Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO NĂNG lực tư DUY lý LUẬN CHO đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp TỈNH HIỆN NAY QUA THỰC tế ở TỈNH bắc GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.92 KB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi
lẽ, năng lực tư duy lý luận là cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
hoạch định đường lối, chủ trương, chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở
tầm vĩ mô, khi triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi
một sự năng động, sáng tạo thì kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu
đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh phải có trình độ tư duy lý luận
mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị
quyết của Trung ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao.
Thực ra, việc triển khai nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự năng động sáng tạo lớn ở đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi mới của Đảng ta đã thu
được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn,
những vấn đề mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư
duy lý luận có ý nghĩa hết sức to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh.
Theo chúng tôi, cấp tỉnh là cấp có đủ các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... để chúng ta nghiên
cứu, thể nghiệm, đề xuất những vấn đề thuộc về đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước.


2



Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, các cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh đã năng động trong triển khai nghị quyết của Trung ương,
song đó mới là những giải pháp trước mắt chưa mang tính chiến lược lâu
dài. Nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vẫn thụ động chờ sự chỉ đạo của cấp trên,
chưa dám mạnh dạn đề xuất những biện pháp mới phù hợp với địa phương, vì
thế nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa được giải quyết kịp thời... Tình
hình ấy phải chăng phản ánh năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình?
Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Với mong muốn được đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu vấn đề
này, tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc
Giang" làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
lãnh đạo đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho
đến nay đã có nhiều công trình được công bố với những mức độ thể hiện
khác nhau trong đó có những công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài
như: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay"
của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, Số 2-1994; Hồ Bá Thâm:
"Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay",
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay
qua thực tế tỉnh Kiên Giang" luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên;
"Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS
Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-1987; "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận" của PGS Trần Đình Huỳnh,
Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2-1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận



3

cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" luận
án tiến sĩ triết học của Nguyễn Đình Trãi...
Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trình độ tư
duy, năng lực tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những
công trình nghiên cứu đánh giá về những hạn chế, yếu kém về tư duy lý
luận của cán bộ, đảng viên, chẳng hạn như: "Chống chủ nghĩa chủ quan
duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều trong
quá trình đổi mới"; "Mấy vấn đề về đổi mới tư duy", Học viện Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội, 1988; "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán
bộ ta", Tạp chí Triết học, số 2-1988...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận như một phẩm
chất tư duy của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện
nay với tư cách là một luận văn thạc sĩ khoa học triết học thì chưa có tác giả
nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần vào công tác cán bộ trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò của năng lực tư
duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh và thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này (qua
thực tế Bắc Giang), đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu
nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho họ.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và những yêu cầu nâng cao
năng lực tư duy lý luận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (qua
thực tế Bắc Giang).



4

- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh từ năm 1986 đến nay và những nguyên nhân của
thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu để
từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo,
cũng không nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo
theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về năng lực tư duy
lý luận và vai trò của nó với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang).
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là toàn bộ Ban chấp hành tỉnh
Đảng bộ.
Luận văn không nghiên cứu về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh như là đối tượng của khoa học xây dựng Đảng, cũng không nghiên cứu
về năng lực tư duy với tư cách là đối tượng của tâm lý học; mà nghiên cứu
năng lực tư duy lý luận với tư cách là một phẩm chất của tư duy dưới góc
độ nhận thức luận theo lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
mácxít.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng
ta về con người, về trình độ tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận của
người cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói
riêng. Luận văn kế thừa các tác giả đi trước về vấn đề này.



5

Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và lôgíc, trừu tượng và
cụ thể, phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê...
Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính
quyền ở tỉnh Bắc Giang...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu xác định được những phẩm chất tối thiểu thuộc
về năng lực tư duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý
luận đối với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đồng thời, luận văn cũng đã vạch ra được thực trạng năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc
Giang), trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu để phát huy và từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ này.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch
định chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập triết
học nói chung và phần lý luận nhận thức nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


6


Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO
CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT CẤP TỈNH

1.1. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

1.1.1. Bản chất tư duy lý luận
Để xác định được nội dung của phạm trù năng lực tư duy lý luận,
trên cơ sở ấy mà nhận rõ vai trò của nó cũng như nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ
nội dung khái niệm tư duy.
Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với "ý
thức" và "nhận thức" vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết,
thống nhất hữu cơ với nhau. Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một
phạm trù có tính lịch sử.
Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc
người và được cải biến đi ở trong đó [41, tr. 35]. Còn Lênin thì cho rằng ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan [24, tr. 138]. Nói ý thức là
hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền
với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn,
nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách quan.
Tuy là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự
vật, hiện tượng, quá trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi "cái khách quan"
và có nội dung phản ánh là "cái khách quan" ấy. Cố nhiên, không phải chỉ
cần thế giới xung quanh tác động lên bộ óc con người là mặc nhiên sinh ra ý
thức. Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội, "... ngay từ đầu ý thức đã là một
sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" [39,



7

tr. 43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của
con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu
của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của con người quy định. Ý thức có kết cấu phức tạp, bao
gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí... trong đó, tri thức
là thành tố quan trọng nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng
chính là quá trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung
quanh. Hiểu biết về sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật đó
càng sâu sắc.
Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về
chất so với phản ánh tâm lý ở động vật. Ý thức là toàn bộ các quá trình tâm
lý tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách
quan... [63, tr. 711].
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng - là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi
con người trên cơ sở của thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự
phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng sự phản
ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc giản đơn, thụ
động mà là một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực
và sáng tạo. Bởi vì, "... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan
mà còn tạo ra thế giới khách quan" [28, tr. 228].
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc
con người nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở
động vật về chất.
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan một cách tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.
Theo Lênin, nhận thức là một quá trình "từ trực quan sinh động đến

tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường


8

biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan [28, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao
gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác
nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống
nhất hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, đem lại cho con người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn
diện hơn và sâu sắc hơn về các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực
trong đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển
xã hội và gắn liền với hoạt động thực tiễn [72, tr. 407].
Vậy tư duy khác gì với nhận thức?
Tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản
ánh tích cực thực tại khách quan của con người [72, tr. 634].
Đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu
chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì
con người không thể bằng cảm giác mà nhận thức, mà hiểu được những
vấn đề như tốc độ ánh sáng, âm thanh hay những hiện tượng xã hội phức
tạp khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay thế ngoài
việc sử dụng sức mạnh của tư duy.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.
Đó là quá trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối
liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, đem lại cho nhận thức khoa
học những tri thức mới về tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển
của sự vật.
Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của

tư duy, tư duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có
thể sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên


9

những quy luật của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của
các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để tư duy và
tư tưởng của loài người không thể lưu giữ kế thừa và phát triển được.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu
tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là "ý niệm tuyệt đối",
"ý niệm siêu nhiên"... song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những
quan điểm đó và đã chứng minh được rằng tư duy là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc người
phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm, phán đoán,
suy lý... thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động
đặc biệt của quá trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh
dựa trên sự hoạt động của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận
động của thực tại khách quan và định hướng quan hệ đối với thực tại khách
quan đó. Những quy luật của tư duy là sự phản ánh các quy luật của thực
tại khách quan. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới, từ những hình
ảnh trực tiếp, nguyên vẹn của cảm giác được tư duy chắt lọc loại bỏ những
mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu nhiên trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những
mặt cơ bản, tất yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành
nên những khái niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu
của chúng; dựa vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái
quát xu hướng vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư
duy chỉ có ở con người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người
trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự

phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người chủ động tác động vào thế giới
và phản ánh chủ động sáng tạo.
Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải
tìm cách nhận thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện
thực lại là cơ sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển


10

không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà
các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính
chất... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là
quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con
người. Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng,
kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan
hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng
thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu được vào
hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó
mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung
và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch
sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con
người. Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền
tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt
động này càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát
triển theo. Ăngghen đã nhận định rằng: "Trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720].
Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ
động nhận thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực
khách quan quy định; nhưng chính hoạt động thực tiễn của con người lại là
cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy, thực tiễn

cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận cho
tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục
của tư duy con người.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư
duy luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và
nhận thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi
hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy


11

ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì
phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.
Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh
trên cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu
tượng hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất,
quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái
niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện
chứng nhằm đạt đến chân lý.
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự
tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển
các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình
thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ,
ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành
ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn
đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của
nhận thức đó.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động

thực tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm
tra sự đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ
cho thực tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức
để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau,
với những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác
nhau, thì trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức
cao, thấp khác nhau.


12

Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình
biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư
duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn
xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy
con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện
cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo
bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Lênin
khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những
cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết.
Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức hoạt động
của con người cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ
tư duy và năng lực tư duy mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi
hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ
như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm có đối
tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian thời gian với sự
thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm
mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản
ánh các hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Tư duy lý luận có đối tượng

là những khách thể trừu tượng, những hình ảnh, khái niệm phạm trù. Bởi
thế, tư duy lý luận mang tính chất tác động gián tiếp đối với khách thể hiện
thực, nặng về sự định hướng. Ở trình độ phản ánh thì tư duy lý luận phản ánh
sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu tư duy kinh nghiệm chỉ
mới dừng lại ở việc mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài
của các sự vật hiện tượng thì tư duy lý luận đi sâu phản ánh các thuộc tính,
mối liên hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của chúng. Khác với tư duy
kinh nghiệm, tư duy lý luận có khả năng phê phán rất sâu sắc và triệt để. Tư
duy lý luận cũng có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự


13

phát triển của khoa học cũng như thực tiễn xã hội. Tư duy lý luận cũng
chính là biểu hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy lý luận.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: Ý thức, nhận thức,
tư duy là những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là
sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi
những quy luật sinh học và xã hội trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò
quyết định. Nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất.
Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần
thấy rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó
là phạm trù đối lập với vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư
duy là trình độ cao của nhận thức. Như thế, nhận thức, tư duy đều là quá
trình hoạt động để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc hoạt động
nhận thức nhưng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá
trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động
thực tiễn. Nói đến tư duy lý luận là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa,
trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất,

tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến nó
Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng
của nhận thức luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản
chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu
sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn về khái niệm
năng lực tư duy, có ý kiến cho rằng, "năng lực tư duy là tổng hợp những
phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành
động sáng tạo của con người". Năng lực đó "được biểu hiện ở khuynh
hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả
hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình


14

độ khác nhau của năng lực tư duy" [34, tr. 26]. Trong quan điểm trên, vấn
đề trung tâm, bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí
tuệ và trên cơ sở phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo.
Tác giả Hồ Bá Thâm trong sách "Nâng cao năng lực tư duy cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã" xem năng lực tư duy là "khả năng hiển thị tri
thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức
tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn
các quy luật đó trong cuộc sống. Khả năng ấy được cụ thể: "Năng lực tư
duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát
hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri
thức và vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang
lại những kết quả nhất định" [66, tr. 13-15]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba
yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực
cảm giác đó là: a) Năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn

ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; b) Năng lực trừu
tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; c) Năng lực tưởng
tượng suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong
nhận thức và hành động.
Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở
trình độ cao, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có
tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng
mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình
hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau và phải
tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích,
tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt
động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết
hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến hành
trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương
pháp tuy có nội dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với


15

các phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để phương
pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc
tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái
riêng v.v...
Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách
thức đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư
duy. Như vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh
của mỗi phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một
trật tự lôgic phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán
đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai

trò quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể
hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức
tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các
khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để
có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy
bao gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình
thức tư duy và khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương
pháp, mỗi hình thức tư duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó
cho phù hợp với tính quy định khách quan của các đối tượng nhận thức.
Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần
nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây
dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy
thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét
theo cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư
duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận khác
với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư


16

duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong
tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy
khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so
sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang
tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy
luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức
mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương
hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả
cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập

tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng
hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm
trù dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy.
Trình độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và
tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát
hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng
lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận
giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện
năng lực tư duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả
năng hoạt động nhạy bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả
năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa
học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương
đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình
độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt
đến trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng
cao năng lực tư duy lý luận. Từ những phân tích ở trên có thể xem, năng
lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng
yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở
trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực


17

góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người.
Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác
nhau. Ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát
triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch
sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác

nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi
các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.
Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh,
di truyền của từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ
trước di truyền lại như cấu tạo của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này
đóng vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng
trực giác, nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ
nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh di
truyền mới chỉ là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát
triển, rèn luyện thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph.
Ăngghen đã viết: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng
năng lực của người ta mà có thôi" [40, tr. 487].
Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện
một cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực
tiếp, đóng vai trò quyết định đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức,
trí tuệ là điều kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình về
mọi mặt. Để đạt được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, không có con
đường nào khác ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự
đào tạo. Quá trình này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri
thức mà còn là những phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện
hơn. Đó chính là nền tảng, là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy,


18

rèn luyện năng lực tư duy nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí
tuệ thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận.
Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của
xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người.
Sự phát triển về năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những

điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học
tập, rèn luyện và công tác của mỗi người. C. Mác đã chỉ rõ, "con người là
sản phẩm của hoàn cảnh", hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản
sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh
của tồn tại xã hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp đã góp phần hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng
thụ động, trông chờ, ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình thành được
phong cách tư duy năng động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con
người đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt
được. Thật vậy, năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự
phát triển của bản thân khoa học và trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn
hóa với sức mạnh cuốn hút của cái chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển các tư chất đặc thù của mỗi người, mở rộng, khơi sâu
thêm nền tảng tâm - sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn của con người.
Cùng với sự phát triển của khoa học, năng lực tư duy lý luận cũng có quá
trình phát sinh, phát triển của mình; nó không phải là một cái gì vĩnh viễn,
sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự phát triển của năng lực tư
duy lý luận, Ăngghen nhận xét: "Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng
có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch sử mang những hình
thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung
rất khác nhau" [40, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với mỗi giai đoạn
khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng có
những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa


19

học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự phát triển
nhanh chóng các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa học. Vì vậy,

nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình độ tri thức
khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp tư duy
biện chứng.
Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến
năng lực tư duy lý luận của con người. Ăngghen đã chỉ rõ, "chính việc
người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính
cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con
người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học
cải biến tự nhiên" [40, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt
đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động
thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện
thực khách quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng
lực của con người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực
tiễn luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy
nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành
những phương thức, nội dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc
phát hiện và giải quyết các vấn đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế,
trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực tư
duy lý luận nói riêng được phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn năng
lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng xác lập tri thức và đối tượng hóa tri
thức của con người mới được hình thành và cũng thông qua đó mà những
năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển.
Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ,
động cơ cho mọi hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện
để hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt


20


động của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định nào đó về vật
chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Hêghen đã viết: "Những
lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân [28, tr. 98]. Như
vậy cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích.
Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý
thức, động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng
lực tư duy lý luận. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt động,
học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó
có thể rèn luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có được năng
lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ không trong sáng thì
cũng chỉ là "người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng".
Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác
động đến năng lực tư duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy
cùng tác động đến năng lực tư duy lý luận theo một chiều tích cực sẽ có tác
dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng hơn. Ngược lại, sự tác
động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho năng lực
tư duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các
yếu tố đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với
năng lực tư duy. Trong đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của
khoa học và thực tiễn xã hội là điều kiện cần thiết; quá trình giáo dục, đào
tạo đóng vai trò chủ đạo; quá trình tự giáo dục rèn luyện để có được động
cơ trong sáng là yếu tố mang tính quyết định trực tiếp đến việc phát triển
năng lực tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của
con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do
công tác, do luyện tập mà có. Như vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát
triển của khoa học, quá trình học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý
luận là cơ sở chủ yếu của năng lực tư duy lý luận.



21

Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển
của khoa học và thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không
ngừng của khoa học và thực tiễn, do nhu cầu khách quan của sự tồn tại và
phát triển của con người, năng lực tư duy lý luận cũng luôn trong quá trình
phát sinh, phát triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn. V.I. Lênin đã
viết: "Trí tuệ con người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ
tìm thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của
mình với tự nhiên" [29, tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá
trình tự phát mà là quá trình con người tự giác rèn luyện, học tập nâng cao
năng lực tư duy, tự giác tham gia tích cực vào hoạt động thực tiễn nhằm
trau dồi, phát triển khả năng xác lập những tri thức phù hợp với tính quy
luật khách quan của sự vật, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả
năng "đối tượng hóa" những tri thức của loài người vào hoạt động thực tiễn.
Chính vì thế mà ý tưởng nâng cao năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm
nắm bắt bản chất sâu xa của sự vật, biến chúng thành tri thức lý luận trên cơ
sở đó mà hình thành được các cách thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động
thực tiễn.
1.2. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VỚI HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO
CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT CẤP TỈNH

1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt
cấp tỉnh
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng
đầu, phụ trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ
định. Cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ
trương, quyết định, trước hết là những quyết định có tính chiến lược về đơn
vị mình. Cán bộ lãnh đạo là người có quyền lực, ra những quyết định có
tính chất quan trọng nhất. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt,

tổ chức phong trào theo một hướng đi cụ thể; là người điều hành, chỉ đạo


22

bằng quyền hành qua các mệnh lệnh. Cán bộ lãnh đạo còn là người điều
chỉnh những quyết định cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện, hoàn
cảnh khách quan.
Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động định hướng, sự điều
hành, điều chỉnh hoạt động của con người nhằm vươn tới những mục đích
nhất định. Điều đó đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, phải đạt được một trình độ
nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi trình độ đó có tác dụng rất quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh
đạo.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính
chất định hướng của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp
động viên, giáo dục, thuyết phục... nhằm đạt mục đích nhất định. Trong Từ
điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo bằng đề ra đường lối, chủ trương và tổ chức,
động viên thực hiện" [62, tr. 720].
Đối tượng của chủ thể lãnh đạo, quản lý là những con người cụ thể
có tri thức, năng lực, có ý chí, mục đích và những ước vọng riêng nhất
định. Vì thế, đòi hỏi chủ thể lãnh đạo một mặt phải hiểu biết công việc; mặt
khác phải có những hiểu biết nhất định về năng lực, về thể chất, về tâm tư
và ước vọng riêng của các đối tượng lãnh đạo. Từ đó mà tạo điều kiện
thuận lợi cho các đối tượng lãnh đạo làm việc đạt hiệu quả tối đa. Chính vì
thế, hoạt động lãnh đạo nếu được nâng lên trình độ nghệ thuật, khoa học
làm việc với con người, tác động đến con người để hình thành các quan hệ
tốt đẹp giữa họ với nhau và với công việc thì hiệu quả lãnh đạo sẽ cao hơn.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước, có thể diễn đạt các
khâu đó ở hai trình độ; đó là, chủ thể lãnh đạo suy nghĩ, lựa chọn quyết

định và điều hành tổ chức hành động. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực
lãnh đạo là tổ chức hoạt động thực tiễn, còn mặt năng lực tư duy trí tuệ, lý
luận là cái ẩn giấu vào bên trong. Vì vậy, nhà lãnh đạo khác với nhà khoa


23

học. Nhà khoa học hoạt động chính là nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát
hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực hành, ứng dụng.
Người lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao
động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa,
hiện thực hóa lý luận. Nhưng để có thể hiện thực hóa lý luận đòi hỏi họ
phải suy nghĩ, nghiên cứu phát hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ
sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình huống, ra quyết định, tổ chức
thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể hoặc cá nhân.
Ở đây cần phân biệt cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Trong nhiều
trường hợp, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý
trùng lặp nhau. Sự phân loại hai khái niệm này chỉ có tính chất tương đối.
Tuy nhiên, hoạt động lãnh đạo và quản lý có những điểm khác nhau căn
bản về mục tiêu, nội dung, về phương pháp và phương tiện tác động. Nếu
như hoạt động lãnh đạo nhằm mục tiêu định hướng chung, thì mục tiêu của
hoạt động quản lý là tổ chức, sắp xếp, chỉ huy các vấn đề theo một trật tự
nhất định. Do mục tiêu có sự khác nhau, nên nội dung hoạt động lãnh đạo,
quản lý cũng không đồng nhất, dù trong lãnh đạo và quản lý có những khâu
tưởng chừng như có sự trùng lặp. Nội dung lãnh đạo là đề ra chủ trương,
đường lối chung, phương hướng triển khai, thực hiện đường lối, kiểm tra
việc thực hiện và bổ sung, sửa chữa, phát triển đường lối theo yêu cầu của
thực tiễn. Nội dung của quản lý là xây dựng các phương án, các mô hình
với những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể, xây dựng các mối quan hệ giữa các đối
tượng quản lý và giữa đối tượng với chủ thể quản lý một cách hợp lý nhất

để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện. Về phương pháp và phương
tiện tác động, hoạt động lãnh đạo dùng phương pháp động viên thuyết phục
là chính, bằng uy tín và nghệ thuật mà tập trung giáo dục xây dựng niềm
tin, tính tự giác của con người. Quản lý tác động đến đối tượng bằng mệnh
lệnh có tính chất bắt buộc. Song, tùy thuộc vào tính chất của quan hệ giữa


24

cơ quan lãnh đạo với cơ quan quản lý, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và hoạt
động trong cơ quan lãnh đạo và cơ quan quản lý, chủ thể lãnh đạo đồng
thời phải thực hiện cả chức năng quản lý và chủ thể quản lý phải đảm nhận
cả chức năng lãnh đạo.
Như vậy, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có đặc trưng
riêng của nó không nên xóa nhòa ranh giới giữa chúng dẫn đến chồng chéo
công việc. Mặt khác, không nên xem đây là hai hoạt động tách biệt hoàn
toàn. Trong một chừng mực nào đó, chúng đan xen hòa hợp vào nhau bổ
sung cho nhau. Trong đó, lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, đồng
thời là cơ sở, tiền đề cho quản lý. Quản lý nhằm hiện thực hóa đường lối
lãnh đạo và giúp cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả hơn.
Từ đó có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có trình độ lý
luận và am hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng
là người vận dụng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào những
lĩnh vực cụ thể, biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối
với người lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn là rất quan trọng. Đồng thời
họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ nghiên
cứu thực tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực
tiễn, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt
động thực tiễn.
Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở

các cấp; nhưng có sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực
hoạt động.
Ở nước ta, cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị được chia thành bốn cấp
là: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã
và xã, phường, thị trấn. Trong đó tỉnh là một đơn vị hành chính độc lập. Trong
số 61 tỉnh thành trong cả nước hiện nay thì tỉnh chiếm tỷ lệ đa số. Có thể


25

nói tỉnh là khâu trung gian, là gạch nối giữa Trung ương và địa phương.
Đối với Việt Nam, ở thời kỳ này, hoạt động ở cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Bởi thế, vai trò lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đến chất lượng triển
khai các nghị quyết của Trung ương xuống cơ sở. Nghị quyết của Đảng,
chính sách của Nhà nước có triển khai được ở cấp quận, huyện hay không
là tùy thuộc vào sự lãnh đạo của đội ngũ này. Mặt khác, tỉnh là khâu đầu tiên
tổng kết thực tiễn có quy mô nhằm phát hiện những vấn đề nảy sinh để Trung
ương nghiên cứu; bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương mới cho phù
hợp thực tiễn.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là những người thuộc ban
chấp hành tỉnh đảng bộ, họ giữ các cương vị chủ chốt ở cấp tỉnh và cấp
huyện.
Hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đòi hỏi phải
ra được những văn bản, quyết định đúng đắn nhằm chỉ đạo kịp thời các lĩnh
vực phát triển theo đúng đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với địa phương.
Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, một mặt phải
nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; mặt khác, phải tường tận tình hình thực tế của địa phương về mọi
mặt và xu hướng vận động của tình hình đó. Đồng thời, họ còn phải biết

huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể, của quần chúng. Đó chính là những
điều kiện để người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh xây dựng được các quyết
định, các chương trình, kế hoạch vừa phù hợp với thực tiễn địa phương vừa
là sự cụ thể hóa sinh động, sáng tạo chủ trương đường lối, chính sách của
Trung ương. Những quyết định, chương trình, kế hoạch hóa vừa mang tính
khái quát chung, phản ánh mọi mặt đời sống xã hội của toàn tỉnh, vừa mang
tính chất chỉ đạo cụ thể đối với mỗi lĩnh vực, mỗi địa bàn thuộc tỉnh.


×