là một thực thể tự nhiên, mang tính vật chất - cảm tính, song L.Phoi-ơ-bắc đã
không thể đi tới bản chất đích thực của con người, không hiểu được những
hoạt động xã hội của con người. Khi tiến hành phê phán quan điểm duy tâm
tư biện của Hê-ghen và quan điểm duy vật nhân bản của L.Phoi-ơ-bắc về con
người, C.Mác đã phát hiện ra và chứng minh rằng, hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới vật chất là hoạt động vốn có của con người. Và ông đã lấy hoạt động
có tính đặc trưng này làm đối tượng nghiên cứu, làm xuất phát điểm khi
nghiên cứu vấn đề con người và giải phóng, phát triển con người.
16
Khác với tất cả các nhà triết học trước đó, khi xây dựng quan niệm
duy vật về lịch sử, vạch ra vai trò quyết định của sản xuất vật chất, xem xét
các quan hệ xã hội từ quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã tạo ra
bước ngoặt căn bản trong quan niệm về bản chất con người. Các ông cho
rằng, bản thân cái trừu tượng tư biện chẳng qua chỉ là sản phẩm, là sự thể
hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó. Từ đó, các
ông đi đến quan niệm: để nghiên cứu bản chất đích thực của con người, nhận
thức đúng đời sống con người thì phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống
sinh hoạt hiện thực của con người, từ hoạt động lao động sản xuất, hoạt động
thực tiễn của con người và chỉ bằng cách đó mới có được những tri thức đúng
đắn về con người hiện thực, về những hoạt động của con người ấy.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đối lập quan điểm của mình với quan điểm
của các nhà triết học duy tâm, duy vật siêu hình và nhấn mạnh sự mới mẻ
trong cách tiếp cận của mình. Tuy C.Mác và Ph.Ăng ghen vẫn sử dụng các
khái niệm của các nhà triết học tiền bối nhưng nội dung thì hoàn toàn mới để
luận chứng cho quan điểm duy vật lịch sử. Các ông không đặt vấn đề cấp
bách trong việc xem xét những lập luận trừu tượng, tư biện về đời sống sinh
hoạt của con người có nội dung khách quan hay không, mà cho rằng, bản
thân đời sống sinh hoạt của con người vốn mang tính hiện thực. Hoạt động cơ
bản của con người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá
nhân nắm quyền làm chủ tư liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn
khổ của những quan hệ sản xuất và giao tiếp nhất định. Vì vậy, các khái niệm
đó dù có trừu tượng, tư biện, nhưng đó là những khái niệm phản ánh hoạt
động, sinh hoạt của hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất của con người,
nên tất yếu nó cũng mang tính khách quan.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì hiện thực bao giờ cũng mang tính đặc
thù, nhiệm vụ của nhận thức là đạt tới và phản ánh đúng tính cụ thể, đặc thù
17
đó. Những lập luận trừu trượng về con người, về hoạt động con người thực
chất chỉ là phương tiện, công cụ để nhằm giải quyết nhiệm vụ đó. Nhưng để
có được các lập luận đó một cách đúng đắn thì phải xem xét trong những
trường hợp cụ thể với những quan hệ cấu thành cơ sở hiện thực của chúng.
Vì vậy, khi xem xét con người phải xuất phát từ chính những con người với
tư cách là những "cá nhân kinh nghiệm", những cá nhân trong đời sống sinh
hoạt trong quan hệ hiện thực của xã hội nhất định.
Trong "Luận cương về L.Phoi-ơ-bắc", C.Mác khẳng định: "Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan
hệ xã hội" [23, tr. 11].
Con người mà C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới trong định nghĩa này là
những con người mang tính lịch sử - cụ thể trong những điều kiện sinh hoạt
hiện thực của nó. Với định nghĩa này, C.Mác khẳng định khi xem xét con
người phải gắn với hiện thực lịch sử mà con người tồn tại, xem xét gốc rễ của
con người từ chính bản thân con người, từ những quan hệ của họ với xã hội.
Đặc biệt, cần phải xem xét con người "hiện thực lịch sử" mang tính sinh học
được xã hội hóa. Xem xét ý thức con người từ tồn tại xã hội, từ thực tiễn,
trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, bản chất con người (tri
thức, đạo đức, văn hóa…) được dần dần hình thành trong quan hệ xã hội nhất
định với tính cách là sản phẩm của những quan hệ hiện thực trong xã hội.
Tuy nhiên, bản chất đó không phải hình thành một cách thụ động với tính
cách là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh, mà cần phải thấy mặt thứ hai con người là chủ thể của hoàn cảnh, giữ vai trò quyết định của sự vận động
của lịch sử. Theo quan điểm của C.Mác "chính con người làm thay đổi hoàn
cảnh" của mình, "sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động
18
của con người, chỉ có thể được quan niệm và được hiểu một cách hợp lý khi
coi đó là thực tiễn cách mạng" [23, tr. 10].
Theo C.Mác, con người không phải là "cái trừu tượng", mà là sản
phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con người là con
người hiện thực, con người cụ thể, cảm tính; bản chất của con người được thể
hiện ra, được tồn tại và phát triển trong lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên,
đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội… Bản chất con người là do những mối quan
hệ xã hội của chính con người quy định. Mọi quá trình xã hội đều là quá trình
hoạt động của chính con người, không có con người thì không có xã hội và
ngược lại không có xã hội chung chung trừu tượng mà thiếu vắng những con
người hiện thực. Tuy nhiên, xã hội không phải là tập hợp giản đơn những
cộng đồng con người, bởi trong xã hội, ngoài sự hiện diện của tập hợp người
còn có những mối liên hệ gắn kết với con người, cộng đồng người liên kết
với nhau thành một hệ thống. Trong quan niệm của C.Mác, xã hội không phải
là những cá thể người, mà biểu hiện tổng số những mối liên hệ và quan hệ
của con người trong đó những cá thể này tồn tại đối với nhau. Xã hội là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Do vậy, quan hệ xã hội
là tổng thể những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực
nào đó, nó còn bao hàm cả những quan hệ với tương lai. Bản chất con người
không phải là bất biến, mà nó luôn vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi
của hoàn cảnh sống, của thời đại, gắn liền với phương thức sản xuất của một
chế độ xã hội nhất định.
- Về phát triển con người, các nhà triết học trước Mác cũng đã bàn
đến, trong đó họ đưa ra một số luận điểm với mong muốn phát triển con
người, muốn tìm lại xã hội tốt đẹp kiểu Nghiêu - Thuấn như trong triết học
Trung Quốc cổ đại hoặc mong muốn có một xã hội tự do và bình đẳng của
công dân như quan điểm của các nhà triết học Ánh sáng. Nhưng, phải đến khi
19
chủ nghĩa Mác ra đời, thì vấn đề phát triển con người mới được bàn đến như
là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện
chứng về con người, coi con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và
xem xét mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về phát triển con người, trong đó giải
phóng con người và xã hội là mục tiêu cơ bản và đầu tiên phải hướng tới.
Năm 1848, trong tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản", C.Mác đã
đưa ra quan niệm về phát triển con người, khi bàn đến sự phát triển tự do của
con người. Với mong muốn giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột,
tiến tới xây dựng một xã hội mới. Xã hội mới đó chính là "một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người" [24, tr. 628]. Với tư tưởng khoa học và đúng đắn, đầy
tính nhân bản này, C. Mác và Ph.Ăngnghen đã chỉ ra cái đích mà toàn thể
nhân loại cần phải đạt đến trong tương lai là sự phát triển con người.
Có thể khẳng định rằng, giải phóng, phát triển con người là mục tiêu
cuối cùng của học thuyết Mác. Trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên cũng như mối quan hệ giữa con người với xã hội trong
điều kiện xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ ra rằng, chính điều kiện sản
xuất, điều kiện xã hội của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất đã làm cho người công nhân bị tha hóa. Đó là sự tha hóa làm
mất đi mặt tự nhiên vốn có của con người cũng như bản chất xã hội của con
người, làm cho con người trở nên xa lạ với những vật phẩm do chính bản
thân mình làm ra, xa lạ với xã hội - môi trường tồn tại của người công nhân.
Vì vậy, xóa bỏ quan hệ người áp bức, bóc lột người, xóa bỏ quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là điều kiện tất yếu,
trước tiên, là cơ sở để khắc phục mọi sự tha hóa, sự phiến diện, què quặt
trong quá trình giải phóng, phát triển con người, đưa con người trở về với bản
20
chất đích thực của mình, trở thành chủ thể của xã hội, quyết định toàn bộ đời
sống của mình.
Để thực hiện mục tiêu đó, người công nhân phải vươn lên giữ vị trí
tiên phong trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình. Từ đó, xóa bỏ tận gốc mọi sự áp
bức xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng vô
sản nhằm giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại, đưa nhân loại từ
vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Đó là sứ mệnh cao cả của giai
cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của bản thân và của
nhân loại.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu ấy, hoàn toàn không phải là việc làm
đơn giản, chốc lát, hay có thể hoàn thành trong "một sớm, một chiều", mà đó
là một quá trình hết sức lâu dài, phức tạp và gay go quyết liệt. Bởi vì quá
trình đó không chỉ là xóa bỏ trật tự của xã hội cũ mà hơn thế, còn là một sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, xóa bỏ những tàn tích cũ, xây dựng những nhân
tố xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Để có thể thực sự giải phóng và phát triển con người, theo C.Mác, tất
yếu phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay vào đó
một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế xã hội cũ bằng một xã hội mới, tốt đẹp hơn
chính là nhằm phục vụ con người, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con
người.
Để con người được phát triển toàn diện thì việc xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa - là yêu cầu, là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong xã hội đó,
con người mới thực sự tự mình làm ra lịch sử của mình một cách tự giác, con
21
người mới trở về với bản chất đích thực của mình. Trong xã hội đó, như
C.Mác khẳng định:
Cuộc đấu tranh để sinh tồn của cá nhân sẽ chấm dứt. Do đó, mà lần
đầu tiên, con người tách hẳn - theo một ý nghĩa nào đó - khỏi thế giới thú vật,
chuyển từ điều kiện sinh tồn của thú vật sang điều kiện sinh tồn thật sự của
con người… Tổ chức xã hội của con người, từ trước tới nay vẫn đối lập với
con người như những cái do tự nhiên và lịch sử áp đặt cho con người thì giờ
đây biến thành hành động tự do của bản thân con người. Những lực lượng
khách quan, xa lạ, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì sẽ do chính con
người kiểm soát. Chỉ từ lúc đó, con người mới bắt đầu tự mình làm ra lịch sử
của chính mình một cách hoàn toàn tự giác [25, tr. 392-393]
Giải phóng xã hội, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là giải phóng từng cá
nhân riêng biệt trong xã hội, đưa mỗi người trở thành người làm chủ xã hội,
vì "xã hội không thể nào giải phóng mình được, nếu không giải phóng mỗi cá
nhân riêng biệt" [25, tr. 406], giải phóng cá nhân tạo động lực cho giải phóng
xã hội và đến lượt nó, giải phóng xã hội trở thành điều kiện thiết yếu cho giải
phóng cá nhân trong xã hội.
Giải phóng con người là cơ sở cho sự phát triển tự do của con người.
Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng, đứng ở hàng
đầu của sự phát triển lịch sử, họ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của bản thân
nền công nghiệp hiện đại; họ trở thành những người chủ đích thực của xã hội,
có đầy đủ các điều kiện để phát huy năng lực của mình mà không bị hạn chế
bởi lực lượng nào cả. C.Mác viết: "Trong xã hội cộng sản… không ai có thể
bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có
thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích" [23, tr. 47]
Theo C.Mác, trong xã hội cộng sản, khi con người được giải phóng,
được làm chủ, họ sẽ có điều kiện để thực hiện sự nghiệp giáo dục, đào tạo cải
22
tạo chính bản thân họ, xóa bỏ tình trạng nô dịch, áp bức, bóc lột lao động cho
tất cả mọi người; họ được hưởng những thành quả giáo dục toàn diện do
chính họ tổ chức bao gồm: giáo dục trí lực, giáo dục thể lực và giáo dục kỹ
thuật.
Giải phóng con người là đưa con người thoát khỏi mọi sự áp bức,
thống trị giai cấp, dân tộc, tôn giáo… xây dựng mối quan hệ công bằng, bình
đẳng giữa người với người, giữa cộng đồng này với cộng đồng xã hội khác.
Nói cách khác, giải phóng con người là tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện cả về khía cạnh cá nhân, cả về khía cạnh xã hội.
Như vậy, có thể nói, tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ học thuyết về con
người của C.Mác là tư tưởng về giải phóng, phát triển con người. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, khắc phục, xóa bỏ sự tha hóa của con người trong xã
hội tư bản là điều kiện cho giải phóng con người; muốn giải phóng con người
thì phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay bằng hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong điều kiện đó, con người
mới trở về với bản chất đích thực của mình, mới có đầy đủ các điều kiện để
phát triển toàn diện. Đến lược nó, khi con người trở thành chủ thể xã hội, sự
phát triển xã hội lại do chính con người thực hiện. Do đó, phát triển xã hội là
cơ sở của phát triển con người, phát triển con người là động lực của phát triển
xã hội và của chính bản thân con người.
Mặc dù không phân tích một cách chi tiết hay không có một tác phẩm
riêng nào về phát triển con người, nhưng những tư tưởng về giải phóng, phát
triển con người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ
sở phương pháp luận trong việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về
phát triển con người cũng như xem xét, đánh giá các vấn đề thực tiễn của
phát triển con người, của tiến bộ xã hội của nhân loại trong giai đoạn hiện
nay.
23
1.3 QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA CHƯƠNG TRÌNH
PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC (UNDP)
Mục tiêu của học thuyết Mác - Lênin là đưa loài người đến một xã hội
dân chủ, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Với cách tiếp cận duy vật biện
chứng và khoa học, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chứng minh rằng, dù
sớm hay muộn, loài người tất yếu sẽ vượt qua mọi rào cản để đi đến xã hội
đó. Hiện nay, không một dân tộc nào lại không đặt ra cho mình những mục
tiêu phát triển nhưng chưa hẳn là đều hướng đến sự giải phóng, phát triển của
con người. Tính chất của thời đại ngày nay đã có nhiều thay đổi so với thời
kỳ học thuyết Mác mới ra đời. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể về phát triển
con người cần phải được bổ sung thêm cho đầy đủ. Nhưng tựu trung lại,
những mục tiêu ấy, về nguyên tắc, không khác với học thuyết Mác. Có thể
nói, những nội dung về phát triển con người mà C.Mác đưa ra vẫn là tinh
thần cơ bản xuyên suốt trong chiến lược phát triển con người của nhiều nước
trên thế giới, mặc dù các nước đó không nói rõ như vậy. Vì vậy, theo chúng
tôi, quan điểm của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về phát
triển con người không phải tự nó xuất hiện từ hư vô, chẳng những không mâu
thuẫn mà nó ít nhiều đã có sự kế thừa những thành tựu của học thuyết Mác:
Mác coi sự phát triển tự do của mỗi người và mọi người là mục tiêu tối
thượng, còn UNDP thì coi phát triển con người là mục tiêu cần đạt tới của
các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong số các nội dung của phát triển con người, xóa đói nghèo là một
trong những nội dung quan trọng. Trong nhiều thập kỷ qua, tình trạng đói
nghèo luôn là sự nỗi ám ảnh nhiều quốc gia trên thế giới. Nhân loại vẫn hằng
mong ước một cuộc sống ngày càng đầy đủ, sung túc hơn. Vì vậy, mở rộng
năng lực sản xuất, phát triển kinh tế trở thành mục tiêu phấn đấu của các
quốc gia. Sự khác biệt về đời sống giữa các nước phát triển với các nước
đang phát triển và chậm phát triển đã chứng minh tầm quan trọng của sự tăng
24
trưởng kinh tế. Ở các nước có thu nhập thấp, người dân luôn phải đối mặt với
tình trạng thiếu lương thực, với tình trạng nghèo đói phổ biến. Trong bối
cảnh đó, tăng trưởng kinh tế đã được xem như là chiếc chìa khóa của quá
trình phát triển. Tuy nhiên, một số nước vẫn có thái độ tuyệt đối hóa mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, mà coi nhẹ các mục tiêu xã hội khác dẫn đến sự phát
triển phiến diện, không bền vững.
Thực tế cho thấy, ở một số quốc gia, kể cả những nước phát triển,
mục tiêu phát triển con người đã bị xem nhẹ, không ít quốc gia đã lấy tăng
trưởng kinh tế làm thước đo đánh giá sự phát triển xã hội và để đạt dược mục
tiêu đó, người ta không quan tâm thỏa đáng đến vấn đề phát triển con người.
Nhiều người lại cho rằng, ngày nay, sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình
đẳng, sự chênh lệch về trình độ… giữa các tầng lớp dân cư, các dân tộc, các
nhóm người, được xem như là cái giá của sự phát triển kinh tế, thậm chí, một
số người coi đó là điều tất yếu của xã hội hiện đại, là một nghịch lý hiển
nhiên. Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm tiến bộ hơn, những quan điểm
này thường nhấn mạnh đến các khía cạnh của sự phát triển xã hội, phát triển
con người, thì cũng chỉ nhấn mạnh tới việc phân phối lại các kết quả lao động
cho con người thông qua sự điều hành của nhà nước, chính phủ, nghĩa là chú
ý đến việc xem xét vị trí, vai trò của nhà nước trong việc nâng cao đời sống
vật chất, chú ý đến sự công bằng của nhà nước trong phân phối thu nhập cho
các tầng lớp dân cư, các nhóm người trong xã hội hay giữa các dân tộc với
nhau.
Có thể thấy, trên thế giới, trong những năm 50 của thế kỷ XX, phần
lớn các quốc gia trên thế giới chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế, vô tình
đồng nhất phát triển với phát triển kinh tế. Nghĩa là chú ý, chăm lo đến thu
nhập, cho rằng, tăng trưởng kinh tế là chìa khóa duy nhất sẽ đem lại phồn
vinh, hạnh phúc cho con người. Nhiều nước trên thế giới lấy thước đo thu
25
nhập quốc dân để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế, xã hội. Công cụ
GDP được coi như là công cụ hữu hiệu mà các quốc gia vẫn sử dụng. Tuy
nhiên, công cụ này đã thể hiện nhiều hạn chế, nó mới chỉ chú ý đến góc độ
của tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, đó chỉ là một khía cạnh của sự phát
triển xã hội, chứ chưa chú ý đến các khía cạnh xã hội - nhân văn của phát
triển xã hội như sự công bằng, bình đẳng xã hội, đến giáo dục, y tế, sức khỏe
cộng đồng,... Vì vậy, chưa đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, chưa
hẳn đã nâng cao đời sống văn hóa cho con người… Chỉ riêng sự tăng trưởng
kinh tế cũng không thể đảm bảo được yêu cầu cho sự phát triển công bằng,
bình đẳng xã hội. Chạy theo mục tiêu đó, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho
sự phát triển của mình, đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng tệ nạn xã
hội phát triển tràn lan, xung đột xã hội thường xuyên nổ ra, đời sống văn hóa
suy đồi…
Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, loài người nhận thấy sự tăng
trưởng kinh tế nhanh không có nghĩa là xã hội đã ổn định và phát triển; kinh
tế tăng trưởng cao không có nghĩa là đời sống vật chất và tinh thần của con
người theo đó mà được phát triển lành mạnh, phong phú; sự tăng trưởng kinh
tế không đồng nhất với sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, loài người đã chuyển sang
quan điểm phát triển toàn diện và bền vững, nghĩa là sự phát triển phải bao
hàm cả phát triển kinh tế và phát triển xã hội, mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, cũng như vì đời
sống công bằng, tiến bộ, văn minh và hạnh phúc cho nhân dân. Tăng trưởng
kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, phát triển xã hội và phát triển con
người. Vì vậy, khái niệm "nguồn nhân lực", "vốn người" được xem là yếu tố
quyết định nhất trong các yếu tố tác động đến sự phát triển kinh tế, xã hội.
Song, ở khía cạnh này dễ rơi vào sự hiểu nhầm, coi con người như là công