Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang tại một số thành phố lớn ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 203 trang )

1
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

QUÁCH THỊ QUẾ

NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG
TẠI MỘT SỐ THÀNH PHỐ LỚN Ở NƯỚC TA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH
Mã số:

: 62.31.04.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Văn Thị Kim Cúc

HÀ NỘI-2016


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
và số liệu nghiên cứu trong luận án này là hoàn toàn trung thực và chưa từng
công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.


Tác giả luận án

Quách Thị Quế


3

LỜI CÁM ƠN
Trải qua 5 năm học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của
PGS.TS Văn Thị Kim Cúc, tôi đã hoàn thành luận án của mình. Tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Văn Thị Kim Cúc. Trong thời gian qua Cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, dành mọi thời gian để làm việc khi tôi cần
sự hỗ trợ.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô giáo của khoa Tâm lý – giáo
dục, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, quý Thầy Cô giáo của Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học
sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
làm Nghiên cứu sinh.
Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo Viện, các đồng nghiệp của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội đã luôn động viên, khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong thời gian làm luận án.
Tôi xin cảm ơn sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình của Cục bảo vệ chăm sóc
trẻ em, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Các Sở Lao động Thương binh
và Xã hội, Trung tâm giáo dục thanh thiếu niên, cán bộ phường và các em là
trẻ em lang thang của hai thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội trong
quá trình điều tra, nghiên cứu, thu thập số liệu.
Trong điều kiện thời gian nghiên cứu chưa nhiều, kinh nghiệm nghiên
cứu khoa học còn hạn chế nên luận án của tôi vẫn còn nhiều thiếu sót, kính
mong Quý thầy cô giáo và đồng nghiệp đóng góp ý kiến, giúp tôi hoàn thiện
luận án được tốt hơn.

Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2016

NCS. Quách Thị Quế


4

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các số viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….…..

1

1. Tính cấp thiết của của đề tài………..……………………………...........

1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………..

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………………

3


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ……………………….

5

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án …………………………………

6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ……………………………………6
7. Cơ cấu của luận án…… …………………………………………………

7

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHU CẦU

8

ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG ……………….............
1.1. Những nghiên cứu ở ngoài nước …………………………………….

8

1.2. Những nghiên cứu ở trong nước …………………………………….

24

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHU CẦU

33


ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG ……………………….
2.1. VẤN ĐỀ TRẺ EM LANG THANG ………………………………...

33

2.1.1. Khái niệm trẻ em lang thang …………………………………........

33

2.1.2. Một số đặc điểm của trẻ em lang thang…………………………….

36

2.1.3. Một số cách phân loại trẻ em lang thang …………………………..

37

2.2. VẤN ĐỀ NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG

39

2.2.1. Khái niệm nhu cầu ………………………………….……………..

39

2.2.2. Khái niệm bảo vệ trẻ em …………………………………………..

43

2.2.3. Khái niệm nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang …………..


45


5
2.2.4. Biểu hiện nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang ……………

52

2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ

56

CỦA TRẺ EM LANG THANG .................................................................
2.3.1. Yếu tố chủ quan ................................................................................

56

2.3.2. Yếu tố khách quan ............................................................................

59

Chương 3: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................

61

3.1. Nghiên cứu lí luận ...............................................................................

61


3.2. Nghiên cứu thực tiễn ..........................................................................

62

Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA

80

TRẺ EM LANG THANG Ở MỘT SỐ THÀNH PHỐ LỚN Ở NƯỚC TA
4.1. THỰC TRẠNG NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG

80

THANG ………………………………………………………………………
4.1.1. Đánh giá chung thực trạng nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang

80

4.1.2. Biểu hiện một số nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang ……

100

4.2. THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU

123

ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG……………………….
4.2.1. Yếu tố chủ quan ……………………………………………………

123


4.2.2. Yếu tố khách quan …………………………………………………

124

4.2.3. So sánh điểm trung bình chung của các yếu tố ảnh hưởng ……….

128

4.2.4. Yếu tố ảnh hưởng khác ………………………..…………………..

128

4.3. NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG QUA
PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH …….……………………….

133

4.3.1. Biểu hiện nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang ……………

133

4.3.2. Kết luận về các nghiên cứu trường hợp điển hình …………………

142

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................

144


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ .....................

149

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................

150

PHỤ LỤC......................................................................................

154


6

DANH MỤC CÁC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

TT

Nội dung chữ viết tắt

1

BVCSGDTE

Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em

2


Bộ LĐTBXH

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

3

CRC

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em

4

OHCHR

Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc

5

LDTD

Lạm dụng tình dục

6

LHQ

Liên hợp quốc

7


QTE

Quyền trẻ em

8

Sở LĐTBXH

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội

9

TELT

Trẻ em lang thang

10

THCS

Trung học cơ sở

11

THPT

Trung học phổ thông

12


Tp HN

Thành phố Hà Nội

13

Tp HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

14

UBBVCSTE

Ủy ban bảo vệ chăm sóc trẻ em

15

UBDSGĐTE VN

Ủy ban dân số gia đình trẻ em Việt Nam

16

UNICEF

Quỹ nhi đồng liên hợp quốc


7


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 4.1: So sánh nhu cầu được bảo vệ của TELT với biến số trẻ Sống với ai

84

Bảng 4.2: Mức độ nhu cầu được bảo vệ thể chất của trẻ em lang thang

86

Bảng 4.3: Mức độ mong muốn của trẻ em lang thang về nhu cầu ăn…..

87

Bảng 4.4: Mức độ mong muốn của trẻ em lang thang về nhu cầu mặc….

89

Bảng 4.5: Mức độ mong muốn của TELT về nhu cầu chỗ ở, sinh hoạt…

90

Bảng 4.6: Mức độ mong muốn về nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần

92

Bảng 4.7: Mức độ mong muốn về việc làm an toàn cho sức khỏe của TELT

94


Bảng 4.8: Mức độ nhu cầu chống xâm hại tình dục của TELT…………

97

Bảng 4.9: Nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang và những người 100
mà em nghĩ đến khi cần được bảo vệ……………………………………
Bảng 4.10: Tỷ lệ % của các biến số độc lập trong mẫu nghiên cứu.......... 110
Bảng 4.11: Giới tính…………………………………………………….. 113
Bảng 4.12: Nguyện vọng của TELT …………………………………… 114
Bảng 4.13: Thu nhập và mối liên hệ với nhu cầu được bảo vệ của TELT

114

Bảng 4.14: Các ý kiến đánh giá liên quan đến giới tính của TELT…….

116

Bảng 4.15: Các ý kiến đánh giá của TELT về điều kiện kinh tế gia đình

116

Bảng 4.16: Các ý kiến đánh giá về tình trạng học của TELT…………... 117
Bảng 4.17: Các ý kiến đánh giá về mức thu nhập của TELT…………..

118

Bảng 4.18: Ảnh hưởng của yếu tố bản thân…………………………….

123


Bảng 4.19: Ảnh hưởng của yếu tố gia đình……………………………… 124
Bảng 4.20: Ảnh hưởng của yếu tố xã hội……………………………......

127

Bảng 4.21: So sánh ĐTB chung của các yếu tố ảnh hưởng…………….. 128
Bảng 4.22: Mức độ hiểu biết của TELT về Công ước quốc tế quyền trẻ em

130

Bảng 4.23: Mối tương quan giữa nhận thức với nhu cầu được bảo vệ của TELT 132
Bảng 4.24: Ảnh hưởng của nhận thức với nhu cầu được bảo vệ của TELT

132


8

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 4.1: Mức độ nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang ……

81

Biểu đồ 4.2: Nhu cầu được bảo vệ thân thể ……………………………

101

Biểu đồ 4.3: Nhu cầu được chăm sóc sức khỏe………………………...


104

Biểu đồ 4.4: Nhu cầu chống xâm hại tình dục…………………………

106

Biểu đồ 4.5: Nhu cầu được học tập để biết chữ và có hiểu biết xã hội

109

Biểu đồ 4.6: Nhận thức về Quyền TE theo công ước của Liên hợp quốc

129


9

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới
phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Đảng và Nhà nước ta đã cam
kết mạnh mẽ trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều này
được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác đã thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong việc
bảo vệ trẻ em. “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác
vi phạm quyền trẻ em”[21]. Hiến pháp 2013 đã đánh dấu mốc thay đổi quan

trọng trong việc xác định một cách rõ ràng, toàn diện các quyền của người
công dân Việt Nam,“Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…”,
“Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng
đồng”[36] trong đó có quyền của trẻ em. Lúc sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh
từng nói: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăn năm phải trồng
người”. Câu nói đó đã hàm chứa ý nghĩa sâu sắc của việc chăm lo, bảo vệ cho
trẻ em, lớp người sẽ kế tục sự nghiệp của dân tộc Việt Nam.
1.2. Trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố là nhóm trẻ dễ bị tổn
thương nhất. Các em có nguy cơ dính líu đến các hoạt động không an toàn như
bị bóc lột sức lao động, bị bóc lột tình dục vì mục đích thương mại, sử dụng
ma túy, bị buôn bán và phạm tội. Trẻ em lang thang là nhóm có nguy cơ cao vì
các em này thường không có một thứ giấy tờ tùy thân nào, do đó các em không
thể tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cơ
bản khác. Đây là nhóm trẻ em rất cần được quan tâm bảo vệ để các em được an
toàn cả về thân thể, sức khỏe, không bị xâm hại tình dục và các tệ nạn xã hội.
Do nhận thức còn non nớt nên TELT chưa thể tự bảo vệ bản thân và phòng


10
ngừa được những nguy cơ có thể xảy ra với các em. Ở Việt Nam, trong 10 năm
trở lại đây TELT luôn biến động thất thường, cụ thể: năm 2005: 17.026 em;
năm 2007:16.316 em; năm 2008: 28.509 em; năm 2009: 22.974 em; năm 2010:
21.230 em; năm 2011: 21.741 em; năm 2012: 22.364 em; năm 2013: 15.602
em; năm 2015 vẫn còn khoảng 15.000 [3] TELT trên cả nước, tuy nhiên, con
số này thường không chính xác và luôn thay đổi theo từng thời điểm. Đa phần
nhóm trẻ này vẫn gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận những quyền cơ bản
dành cho trẻ em.
1.3. Nhu cầu được bảo vệ của TELT có thể có sự khác biệt so với trẻ em
khác. Nếu trẻ được sống trong môi trường an toàn như gia đình, được cha mẹ
yêu thương, chăm sóc đầy đủ thì nhu cầu này có thể sẽ không xuất hiện, vì trẻ

đã được an toàn về mọi mặt, được chăm sóc, được bảo vệ, được đi học…
Nhưng đối với TELT kiếm sống thì luôn phải đối mặt với những nguy cơ mất
an toàn khi không có gia đình chăm sóc, bảo vệ. Vì vậy, nhu cầu được bảo vệ
của TELT sẽ cao hơn, cấp thiết hơn. Việc nghiên cứu nhu cầu được bảo vệ của
TELT hiện nay là cần thiết, nhằm chỉ ra mức độ nhu cầu được bảo vệ khi
TELT kiếm sống và đưa ra giải pháp phù hợp để bảo vệ cho nhóm trẻ em này.
1.4. Vấn đề bảo vệ trẻ em đã được thể hiện rất rõ trong các văn bản, chính
sách pháp luật của Việt Nam. Hiến pháp 2013 cũng đã dành cho trẻ em những
điều khoản quy định về bảo vệ trẻ em, Luật Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em
là văn bản pháp luật cao nhất dành cho trẻ em, trong đó quy định rõ trách
nhiệm của gia đình, xã hội và Nhà nước về bảo vệ chăm sóc trẻ em. “Việc bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà
nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan
tâm hàng đầu” [21,đ.5]. Một trong những điều mà văn bản pháp luật đã nêu đó
là trẻ em phải được quan tâm hàng đầu. “Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
phải coi trọng việc phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt;
kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em; phát hiện, ngăn


11
chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt”[36]. Để
thực hiện được điều này cần có sự quan tâm của toàn xã hội. Đối với TELT
việc bảo vệ mang tính cấp thiết hơn, bởi TELT luôn phải đối mặt với những
nguy cơ khi kiếm sống trên đường phố các em dễ bị lạm dụng, bị bóc lột sức
lao động, dễ mắc bệnh truyền nhiễm khi phải lao động sớm, nguy cơ bị xâm
hại tình dục và không được đi học… Do vậy, trên cơ sở nghiên cứu và phân
tích một cách thấu đáo nhu cầu được bảo vệ của TELT tại một số thành phố
lớn ở nước ta để đưa ra một số giải pháp nhằm tác động đến việc xây dựng và
thực hiện chính sách bảo vệ TELT ở Việt Nam được tốt hơn.

Xuất phát từ những lý do thực tế trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên
cứu: Nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang tại một số thành phố lớn ở
nước ta.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhu cầu được bảo vệ của TELT và một số yếu tố
ảnh hưởng đến nhu cầu được bảo vệ của TELT tại một số thành phố lớn ở
nước ta, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm bảo vệ cho nhóm trẻ
em này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về nhu cầu được bảo vệ của TELT: Khái niệm
công cụ, mức độ nhu cầu được bảo vệ của TELT, những yếu tố ảnh hưởng đến
nhu cầu được bảo vệ của TELT.
- Tìm hiểu thực trạng nhu cầu được bảo vệ của TELT tại thành phố Hà
Nội và thành thành phố Hồ Chí Minh, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu được
bảo vệ của trẻ em lang thang và phân tích một số trường hợp điển hình.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm bảo vệ TELT tại Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang


12
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
- Nhu cầu được bảo của TELT là một hiện tượng tâm lý phức tạp, nhu cầu
của TELT cũng phong phú vì vậy trong khuôn khổ của luận án này chúng tôi
chỉ lựa chọn 4 biểu hiện nhu cầu được bảo vệ của TELT, đó là: nhu cầu được
bảo vệ thân thể, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, nhu cầu chống xâm hại tình
dục và nhu cầu được học tập để biết chữ và hiểu biết xã hội.

- Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu được bảo vệ của
TELT: yếu tố chủ quan (nhận thức, sở thích, tình cảm) và yếu tố khách quan
(yếu tố gia đình và yếu tố xã hội).
3.2.2. Phạm vi về khách thể và địa bàn nghiên cứu
- Đề tài chỉ nghiên cứu nhu cầu được bảo vệ của TELT kiếm sống tại hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề tài này chỉ nghiên cứu ở TELT kiếm sống trên đường phố, không
sống cùng gia đình, không sống trong các trung tâm bảo trợ xã hội.
- Đề tài chỉ nghiên cứu biểu hiện mức độ nhu cầu được bảo vệ của TELT
có độ tuổi từ 6 đến dưới 16 tuổi. Ngoài ra, chúng tôi cũng thu thập thông tin từ
phía cán bộ quản lý các cấp trong lĩnh vực BVCSTE, cụ thể: Cục Bảo vệ chăm
sóc trẻ em, Sở Lao động Thương binh và Xã hội Tp Hồ Chí Minh, chủ nhà trọ/
người dân/ cán bộ phường/ tổ trưởng dân phố ở Tp Hồ Chí Minh, Tp Hà Nội.
Các đối tượng khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
- Tổng số khách thể tham gia quá trình nghiên cứu gồm: 260 nguời
Khách thể nghiên cứu chính gồm: 250 TELT, trong đó:
- Khảo sát thử:

35 TELT

- Khảo sát chính thức:

215 TELT

- Phỏng vấn sâu cá nhân:

16 TELT

- Nghiên cứu trường hợp điển hình:


3 TELT

(Số TELT tham gia phỏng vấn cá nhân và nghiên cứu trường hợp điển hình
được lựa chọn từ nhóm khách thể tham gia khảo sát chính thức).


13
Khách thể nghiên cứu phụ gồm: 10 người, trong đó:
- Cán bộ làm công tác quản lý BVCSTE:

5 người

- Chủ nhà trọ và trung tâm:

5 người

(Số khách thể tham gia phỏng vấn sâu này được lấy từ địa bàn nghiên cứu).
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2015
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên một số phương pháp luận sau:
- Phương pháp tiếp cận hoạt động – tâm lý: Nhu cầu được bảo vệ của
TELT không thể tách rời các hoạt động kiếm sống trên đường phố và các đặc
điểm tâm lý của TELT.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu xem xét các nhu cầu được
bảo vệ của TELT trong mối tác động qua lại với các yếu tố cá nhân và xã hội.
- Tiếp cận các văn bản quy phạm luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em. Nghiên
cứu nhu cầu được bảo vệ của TELT không thể tách rời với các văn bản quy
phạm pháp luật của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế về những quy định
bảo vệ TELT dựa trên quyền của trẻ em.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, nghiên cứu sử dụng phối
hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu;
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình;
- Phương pháp thống kê toán học.
Mục đích và cách thức sử dụng các phương pháp được trình bày ở Chương 2.


14
5. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
5.1. Về mặt lý luận
Đóng góp mới về mặt lý luận của luận án là đã làm sáng tỏ khái niệm nhu
cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang và 4 thành phần tạo nên nhu cầu này cũng
như một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang.
5.2. Về mặt thực tiễn
Đóng góp mới trong nghiên cứu thực tiễn là phân tích và nêu ra được một
số nhận xét về thực trạng nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang và một số
biểu hiện của nhu cầu này, đồng thời xác định được yếu tố gia đình có ảnh
hưởng nhiều nhất đến nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang.
Những kết quả nghiên cứu trên của luận án góp phần thiết thực đối với
việc bảo vệ TELT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến nhu
cầu; bảo vệ trẻ em và trẻ em lang thang. Đặc biệt, việc xác định nội hàm khái

niệm nhu cầu được bảo vệ của trẻ em lang thang và các thành phần tạo nên
nhu cầu này cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới chúng làm phong phú hệ thống
lý luận nói trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu thực tiễn giúp xã hội nắm bắt được nhu cầu
được bảo vệ của trẻ em lang thang để từ đó Nhà nước vạch ra các chiến lược,
chính sách xã hội và hành vi thực tế bảo vệ giúp đỡ trẻ em ở hoàn cảnh này
hữu hiệu hơn; giảm thiểu các nguy cơ trẻ gặp phải cũng như làm tốt hơn nữa
công tác giáo dục kiến thức nói chung và công tác giáo dục kỹ năng sống nói
riêng nhằm giúp trẻ tự phát triển vượt lên hoàn cảnh và tự bảo vệ mình trong
mọi hoàn cảnh nảy sinh.
Ngoài ra, việc xác định gia đình là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến nhu
cầu bảo vệ của trẻ em lang thang là căn cứ để Nhà nước đưa ra kịp thời các


15
chính sách xã hội hóa giáo dục gia đình tốt hơn, để các gia đình làm tròn hơn
các chức năng của mình đối với con trẻ, giảm thiểu tối đa trẻ bỏ đi lang thang.
7. CƠ CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu nhu cầu được bảo vệ của trẻ
em lang thang
Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhu cầu được bảo vệ của trẻ
em lang thang
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn nhu cầu được bảo vệ của trẻ em
lang thang tại một số thành phố lớn ở nước ta.



16
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
NHU CẦU ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM LANG THANG

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Trong lịch sử nghiên cứu, vấn đề nhu cầu, bảo vệ trẻ em và TELT đã
được tiếp cận ở nhiều hướng khác nhau, đặc biệt là vấn đề bảo vệ trẻ em,
những chủ nhân tương lai của đất nước, hầu hết các quốc gia đã thực hiện
nghiên cứu trên trẻ em về nhiều khía cạnh. Một trong những vấn đề quan trọng
nhất cần tìm hiểu là nhu cầu được bảo vệ trẻ em và TELT. Đã được nhiều
nước đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, chúng tôi khái quát thành các
hướng nghiên cứu sau đây:
1.1.1. Hướng nghiên cứu về nhu cầu
Trong tâm lý học, nhu cầu là một trong những vấn đề phức tạp, có nhiều
lý thuyết khác nhau giải thích hiện tượng tâm lý này. Theo quan điểm của các
nhà tâm lý học phương tây như: Lý thuyết bản năng về nhu cầu, lý thuyết về
nhu cầu biểu lộ, lý thuyết phân cấp nhu cầu, lý thuyết nhu cầu hoạt động, v.v...
các hướng nghiên cứu này đã rút ra một số nhận xét chính về nhu cầu như sau:
a) Tác giả Sigmund Freud một nhà nghiên cứu tiêu biểu của lý thuyết
bản năng về nhu cầu. Ông là một trong những người đầu tiên nhận ra tầm quan
trọng của sự thúc đẩy tìm kiếm sự thỏa mãn thuộc về tiềm thức. Ông cho rằng
không phải lúc nào con người cũng nhận thức được mọi điều họ muốn, do đó,
nhiều hành động của họ chịu ảnh hưởng của các động cơ vô thức hoặc các nhu
cầu vô thức thúc đẩy. Thực tế qua nghiên cứu, S.Freud đã nhận ra rằng một
phần quan trọng trong động cơ của hầu hết mọi người ẩn dưới vẻ bề ngoài,
nghĩa là không phải luôn rõ ràng đối với cá nhân. Nhiều khi chỉ một phần nhỏ
của động cơ của một người là có thể thấy rõ được hoặc chính bản thân người
đó nhận thức được. Lý thuyết bản năng trở thành trung tâm tranh luận của các



17
nhà nghiên cứu tâm lý học phương Tây ngay từ lúc hình thành và kéo dài cho
tới những năm 30 của thế kỷ XX. Nhưng cuối cùng họ cũng bế tắc khi sử dụng
lý thuyết bản năng để giải thích các hành vi văn hoá và văn minh của con người.
Như vậy, theo hướng tiếp cận này, tác giả đã có những cách lý giải khác
nhau về nhân tố then chốt thúc đẩy hoạt động và nhu cầu của con người, song
về bản chất thì cảm giác tự ti, sự chạy trốn, tâm hồn hay khí chất của con
người đều do sức mạnh của bản năng nhưng dưới hình thức khác mà thôi.
Chúng tôi cho rằng cách nhìn nhận nhu cầu của con người như những bản
năng thường dẫn đến đối lập cá nhân với xã hội, bản năng của con người có từ
khi mới sinh ra và được bộc lộ dần dần trong quá trình phát triển của cá thể.
Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến nhu cầu được bảo vệ của trẻ em.
b) Henry A.Murray đại diện cho lý thuyết nhu cầu biểu lộ cho rằng, nhu
cầu hầu hết là do học hỏi chứ không phải là do di truyền và chúng được hoạt
hóa bởi sự điều chỉnh của môi trường bên ngoài. Ông gọi đó là những nhu cầu
"biểu lộ" Murray xác định một loạt những nhu cầu mà con người cho là có
được ở mức độ này hay mức độ khác là nhờ sự tác động của môi trường.
Ông cũng đã tập trung phân loại nhu cầu vào phạm vi hẹp. Theo ông một
nhu cầu riêng rẽ được tạo ra cho hầu hết các hành vi của con người. Mặc dù
lúc đầu ông chỉ đưa ra một số lượng không nhiều các nhu cầu, nhưng cuối
cùng danh mục nhu cầu của ông tăng dần lên theo sự nghiệp của ông. Murray
xếp nhu cầu bảo vệ thuộc vào nhóm nhu cầu tâm lý. Sự ảnh hưởng của phân
tâm học đến học thuyết nhu cầu của Murray là khá mạnh bởi ông cho rằng nhu
cầu quy định xu hướng nhân cách đều xuất phát từ Libido vô thức. Tuy nhiên,
những vấn đề mà ông đề cập tới chưa có những nghiên cứu cụ thể về nhu cầu
được bảo vệ của trẻ em nói chung và của TELT nói riêng.
c) A.N.Leonchiev (1903 - 1979) cũng đưa ra các quan điểm rất khoa học
về nhu cầu. Theo ông, nhu cầu cũng như các đặc điểm tâm lý khác của con

người có nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn. Ông cho rằng: ''Hoạt động và
duy nhất chỉ có trong đó mà thôi, các nhu cầu mới có được tính cụ thể về mặt
tâm lý học'' [7,tr.32.2]. Theo ông, nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu


18
cầu về một cái gì đó, và một trạng thái có tính nhu cầu nhưng lại không chứa
đựng nội dung đối tượng nào cả thì không thể là một nhu cầu ở cấp độ tâm lý,
đó là trạng thái nhu cầu "trần trụi" của chủ thể, là cái trừu tượng...
Mối liên hệ giữa nhu cầu và hoạt động được A.N.Leonchiev mô tả bằng
sơ đồ: Hoạt động  Nhu cầu  Hoạt động.
Về mối quan hệ này, ông cho rằng: Luận điểm này đáp ứng quan niệm
macxit về nhu cầu, rằng nhu cầu của con người được sản xuất ra. Đây cũng là
luận điểm có ý nghĩa quan trọng đối với tâm lý học mà trong đó “không một
quan niệm nào dựa trên cơ sở tư tưởng cho là có “động lực” mà trên nguyên
tắc là tồn tại trước bản thân hoạt động lại có thể đóng vai trò một quan niệm
xuất phát, có khả năng dùng làm cơ sở đầy đủ cho một lý thuyết khoa học về
nhân cách của con người [2].
Theo ông, nhu cầu có được là nhờ hoạt động và phải qua hoạt động con
người mới có nhu cầu, và phải là nhu cầu cụ thể về một cái gì đó. Nhu cầu
được bảo vệ của TELT là một trong những nhu cầu mà thông qua hoạt động
sống, khi lang thang kiếm sống trên đường phố, các em gặp những nguy cơ
mất an toàn nên nhu cầu bảo vệ mới được nảy sinh, những nhu cầu đó rất cụ
thể như được bảo vệ thể chất, được bảo vệ sức khỏe, chống xâm hại tình dục,
được học tập… Đây là những điểm chúng tôi sẽ làm rõ trong nghiên cứu này.
d) Abraham Maslow một trong những người sáng lập ra trường phái tâm
lý học nhân văn và cũng là người đầu tiên nghiên cứu lĩnh vực động cơ, được
coi là một trong những lý thuyết phổ biến nhất ở các nước phương Tây. Ông
sắp xếp hệ thống nhu cầu thành 5 thứ bậc: (1) Các nhu cầu sinh lý, (2) Nhu cầu
an toàn, (3) Nhu cầu yêu thương, (4) Nhu cầu được tôn trọng, (5) Nhu cầu tự

thể hiện mình [71]. Ông cho rằng nhu cầu được phân loại theo các nhóm cấu
trúc có đẳng cấp từ thấp đến cao, mà tính chất nhất quán, lôgic của chúng
chứng tỏ một trật tự xuất hiện các nhu cầu trong quá trình phát triển của cá thể,
cũng như sự phát triển của hệ thống động cơ. Thang bậc nhu cầu của Maslow
cho thấy hhững nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ không là quan trọng và không biểu
hiện rõ ràng khi nhu cầu ở cấp thấp hơn chưa được thỏa mãn. Khi nhu cầu ở


19
cấp thấp được thoả mãn thì nhu cầu ở bậc trên nảy sinh và chi phối hành vi.
Các cấp độ của thang bậc nhu cầu không tách biệt một cách cứng nhắc nhưng
nối tiếp nhau ở một chừng mực nào đó. Theo đó, nó cho phép nhu cầu ở cấp
độ cao hơn xuất hiện trước khi nhu cầu ở cấp độ thấp hơn thoả mãn hoàn toàn
tuỳ theo điều kiện từng hoàn cảnh cụ thể.
Các nhu cầu sinh lý như thức ăn, nước uống, bài tiết, thở, nơi ở, tình dục,
nghỉ ngơi. Những nhu cầu cơ bản này đều là các nhu cầu không thể thiếu hụt
vì nếu con người không được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn
tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại trong cuộc sống hàng ngày.
Khi các nhu cầu về sinh lý được đảm bảo sẽ nảy sinh nhu cầu được an
toàn, được có cảm giác yên tâm, được đảm bảo về an toàn thân thể, việc làm,
gia đình, sức khỏe, tài sản. Bảo vệ cá nhân khỏi các nguy hiểm trong cuộc
sống, họ tìm đến thỏa mãn các nhu cầu về mặt tinh thần, và nhu cầu cao hơn là
được khẳng định bản thân và được tôn trọng.
Ngoài những lý thuyết phân cấp nhu cầu của Masllow, nhóm nghiên cứu
của E.Lawler, S.Suttle (1972) họ thừa nhận có hai mức nhu cầu là: Nhu cầu
sinh học và các nhu cầu khác. Các nhu cầu khác chỉ xuất hiện khi các nhu cầu
sinh học đã được thoả mãn một cách hợp lý. Khi nghiên cứu các yếu tố cấu
thành nhu cầu của con người cho thấy các yếu tố có quan hệ mật thiết với
nhau, phát triển từ thấp tới cao, về căn bản nhu cầu của con người được chia
làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao.

Những quan điểm phân cấp nhu cầu của A.Maslow và nhóm E.Lawler,
S.Suttle (1972) có giá trị thực tiễn to lớn khi nghiên cứu những vấn đề về nhu
cầu của con người nói chung. Biểu hiện mức độ nhu cầu được bảo vệ của
TELT cũng xuất phát từ nhu cầu bậc thấp như ăn, mặc, nơi ở, việc làm an
toàn… nhu cầu được bảo vệ an toàn thân thể, được chăm sóc sức khỏe, chống
xâm hại tình dục hay nhu cầu được học tập… là những nhu cầu cơ bản nhất mà
các em cần được đáp ứng để sinh tồn và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu nhu cầu
được bảo vệ của TELT là rất cần thiết, kế thừa và làm sáng tỏ hơn, cụ thể hơn
những nhu cầu thiết yếu của con người.


20
Tóm lại, những nghiên cứu về nhu cầu của các nhà tâm lý học phương
Tây như S.Freud, A.Maslow, V.H.Vroom, Henry A.Murray,... đã có những
đóng góp nhất định cả về mặt lý luận và thực tiễn như: thừa nhận vai trò quan
trọng của nhu cầu; chỉ ra được bản chất xã hội của nhu cầu, phân loại nhu cầu
theo hệ thống thứ bậc, mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ thúc đẩy con
người làm việc. Những biểu hiện mức độ nhu cầu được bảo vệ của trẻ em chưa
được đề cập đến trong các nghiên cứu này, mà các nhà khoa học phương tây
chủ yếu tập trung vào việc làm sáng tỏ bản chất, các loại nhu cầu, các yếu tố
tác động đến sự hình thành và phát triển nhu cầu của con người nói chung.
1.1.2. Hướng nghiên cứu về bảo vệ trẻ em
Bảo vệ trẻ em là một trong những vấn đề đã được rất nhiều quốc gia
quan tâm và nghiên cứu, và có nhiều bằng chứng rằng đầu tư vào bảo vệ trẻ
em có thể mang lại những lợi ích và hiệu quả bền vững để thúc đẩy xã hội phát
triển tốt hơn, tăng trưởng kinh tế công bằng hơn trên thế giới. Bảo vệ trẻ em là
vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia, điều đó đã được chứng minh
bằng việc có gần 200 quốc gia đã ký cam kết Công ước Liên Hiệp Quốc về
Quyền trẻ. Các quốc gia cam kết đã đóng một vai trò quan trọng trong việc gia
tăng sự tập trung vào các vấn đề bảo vệ trẻ em và hình thành nền tảng cho việc

lồng ghép bảo vệ trẻ em trong nhiều ngữ cảnh và điều kiện phát triển ở các
nước khác nhau, sau đây chúng tôi, xin được đề cập đến các hướng nghiên cứu
về vấn đề này ở một số quốc gia trên thế giới:
a) Bảo vệ trẻ em theo mô hình của lục địa Châu Âu
Pháp luật ở các nước này quy định rằng các cơ quan phúc lợi xã hội cần
giúp đỡ bất cứ khi nào an sinh hoặc sự phát triển của trẻ em “gặp nguy hiểm”.
Trường hợp khi nào trẻ “gặp nguy hiểm” được xác định thông qua các hướng
dẫn và hoạt động thực hành, thay vì được quy định trong luật. Điều này xuất
phát từ việc hệ thống phúc lợi trẻ em được cấu trúc như một chuỗi liên tục bao
gồm các hoạt động phòng ngừa và bảo vệ trong đó những TELT và gia đình
đang gặp khó khăn sẽ được nhận hỗ trợ bất kể mức độ nghiêm trọng của vấn
đề. Vì vậy việc phân nhóm “trẻ em bị bóc lột; lạm dụng, ngược đãi hay TELT”


21
không phải là vấn đề trọng tâm bởi nhân viên phúc lợi sẽ xử lý yêu cầu hoặc
khiếu nại dựa trên sự tương tác của họ với gia đình, thay vì dựa trên mức độ
nghiêm trọng của nguy cơ xảy ra đối với trẻ hay việc vấn đề của trẻ rơi vào
phân nhóm nào. Như vậy, có nghĩa là bất cứ khi nào đứa trẻ có nguy cơ hoặc
có sự khiếu nại thì sẽ được xem xét và được bảo vệ kịp thời, không phân biệt
mức độ hay nhóm đối tượng.
- Ở Pháp các biện pháp bảo vệ trẻ em được thực hiện như sau: Hỗ trợ vật
chất, giáo dục và phát triển tâm lý của trẻ vị thành niên và gia đình hoặc người
có thẩm quyền nuôi dưỡng phải đối mặt với những khó khăn có thể gây nguy
hiểm cho sức khỏe, an toàn, đạo đức hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá
trình học tập, sự phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ và xã hội của người
chưa thành niên.
- Phần Lan bảo vệ trẻ em khi trẻ em rơi vào những hoàn cảnh sau: Môi
trường nuôi dưỡng trẻ đang có những vấn đề gây nguy hiểm hoặc không đảm
bảo được cho tình trạng sức khỏe hoặc sự phát triển của trẻ; Hành vi của trẻ em

đang gây nguy hiểm cho sức khỏe hoặc sự phát triển của chính các em.
Cách tiếp cận này thúc đẩy tính linh hoạt và tạo điều kiện cho việc đánh
giá được tình huống của từng cá nhân trẻ và hoàn cảnh gia đình, nhưng cũng
đồng thời bị chỉ trích là quá mơ hồ. Các quốc gia khác chịu ảnh hưởng của mô
hình châu Âu đã đưa ra hướng dẫn về những tình huống mà trẻ có thể bị nguy
hiểm hoặc cần hỗ trợ và bảo vệ. Tuy nhiên, các trường hợp được liệt kê vẫn
chưa đầy đủ, và các quy định được đưa ra để can thiệp "trong bất cứ trường
hợp nào ảnh hưởng đến an sinh của trẻ em”.
- Thụy Điển: Mô hình bảo vệ trẻ em được quy định là những người dưới
18 tuổi sẽ được cơ quan nhà nước tiến hành cung cấp dịch vụ chăm sóc và bảo
vệ các em khi rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và không có sự chăm sóc khác phù
hợp với sự đồng ý của những người có quyền giám hộ chăm sóc các em ...
Tiến hành chăm sóc cho người dưới 18 tuổi nếu trong gia đình có các
yếu tố lạm dụng thể chất hoặc tinh thần, bỏ bê hay một yếu tố khác trong gia
đình gây ra nguy cơ thực sự đối với sức khỏe hoặc sự phát triển của các em.


22
Cần tiến hành chăm sóc cho trẻ nếu người dưới 18 tuổi gây nguy hiểm
hoặc nguy cơ lớn cho sức khỏe của mình thông qua việc sử dụng các chất gây
nghiện, phạm tội hoặc có những hành vi phá hoại khác.
- Kosovo: Vấn đề bảo vệ trẻ em được thông qua các Trung tâm Công tác
Xã hội, những trung tâm này sẽ đảm bảo các dịch vụ xã hội và các dịch vụ
tham vấn trong trường hợp trẻ cần và gia đình cần được hỗ trợ vì các nguyên
nhân sau:
Trẻ không được hưởng sự chăm sóc của cha mẹ; Cha mẹ hoặc người
chăm sóc vì lối sống, khuyết tật hay bệnh tật về thể chất hoặc tâm thần, vấn đề
tâm lý xã hội, bị nghiện hoặc lý do khác mà gặp khó khăn trong việc chăm sóc
và giáo dục trẻ một cách phù hợp; Trẻ có một số vấn đề xã hội dẫn đến nhu cầu
cần được bảo vệ và chăm sóc.

- Nicaragua: Chính phủ, các tổ chức công lập hay tư nhân, cùng với sự
tham gia của gia đình, cộng đồng và nhà trường, sẽ tiến hành chăm sóc và bảo
vệ đặc biệt cho trẻ em và thanh thiếu niên trong các trường hợp sau đây:
Khi người giám hộ lạm dụng quyền hạn của mình hoặc bỏ bê nghĩa vụ
của mình theo quy định của pháp luật; Khi không xác định được gia đình của
trẻ hoặc thiếu niên; Khi trẻ và thiếu niên là người tị nạn hoặc là nạn nhân của
cuộc xung đột vũ trang; Khi trẻ và thiếu niên đang ở trong các trung tâm bảo
vệ hoặc nhà tạm trú; Khi trẻ và thiếu niên tham gia lao động và bị bóc lột vì
mục đích kinh tế; Khi trẻ và thiếu niên bị lạm dụng và bóc lột tình dục; Khi trẻ
và thiếu niên hoàn toàn không được bảo vệ và đi lang thang mà không có bảo
vệ gia đình; Khi trẻ và thiếu niên phải chịu đựng tổn thương từ sự lạm dụng
thể chất hoặc tâm lý; Khi trẻ và thiếu niên ở trong bất kỳ điều kiện hay hoàn
cảnh nào đòi hỏi cần được bảo vệ đặc biệt.
- Bulgaria bảo vệ trẻ em khi trẻ rơi vào các nguy cơ như: Người không
có cha mẹ hoặc đã vĩnh viễn không được hưởng sự bảo vệ chăm sóc của họ;
Người là nạn nhân bị lạm dụng, bóc lột, bạo hành hoặc mọi hình thức đối xử
vô nhân đạo hoặc có tính chất làm nhục hoặc trừng phạt bởi người trong gia


23
đình hay người ngoài; Người có nguy cơ gây tổn hại đến sự phát triển về thể
chất, trí tuệ, đạo đức, trí tuệ và xã hội của trẻ.
b) Bảo vệ trẻ em theo mô hình của Anh
Luật bảo vệ trẻ em có xu hướng bao gồm các quy định tương đối chi tiết
về định nghĩa thế nào là “trẻ em cần được bảo vệ". Nhìn chung, pháp luật quy
định rằng một trẻ em “cần sự bảo vệ” từ các cơ quan bảo vệ trẻ em chỉ khi trẻ
em đã bị bỏ rơi, hoặc trẻ bị lạm dụng hoặc sao nhãng nghiêm trọng, hoặc có
nguy cơ bị “tổn thương” hoặc “tổn thương nghiêm trọng". Những trường hợp
không rơi vào các nhóm trên có thể sẽ được chuyển cho các cơ quan hỗ trợ
khác, nhưng không được coi là một "trường hợp bảo vệ trẻ em". Trước đây,

những luật này có xu hướng tập trung vào vấn đề ngược đãi, bỏ rơi và bỏ bê trẻ
em của cha mẹ, nhưng nay đã mở rộng định nghĩa để bao gồm các vấn đề bảo
vệ trẻ em hiện đại như buôn bán trẻ em, lạm dụng ma túy/rượu, trẻ em lang thang
và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Như vậy, trong luật của các nước theo mô
hình của Anh thì nhóm TELT được đưa vào nhóm trẻ em cần được bảo vệ.
c) Bảo vệ trẻ em theo mô hình của Châu Phi
- Pháp luật quy định: Một trẻ em có nhu cầu được chăm sóc và bảo vệ,
nếu: Bị bỏ rơi hoặc mồ côi và không có bất kỳ hình thức hỗ trợ nào; Thể hiện
những hành vi mà cha mẹ hoặc người chăm sóc không thể kiểm soát được;
Sống hoặc làm việc trên đường phố hoặc đi ăn xin; Nghiện một chất nào đó và
không có bất kỳ sự hỗ trợ nào để điều trị cai nghiện; Bị bóc lột hoặc sống trong
các hoàn cảnh dẫn đến việc trẻ bị bóc lột; Sống hoặc tiếp xúc với hoàn cảnh có
khả năng gây hại nghiêm trọng cho trẻ về thể chất, tinh thần hoặc an sinh; Có
thể bị nguy hiểm khi được giao lại cho cha mẹ, người giám hộ hoặc người
chăm sóc vì có lý do để tin rằng trẻ sẽ sống hoặc tiếp xúc với những hoàn cảnh
có thể gây tổn thương nghiêm trọng về thể chất, tinh thần hoặc an sinh của trẻ;
Ở trong tình trạng bị sao nhãng, bỏ bê về thể chất hoặc tinh thần; Bị ngược đãi,
bị lạm dụng, cố ý bị bỏ bê hoặc hạ nhục bởi cha mẹ, người chăm sóc, người có
trách nhiệm và quyền hạn của cha mẹ, hoặc một thành viên trong gia đình của
trẻ hoặc một người có khả năng kiểm soát trẻ.


24
- Ở Sudan: Một trẻ em được coi là có nhu cầu cần sự chăm sóc và bảo vệ
đặc biệt, nếu trẻ em đó đã hoặc đang, hoặc có thể: Bị sử dụng cho các hoạt
động bất hợp pháp; Bị đe dọa, hoặc phải chịu những hình thức bạo hành, chấn
thương, lạm dụng, bỏ bê, ngược đãi đã bị nghiêm cấm theo Luật; Bị đe dọa,
hoặc phải chịu những hình thức lạm dụng hoặc bóc lột tình dục bị nghiêm cấm
theo Luật; Bị ép phải kết hôn; Ngăn cản việc hoàn thành bậc giáo dục tiểu học;
Phải tham gia những hình thức tham gia lao động bị nghiêm cấm theo Luật;

Buộc phải trải qua những tục lệ văn hóa hoặc xã hội có hại cho trẻ và đã bị
nghiêm cấm theo Luật; Không có cha mẹ hoặc người giám hộ, bị di dời, bị bỏ
rơi, hoặc bỏ nhà ra đi; Cha mẹ hoặc người giám hộ phải chịu án tù; Không
được ai chăm sóc vì cha mẹ hoặc người giám hộ không muốn hoặc không thể
chăm sóc trẻ một cách phù hợp vì lý do bệnh tật, tuổi già, khuyết tật hoặc lý do
nào khác; Bị buôn bán, bắt cóc hoặc bắt làm nô lệ; Vô gia cư; Bị khuyết tật và
hoặc người khác giam cầm hoặc nhốt; Mang thai, tự tử hoặc bị gia đình chối
bỏ; HIV/AIDS dương tính, và không thể tiếp cận tới dịch vụ chăm sóc y tế phù
hợp; Bị bệnh nặng, hoặc bệnh giai đoạn cuối hoặc có cha mẹ bị bệnh nặng,
hoặc bệnh giai đoạn cuối; Các hoàn cảnh khác có, hoặc có thể gây hại cho
cuộc sống, việc học tập, sức khỏe hoặc an sinh của trẻ.
Ở khu vực này, định nghĩa về trẻ em cần được bảo vệ ở mỗi quốc gia có
sự khác nhau đáng kể. Đa số các quốc gia không chỉ đưa ra các quy định về
dạng bạo lực và ngược đãi, mà còn mở rộng ra các tình huống trong đó trẻ có
thể dễ bị tổn thương và cần sự chăm sóc hoặc bảo vệ.
d) Bảo vệ trẻ em theo mô hình của châu Úc
- Queensland một trẻ em có nhu cầu cần được bảo vệ là một trẻ em mà:
Đã, đang, hoặc có nguy cơ cao bị hại và phải chịu tổn thương; Cha mẹ không có
khả năng và mong muốn bảo vệ trẻ em khỏi bị tổn hại. Hay: Tổn thương đối với
một trẻ em, là bất kỳ ảnh hưởng nào có tính chất nghiêm trọng gây hại tới tình
trạng thể chất, tâm lý hay cảm xúc của trẻ. Không quan trọng việc tổn thương
được gây ra như thế nào, tổn thương có thể được gây ra bởi: Lạm dụng hoặc bỏ
bê sao nhãng về thể chất, tâm lý hay cảm xúc; Lạm dụng hoặc bóc lột tình dục.


25
e) Bảo vệ trẻ em theo mô hình ở các nước Đông Nam Á
- Lào: Trẻ em được xem là có nhu cầu cần sự bảo vệ đặc biệt sẽ được
định nghĩa là những người mồ côi cha hoặc mẹ, mồ côi cả cha và mẹ, bị bỏ rơi,
bị bỏ bê sao nhãng hoặc không được cha mẹ chăm sóc; trẻ em đã bị lạm dụng

về thể chất, tình dục, tham gia hoạt động mại dâm, bị buôn bán; trẻ em tham
gia vào các hình thức lao động nguy hiểm hoặc bóc lột, trẻ em di dời; trẻ em
nghiện ma túy; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và trẻ em nạn nhân bị
thương do hành vi phạm tội gây nên. Những quy định về nhóm trẻ em cần
được bảo vệ của Lào gần giống với các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở
Việt Nam được quy định trong Luật BVCSTE, 2004.
- Thái Lan trẻ em được bảo vệ và nhận hỗ trợ bao gồm: Trẻ lang thang
hoặc trẻ mồ côi; Trẻ bị bỏ rơi hoặc bị lạc; Trẻ có người giám hộ không thể đảm
nhận việc chăm sóc vì bất cứ lý do, ví dụ, bị phạt án tù, giam giữ, là người tàn
tật, có bệnh kinh niên, nghèo khổ, là trẻ vị thành niên, ly dị, bỏ rơi, bị bệnh tâm
thần hoặc rối loạn thần kinh; Trẻ em có người giám hộ có hành vi hoặc nghề
nghiệp không phù hợp và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất hoặc
tinh thần của trẻ nếu trẻ ở trong sự giám hộ của họ; Trẻ em đã được nuôi dưỡng,
bóc lột, lạm dụng một cách trái pháp luật hoặc phải chịu những điều kiện hoàn
cảnh có thể khiến các em có hành vi vô đạo đức hoặc bị tổn hại về thể chất hoặc
tinh thần; Trẻ em khuyết tật; Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; Trẻ em ở trong các
hoàn cảnh được nhận hỗ trợ phúc lợi theo quy định của các cơ quan ngang Bộ.
- Philippines: Bảo vệ trẻ em hay "Lạm dụng trẻ em" là sự ngược đãi,
cho dù có được cho là thói quen được chấp nhận hay không, đối với trẻ trong
đó bao gồm những loại hình sau đây: Lạm dụng, bỏ bê về thể chất và tâm lý,
đối xử độc ác, lạm dụng tình dục và ngược đãi về tình cảm; Những hành động
hoặc việc làm hoặc lời nói làm giảm, hạ thấp giá trị và nhân phẩm của trẻ với
tư cách là một con người; Không đáp ứng nhu cầu cơ bản của trẻ như thức ăn
và nơi ở ở mức độ không thể chấp nhận được; Không ngay lập tức điều trị cho
một trẻ em bị thương dẫn đến suy giảm nghiêm trọng sự tăng trưởng và phát
triển của trẻ hoặc để lại tác hại vĩnh viễn hoặc tử vong ở trẻ "Những tình huống


×