Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NHÂN tố CHỦ QUAN với VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ bản sắc văn hóa dân tộc MƯỜNG ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.44 KB, 99 trang )

6

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta có 54 thành phần dân tộc cùng cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng
của mình được kết tinh với hàng ngàn năm văn hiến. Bản sắc dân tộc được thể hiện trong
hệ giá trị văn hóa của dân tộc. Cùng với dòng chảy của thời gian và những biến động của
lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cùng vận động, biến đổi theo những quy luật nhất định,
vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa có sự đan xen những yếu tố mới
và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi dân tộc và góp phần tạo nên âm
hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, đã tạo điều
kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống
và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm giàu thêm bản
sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, vận hội của sự phát
triển là nguy cơ phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa. Hơn
nữa các thế lực thù địch vẫn tiến hành âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt là trên mặt trận
văn hóa - tư tưởng, chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy khẳng định hệ
giá trị văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự vừa lâu dài đối với đất
nước ta. Đây là vấn đề không mới, rất nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước
đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân
tộc đặc biệt là vùng văn hóa các dân tộc thiểu số. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương năm, khóa VIII. Đảng chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính
sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ dân số đông thứ 4 sau các
dân tộc Kinh, Tày, Thái, họ cư trú trên vùng địa bàn đồi núi thấp thuộc các tỉnh Hòa Bình,
Thanh Hóa, Hà Tây... Đặc biệt với kiểu địa bàn trung du và miền núi như tỉnh Phú Thọ,
phù hợp với phong tục tập quán canh tác, phát triển nghề thủ công của người Mường. Sự
phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của người Mường ở


đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú như lễ hội, trang phục, thơ, ca,
tín ngưỡng... đậm tính triết lý nhân sinh. Trước sự tác động và biến đổi của thế giới, đã có
không ít những giá trị văn hóa truyền thống của người Mường chỉ còn tồn tại trong ký ức
của những người già. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mai một, biến thái, đứt gãy,


7

những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số, có nguyên nhân sâu xa nằm trong chính
bản thân những con người, những tầng lớp kế thừa văn hóa của dân tộc ấy. Cho nên, việc
giáo dục ý thức, thái độ tự vươn lên giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa của mỗi tộc người
là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay" cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là vấn đề
mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu với tầm cỡ, quy mô và khía cạnh
khác nhau.
- Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học như: Vũ Thị Kim Dung, Cách tiếp
cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí Triết học, số 1/1998; Vũ Đức
Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa
dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Nguyễn Huy Hoàng, Văn hóa trong nhận thức duy
vật lịch sử của Các Mác, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết học
văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002.
- Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển như: Chương
trình nghiên cứu cấp nhà nước KX.06, "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã
hội"; Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1993; Phạm Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994; Phạm Xuân Nam, " Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998; Nguyễn Hồng Sơn, "Quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển xã hội trong

quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ, 1995.
- Các công trình bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trường như: Hồ
Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999; Đặng Hữu Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999.
- Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
thiểu số Việt Nam như: Trần Ngọc Thêm, "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh; Đỗ Huy - Trường Lưu, "Bản sắc dân tộc của văn hóa", Viện Văn hóa,
1990; Huy Cận, "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Ngô Văn Lệ, "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998; Nguyễn Từ Chi, "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Dân
tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003; Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa các


8

dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004; Phan Hữu Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004.
Những bài viết và công trình nghiên cứu về văn hoá Mường ở Phú Thọ có liên quan
trực tiếp đến luận văn như: Nguyễn Dương Bình, “Một vài nét về tình hình xã hội vùng
Mường tỉnh Vĩnh Phú trước cách mạng tháng 8”, Dân tộc học, số 4/ 1974; Lê Tượng,
“Những yếu tố văn hoá cổ Việt Mường trên đất Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 3/ 1975;
Nguyễn Ngọc Thanh, Gia đình và hôn nhân của người Mường ở Tỉnh Phú Thọ, Luận án
tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 1999; Hà Văn Linh, Tổ chức xã hội cổ
truyền và những biến đổi của nó ở người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ, Luận án tiến sỹ
khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 2005.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu thì trong các văn kiện của Đảng cũng nêu rõ
vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện
nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề: "Nhân tố chủ quan với

việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phụ Thọ hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường, những yêu cầu cấp
thiết của việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người nói chung và dân tộc
Mường nói riêng, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhân
tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan điểm mác xít về chủ quan; nhân tố chủ quan; văn hóa; bản sắc văn
hóa; bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.
- Chỉ ra vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
- Trình bày những điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hóa Mường; chỉ rõ nét đặc
thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ.
- Tìm hiểu thực trạng và những yêu cầu cấp bách của việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Nêu một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay.


9

4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, bao hàm cả văn hoá vật chất và văn hoá
tinh thần; Phú Thọ là tỉnh có hơn 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đa dạng các sắc
thái văn hoá ấy, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của nhân tố chủ quan với
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn
hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các công trình nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố, có nội dung liên quan tới vấn đề mà luận
văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp nhuần nhuyền các
phương pháp: Lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; điều tra - so
sánh... nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần điều tra, nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa dân tộc
Mường ở Phú Thọ, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở
Phú Thọ hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho công tác văn hóa tư tưởng của tỉnh Phú
Thọ và làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên ngành: Triết học, Văn hóa...
ở các trường chính trị tỉnh hoặc các trường đại học, cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết.


10

Chương1
NHÂN TỐ CHỦ QUAN
VỚI VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC

1.1. Nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan và bản sắc văn hoá
dân tộc.
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”, “điều kiện khách quan”.
“Nhân tố chủ quan” và “điều kiện khách quan” là những khái niệm được
hình thành và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của
con người. Đây là những khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo giới tự nhiên của con người. Trong quá
trình hoạt động, tác động và cải tạo giới tự nhiên; con người vừa là sản phẩm,
vừa là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Do vậy, việc xác định cái gì là ĐKKQ, cái gì
là NTCQ chỉ mang tính chất tương đối, và nhất thiết phải tìm hiểu các khái
niệm liên quan tới hoạt động của con người, như khái niệm “chủ thể”, “khách
thể”, “chủ quan”, “khách quan”.
** Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa rất nhiều cách hiểu
và định nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
Có quan điểm cho rằng: “Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến
hành hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn” [65, tr.92].
Hoặc: “Chủ thể là con người có ý thức, ý chí, và đối lập với khách thể
bên ngoài” [66, tr.192].
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người hành
động, với đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách
thể (tự nhiên, xã hội) và chỉ trong quá trình nhận thức, cải tạo giới tự nhiên và
cải tạo đời sống xã hội thì con người mới bộc lộ mình với tư cách là chủ thể
của lịch sử. Khi nói tới khái niệm “chủ thể”, V.I.Lênin viết:


11

“Khái niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình,
tự cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách

quan và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình” [29, tr.288].
Từ các quan niệm đã nêu ở trên, có thể hiểu: Chủ thể - đó là con người
với những cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đã và đang thực hiện
một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể”như vậy thì chỉ có thể quan niệm:
Khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải
tạo nó.
Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều là khách thể mà chỉ
có những hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức và cải tạo
mới trở thành khách thể; tuỳ mức độ xác định chủ thể nhận thức, cải tạo thế
giới khách quan là ai mới có thể xác định được khách thể tương ứng. Khách
thể có thể là những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên, cũng có thể là
những gì do con người tạo ra nhờ hoạt động lao động sản xuất vật chất, là
những yếu tố xã hội, những quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị - xã hội v.v…
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn
nhau, mặt này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành chủ
thể khi hoạt động tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan
ấy thành khách thể của quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Chủ thể nhận
thức và cải tạo một cách chủ động sáng tạo khách thể theo mục đích của
mình; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ thể. Bởi lẽ, khách
thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy luật vốn có
của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận
động của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích
cực.
** Về khái niệm: “cái chủ quan”, “cái khách quan”.
Đây là hai khái niệm nói lên những thuộc tính chung của chủ thể và
khách thể được bộc lộ trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người.


12


Những thuộc tính, tính chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chủ
thể là cái chủ quan; những tính chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, không phụ
thuộc vào chủ thể là cái khách quan; nhưng giữa cái khách quan và cái chủ
quan luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn
nhau. Vì vậy, khi nói về khái niệm “cái chủ quan” có học giả cho rằng: “Chủ
quan là ý thức của chủ thể” [29, tr.92]. Hoặc: “Chủ quan là những gì thuộc về
chỉ đạo hoạt động của chủ thể” [48, tr.192].
Chúng tôi đồng ý kiến với quan điểm thứ 2. Tuy nhiên, khi xem xét toàn
bộ hoạt động của con người và những sản phẩm của hoạt động đó thì thấy
rằng: chúng bao giờ cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan; nhưng
không thể coi tất cả những cái mang dấu ấn chủ quan (nhất là những dấu ấn
thuộc những sản phẩm nằm ngoài chủ thể) là thuộc về cái chủ quan. Hơn nữa,
cái chủ quan cũng không đơn thuần chỉ là ý thức như một số học giả quan
niệm, mà cái chủ quan còn bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh thần như: tri
thức, tình cảm, ý chí v.v…của con người, và chính cả bản thân hoạt động của
họ. Như vậy, có thể nói: cái chủ quan là tất cả những gì thuộc về chủ thể và
phụ thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể và
biến đổi nó theo mục đích của mình không phải lúc nào chủ thể hoạt động
cũng dùng tất cả những năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mình, mà có
thể chỉ huy động một phần, một bộ phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan
trong quá trình tương tác với khách thể, cái đó gọi là nhân tố chủ quan.
Nói cách khác, nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể, tham gia
trực tiếp vào quá trình hoạt động của chủ thể, cũng như bản thân hoạt động
đó.
Do vậy, sẽ là sai lầm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với tất cả các yếu
tố tạo thành cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của
chủ thể. Vì “yếu tố” là khái niệm chỉ các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng,
còn “nhân tố” là khái niệm chỉ cái trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ



13

thể; NTCQ chỉ là một bộ phận của cái chủ quan được chủ thể huy động sử
dụng trực tiếp trong quá trình tác động lên khách thể cụ thể. Cho nên, nếu
đồng nhất nhân tố chủ quan với cái chủ quan, hoặc với ý thức của chủ thể sẽ
là không đầy đủ và không làm rõ được đặc trưng của nhân tố chủ quan như là
những gì thuộc về hoạt động của chủ thể, NTCQ không phải là ý thức nói
chung của chủ thể, mà là ý thức trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chủ thể.
Ngoài các yếu tố của chủ thể như năng lực thể chất, ý thức chỉ đạo và định
hướng hoạt động thực tiễn, thì NTCQ còn bao hàm cả bản thân hoạt động đó
nữa, nếu thiếu hoạt động của con người thì không thể thay đổi hiện thực và
không thể trở thành NTCQ. Đề cập đến vấn đề này, C.Mác viết:
“Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện
được tư tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [37,
tr.12].
Khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm nhân tố con
người. Nhân tố con người là tất cả những gì thuộc về con người (mọi mặt của
con người) trong hoạt động cải tạo thế giới (tự nhiên, xã hội và cả bản thân
con người). NTCQ có phạm vi xem xét hẹp hơn nhân tố con người, vì nó chỉ
thể hiện vai trò của chủ thể trong một hoạt động xác định.
Các nguyên lý triết học mác xít chỉ rõ con người vừa là sản phẩm của
hoàn cảnh nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt
trong mối quan hệ chung nhất, đối diện với tự nhiên chúng ta có khái niệm
con người. Khi đặt con người trong trạng thái tích cực hoạt động trước một
đối tượng cần nhận thức và cải tạo theo mục đích nhất định, lúc đó có khái
niệm chủ thể và đối lập với nó là khái niệm khách thể.
Về phạm trù cái khách quan, cũng có rất nhiều cách hiểu và quan điểm
khác nhau, có ý kiến quy phạm trù khách quan về phạm trù vật chất, có ý kiến

cho rằng cái khách quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trên thực tế, muốn
khẳng định cái gì là khách quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể. Không thể đồng nhất cái khách quan với hiện thực khách quan hay


14

thế giới vật chất, vì chỉ có những hiện tượng ý thức tồn tại bên ngoài ý thức
và ý chí của chủ thể, bị chủ thể tác động biến đổi, thì ý thức ấy đóng vai trò là
khách thể.
Như vậy: Cái khách quan là tất cả những gì tồn tại ngoài chủ thể và
không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần.
Nhưng trong hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái khách
quan đều đóng vai trò là khách thể, mà chỉ có một bộ phận của cái khách quan
tham gia vào hoạt động của chủ thể, trở thành khách thể chịu tác động của chủ
thể trong một thời điểm, hoàn cảnh nhất định. Một bộ phận ấy (có thể là
những yếu tố vật chất như: môi trường tự nhiên, là quan hệ chính trị- xã hội,
hoặc là yếu tố tinh thần như: ý thức xã hội lạc hậu cần cải tạo…). Đó chính là
điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra rất nhiều cách tiếp
cận khác nhau như: “Là những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực…”, “Là
một phần của cái khách quan…”, nhưng tất cả những quan điểm đó đều thống
nhất cơ bản ở một điểm, đó là: “tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của
chủ thể và chi phối hoạt động của chủ thể” [dẫn theo 60, tr.12].
Có thể nói: ĐKKQ là tổng thể những mặt, những nhân tố tạo nên hoàn
cảnh hiện thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những
thời điểm nhất định.
ĐKKQ luôn mang tính cụ thể, bao gồm: những yếu tố vật chất, tinh thần,
những quy luật khách quan, những khả năng khách quan (khả năng tiềm ẩn có

thể sảy ra trong tương lai). Những yếu tố ấy sẽ là những điều kiện cụ thể tạo
nên hoàn cảnh, môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chủ thể tại
một thời điểm lịch sử nhất định, nó quyết định hoạt động của chủ thể, vì
những hoạt động của chủ thể chỉ được thực hiện trong những điều kiện nhất
định. Việc lựa chọn nắm bắt hoàn cảnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn của chủ thể.


15

** Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trò của NTCQ.
Phương pháp luận mác xít luôn khẳng định: ĐKKQ đóng vai trò quan
trọng và quy định NTCQ. Tính quy định của ĐKKQ đối với NTCQ được thể
hiện ở chỗ: trong hoạt động thực tiễn, những dự định mà con người đặt ra
phải dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, nếu chỉ căn cứ vào ý muốn chủ
quan, thoát ly cơ sở hiện thực thì hoạt động của con người sẽ không thể thành
công.
“Thật ra mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và
lấy thế giới khách quan làm tiền đề” [29, tr.201].
ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối,
quy định phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt
động của chủ thể phải phù hợp với thực tiễn khách quan.
ĐKKQ quy định sự phát triển của nhân tố khách quan, những phẩm chất,
yếu tố của chủ thể phải tương ứng với ĐKKQ mà trong đó chủ thể hoạt động,
khi ĐKKQ thay đổi thì NTCQ cũng phải thay đổi cho phù hợp với ĐKKQ
mới.
Thứ hai, NTCQ có vai trò tác động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ.
NTCQ là những gì thuộc về chủ thể, cho nên NTCQ tuy bị ĐKKQ quy
định nhưng nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính

độc lập tương đối so với ĐKKQ. Vai trò tích cực sáng tạo của NTCQ thể hiện
ở chỗ: Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của
mình để tìm hiểu, nhận thức quy luật vận động của cái khách quan, khi cả hai
tương thích sẽ tạo nên sự chuyển hoá khả năng thành hiện thực.
Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn
những khả năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mình vừa
không đi ngược lại tiến trình phát triển của lịch sử. Các quy luật khách quan
vận động đan xen nhau, nhưng chủ thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở
những nhận thức đúng, phù hợp của mình để điều chỉnh hình thức, trật tự tác


16

động của quy luật khách quan, có thể tạo ra những yếu tố làm xuất hiện
những quy luật khách quan mới.
Trong quá trình tác động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng
thời tự nâng cao khả năng nhận thức của mình trong quá trình biến đổi thế
giới khách quan. Tuy nhiên, NTCQ có vai trò to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến
thế nào thì trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề vẫn phải xuất phát từ
thực tế khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản
thân chủ thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế giới khách quan, có nguồn
gốc từ thế giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao động, và phát
triển của chủ thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới khách
quan - Mọi sự cố gắng của chủ thể trong quá trình phản ánh, nhận thức và cải
tạo thế giới cũng là để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu
sống của chính mình (cả vật chất lẫn tinh thần).
Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thì
ĐKKQ là tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ
chức hoạt động thực tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh
khách quan mà luôn lấy ĐKKQ là điểm xuất phát, tôn trọng và hành động

theo quy luật khách quan. Phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo
ra những tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện thực, làm chủ cái
khách quan, biến tính tất yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng
tạo của mình. Tính biện chứng trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ còn
thể hiện ở chỗ: để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thì bắt
buộc NTCQ phải vận động, phát triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng
cao nhận thức, khả năng vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mình cho
phù hợp với những quy luật vốn có của thế giới khách quan. Bất cứ một sự
tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí nào cũng sẽ dẫn tới những hành động vi phạm
quy luật khách quan, kìm hãm sự phát triển của tự nhiên, xã hội, con người và
của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động ấy.


17

Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm
nên lịch sử đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự
nhiên để đáp ứng và thoả mãn những nhu cầu tồn tại của mình. Từ hoạt động
lao động cải tạo thế giới tự nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội loài người được thiết lập, các quan hệ xã hội
của loài người được hình thành (tự nhiên và khách quan). Cùng với tự nhiên,
giống như tự nhiên, xã hội loài người cũng không ngừng vận động và phát
triển theo những quy luật nhất định. Trong quá trình đó, cái khách quan và cái
chủ quan, những ĐKKQ và NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất, biện chứng; trong đó ĐKKQ bao giờ cũng có vai trò quy định đối
với NTCQ. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong quá trình hoạt động lao động của
con người, chỉ khi nào những quan hệ vật chất cần thiết đã phát triển chín
muồi, hoặc ít ra cũng đang trong quá trình hình thành, thì khi đó NTCQ mới
có cơ sở khách quan để biến những khả năng thành hiện thực, công cuộc cải
biến xã hội mới thành công.

Khi phân tích tình thế cách mạng ở Nga năm 1917, so sánh tình hình
cách mạng ở Nga khi đó với những tình thế cách mạng trước đó cả ở Nga, ở
Đức, và tất cả các thời kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đã
khẳng định: Cũng là những ĐKKQ giống như thế, cũng là sự khủng hoảng
chính trị của tầng lớp trên cùng, quần chúng nhân dân bị áp bức nặng nề, cũng
là ý thức muốn vùng lên làm một cuộc cải biến xã hội… Nhưng các cuộc cách
mạng trước đó không thể nổ ra là vì thiếu đi sự chín muồi của NTCQ, của giai
cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả năng phát động, tổ chức, tập hợp quần
chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của các giai cấp bị trị trong cuộc đấu
tranh cách mạng ấy [28, tr. 268].
Và như vậy, theo V.I.Lênin, nếu không xuất hiện các tình thế cách mạng
(ĐKKQ), hoặc nếu không có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng thì
tình thế cách mạng (ĐKKQ) chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là
hiện thực.


18

Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phát (tự nó) hình
thành, mà có lúc các ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các
hoạt động tích cực của con người. Sự năng động chủ quan của con người phải
được đo bằng hiệu quả vật chất chứ không chỉ là trong lý luận hay tư duy.
Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa
NTCQ và ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trò NTCQ không thể tách rời những
ĐKKQ đang có, không thể hoạt động một cách tuỳ tiện trước quy luật của
TN, của XH. Đó phải là sự biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ
năng lực, phẩm chất, đạo đức…đến khả năng thiết kế, tổ chức hoạt động thực
tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy được kinh tế – xã hội phát triển, mới cải tạo thế
giới khách quan thành công, mới ngày một nâng cao hơn chất lượng cuộc
sống cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần, con người (chủ thể hành

động) ngày càng hoàn thiện bản thân mình, trang bị cho mình đầy đủ các điều
kiện để vươn tới cuộc sống đậm chất người hơn.
1.1.2. Văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc.
Văn hóa - Cho đến nay, không phải tất cả mọi người đã đồng ý với nhau
về định nghĩa. Từ cổ chí kim, trong lịch sử loài người, xuất phát từ cách tiếp
cận và nhận thức khác nhau mà hình thành các định nghĩa về văn hoá. Năm
1952, các nhà dân tộc học người Mỹ đã thống kê được hơn 300 định nghĩa mà
các tác giả thuộc nhiều nước khác nhau đã phát biểu về văn hoá, các định
nghĩa ấy đã khai thác vấn đề văn hoá dưới từng góc độ, từng mặt khác nhau,
nhưng ở khía cạnh nào đó cũng có sự thống nhất hoặc bổ sung cho nhau trong
sự nhận thức về văn hoá.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn nhận văn hoá như là một sản phẩm của
lịch sử, là sản phẩm của quá trình lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ
người. Do vậy, trình độ phát triển của văn hoá phụ thuộc vào trình độ nhận
thức và sức sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn của
họ. Nếu tách văn hoá ra khỏi đời sống của con người và xã hội loài người thì
văn hoá chẳng còn ý nghĩa gì cả. C.Mác cho rằng: “con người sản xuất” là


19

một “thực thể song trùng” thống nhất giữa “cái tự nhiên và cái xã hội”. Trong
đó, yếu tố tự nhiên được cấu tạo như một sinh vật và nó vận động theo quy
luật sinh học [36, tr.9]. Nhưng điểm khác biệt giữa con người với động vật là
ở chỗ con người mang bản chất xã hội. Bản chất của con người thể hiện ra
trong mối quan hệ giữa mỗi người với người khác, giữa mỗi người với cộng
đồng xã hội và thể hiện trong kết cấu xã hội hiện thực, ở một không gian, thời
gian xác định. Trong luận cương về Phơbách, C.Mác viết:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội” [38, tr.11].

Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Nhưng con người
không bị hoà tan hay lệ thuộc vào giới tự nhiên mà ngày càng tách mình ra
khỏi giới tự nhiên và rồi quay lại giới tự nhiên, cải tạo nó, làm cho nó trở
thành giới tự nhiên thứ hai, giới tự nhiên của chính mình, đồng thời qua đó cải
biến chính bản thân mình - Đó chính là văn hoá. C.Mác viết:
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất…Nhưng súc vật sản xuất cái mà
bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến
diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản
xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất
ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu
cầu đó ràng buộc thì con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của
từ đó; Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên [40, tr.137].
Con người là một thực thể có ý thức, sống, hoạt động trên cơ sở hiểu rõ
bản thân, hiểu rõ đối tượng định tác động, từ đó tự chịu trách nhiệm về mục
tiêu, thái độ, hành vi, phương hướng tác động đến đối tượng. Sự tự ý thức của
con người được thể hiện rõ nét trong đời sống tinh thần, trong sáng tạo nghệ
thuật, họ sản xuất và xây dựng “theo các quy luật cái đẹp” [40, tr.137], điều
đó thể hiện rõ đầu óc chiến lược, năng lực phân tích, tổng kết, dự báo, gắn với
tầm nhìn và nhãn quan văn hoá của chủ thể hành động.


20

Trong thế giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với
tư cách là chủ thể của bản thân mình, làm chủ giới tự nhiên, hoà vào giới tự
nhiên nguyên sơ, để tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa mãn những
nhu cầu, ham muốn chinh phục tự nhiên, xã hội …của bản thân con người Đó là văn hoá. C.Mác cho rằng, xét đến cùng, văn hoá có nguồn gốc từ lao
động. Bởi lẽ, mọi hoạt động sáng tạo của con người nhằm cải biến tự nhiên và
xã hội đều bắt đầu từ lao động. Chính lao động đã sáng tạo ra con người và xã

hội loài người, làm cho con người ngày càng thoát ra khỏi bản năng động vật,
tiến dần đến trình độ trưởng thành về nhân cách, trình độ trưởng thành về văn
hoá của mỗi cá nhân.
Trong quá trình lao động, con người đã in dấu mình vào trong từng khâu,
từng yếu tố, từng mặt, từng bộ phận…của thành quả lao động, làm cho tự
nhiên tự hiện hình trong hoạt động của con người.
C.Mác viết: “…Bằng thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm
cho “tồn tại” của mình phù hợp với bản chất của mình” [40, tr.507].
Như vậy, theo C.Mác, văn hoá được hình thành và phát triển trên cơ sở
sự hình thành và phát triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển
này chính là mức độ hình thành và phát triển bản chất người trong quá trình
con người chinh phục và biến đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa con người
với cộng đồng, mà bao trùm là quan hệ giữa đời sống tinh thần và không gian
sống vật chất của con người và của xã hội loài người. Nếu môi trường đầu
tiên cho con người sự hình thành và phát triển, quyết định sự tồn tại của con
người là sản xuất vật chất, thì môi trường thứ hai cho con người bộc lộ, phát
huy những năng lực và bản chất người trong các hoạt động sống, đó chính là
sản xuất văn hoá.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hoá khá rộng và bao quát. Từ cách tiếp
cận hình thái kinh tế - xã hội, V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn hoá
gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, mỗi một hình thái
kinh tế - xã hội có một nền văn hoá tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch


21

sử), khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi, thì nền văn hoá tương ứng với nó
cũng có sự thay đổi nhất định. Đây không có nghĩa là sự đứt đoạn hay đoạn
tuyệt với các giá trị văn hoá truyền thống, mà trong quá trình chuyển hoá, nền
văn hoá mới luôn kế thừa những di sản, thành tựu của nền văn hoá trước đó,

đồng thời bổ xung những yếu tố mới phù hợp với những đặc điểm và quan hệ
của hình thái kinh tế – xã hội mới. V.I.Lênin khẳng định: Ở đâu có hoạt động
của con người thì ở đó có văn hoá và văn hoá không chỉ dừng lại ở văn hoá
tinh thần mà còn bao hàm cả văn hoá vật chất. Người coi văn hoá là phương
tiện quan trọng nhất trong tất cả các loại hình hoạt động của con người và là
kết quả của quá trình hoạt động đó. Vì vậy, trong quá trình xây dựng nền văn
hoá mới, V.I.Lênin nhấn mạnh nguyên tắc tính đảng, tính nhân dân, tính dân
tộc, tính nhân loại trong văn hoá, cách mạng văn hoá, trước hết là cách mạng
trong trí tuệ, trong ý thức của quần chúng. Người khẳng định: hoạt động văn
hoá và sản phẩm văn hoá phải là “của” nhân dân, chứ không phải “cho” nhân
dân. Người viết: “Chủ nghĩa xã hội được xây dựng không phải bằng mệnh
lệnh từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà nước quan liêu; Chủ nghĩa
xã hội sinh động, sáng tạo, tức là sáng tạo của chính quần chúng” [27, tr.464].
Sáng kiến của Người đã khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của
quần chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản
- cách mạng văn hoá. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và
xã hội loài người khỏi những áp bức bất công cả trong lao động cũng như
trong mọi hoạt động sáng tạo của họ.
Theo V.I. Lênin, muốn xây dựng một nền văn hoá mới, nền văn hoá vô
sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế
thừa có phê phán các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát
triển nó lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hoá và bản chất người.
Người nói rằng:
Nền văn hoá vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không
phải là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa


22

đặt ra… văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến

thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội Tư bản, địa chủ
và của xã hội quan liêu [27, tr.402].
Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công CNXH, CNCS thì
con người mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trình độ làm
chủ của mình trước tự nhiên, xã hội và ngay cả trước bản thân mình. Từ đó,
con người và xã hội loài người mới có điều kiện xây dựng và phát triển sự
công bằng, bình đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu chí: chân, thiện, mỹ…mới
được xác lập và hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của con người mới có đầy đủ
điều kiện đạt tới trình độ nhân văn đích thực.
Cũng như các bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác, quan niệm về văn hoá của
nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh cũng rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước,
từ truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhìn bao
quát, Người đưa ra khái niệm về văn hoá như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [41,
tr.431].
Quan điểm trên của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của
phạm trù văn hoá. Chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần
của con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người
cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của
con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện
sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người, biểu hiện
khả năng và sức sáng tạo của con người. Nghĩa văn hoá mà nhà văn hoá lớn



23

Hồ Chí Minh đề cập được trải rộng trên cả hai lĩnh vực văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần, nhưng việc phân định hai lĩnh vực văn hoá như trên chỉ có
tính chất tương đối, vì trên thực tế mỗi kết quả của hoạt động lao động của
con người đều bao hàm trong đó cả hai giá trị vật chất và tinh thần.
Là ngưòi anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hoá thế giới.
Trong hoạt động văn hoá Hồ Chí Minh rất chú ý đến con người. Trong hành
động cách mạng cũng như trong đối nhân xử thế Người luôn hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân,
Người biến tình cảm đó thành phương châm sống của chính mình một cách
rất tự nhiên, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi còn hoạt động ở Pháp người đã kịch liệt
lên án chính sách ngu dân của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước
thuộc địa; để thực hiện mong muốn của mình, ngay sau khi nước nhà giành
được độc lập, Người đã chủ trương và thực hiện đồng thời chiến dịch chống
giặc đói và chiến dịch chống giặc dốt. Người cho rằng: văn hoá là tinh hoa
của dân tộc, văn hoá phải góp phần khẳng định vị thế của dân tộc và một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Cho nên: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc
địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc. Đồng thời phát triển những
truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn
hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân
tộc, khoa học và đại chúng” [43, tr.173].
Quan điểm coi trọng truyền thống văn hoá dân tộc, giữ gìn những tinh
hoa, những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá của cha ông cũng nói rõ
quan điểm bảo tồn bản sắc văn hoá của Danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh;
Những điều mà Người nói, Người viết rất giản dị, mộc mạc, nhưng mang ý
nghĩa giáo dục và nhân văn sâu sắc: cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ…cái gì cũ
mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…cái gì cũ
mà tốt, thì phải phát triển thêm…Người cũng nhấn mạnh nguyên tắc kế thừa
và phát triển trong quan điểm về bảo tồn văn hoá; văn hoá phải thoát khỏi mọi

biểu hiện kỳ thị chủng tộc, tránh xu hướng độc tôn, tránh phục cổ một cách


24

máy móc, kế thừa phải đi đôi với sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hoá nhân loại. Đồng thời, trong quá trình giao lưu quốc tế, đòi hỏi mỗi quốc
gia phải nghiên cứu kỹ, toàn diện văn hoá của các dân tộc khác, học lấy
những gì tốt đẹp, làm giàu hơn cho văn hoá của chính mình, có như thế văn
hoá Việt Nam mới thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam, mới đủ sức mạnh
“soi đường cho quốc dân đi”.
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng to lớn
trong nhiều lĩnh vực, mà văn hoá là một trong những lĩnh vực ấy. Những quan
điểm của Người về văn hoá, về giữ gìn, bảo tồn văn hoá dân tộc đã trở thành
phương châm hành động của Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân ta, đặc biệt
là các nhà văn hoá.
Thấm nhuần lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng và Nhà
nước ta đã có sự đổi mới nhận thức về văn hoá trên mọi phương diện. Nghị
quyết 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII); và đặc biệt, đến nghị
quyết Trung ương năm (khoá VIII) đã đề cập đến toàn bộ các vấn đề văn hoá
liên quan đến quốc tế dân sinh, đến xây dựng đời sống tinh thần cho con
người. Trong năm quan điểm chỉ đạo cơ bản của nghị quyết, quan điểm thứ
nhất đã khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [17, tr.55], cho
thấy: chính sách kinh tế trong văn hoá mà Nghị quyết Trung ương năm (khoá
VIII) đã đề cập nhằm mục đích gắn văn hoá với hoạt động kinh tế, khai thác
các tiềm năng kinh tế hỗ trợ cho các hoạt động phát triển văn hoá và đồng
thời cũng đảm bảo được các yêu cầu về chính trị, tư tưởng của hoạt động văn
hoá, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Khi đề cập đến vấn đề “bản sắc văn hoá
dân tộc”, Đảng ta khẳng định:

Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng


25

đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động;
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… bản sắc văn hoá còn
đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [17,
tr.56].
Kế thừa những quan điểm nêu trên, có thể khái quát về văn hoá và bản
sắc văn hoá dân tộc như sau: Văn hoá là sự phản ánh tổng thể những năng
lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ
thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội của mình.
Với cách hiểu văn hoá như vậy, chúng ta có thể thấy: Văn hoá là một hệ
thống tổng thể quy định đời sống của một dân tộc, nó gắn với các biểu hiện
phương thức tồn tại người, là sự thể hiện đầy đủ bản chất của con người trong
tất cả mọi dạng hoạt động, bao gồm hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức
và hoạt động giao tiếp v.v... Hệ thống này bao gồm toàn bộ những gì thuộc về
tư duy, tín ngưỡng, phong tục tập quán…, những gì thuộc về cơ tầng xã hội
như hôn nhân, gia đình…, những gì thuộc về môi trường sinh thái, đảm bảo
cho cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Điều đó cũng có nghĩa
tất cả những yếu tố có liên quan đến con người với tư cách là con người cá
nhân, con người xã hội, liên quan đến mọi cách thức tồn tại của con người và
cộng đồng người đều liên quan đến văn hoá - Văn hoá chính là sự phát triển,
là sự thể hiện lực lượng vật chất, năng lực tinh thần của con người trong các

lĩnh vực sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần. Tuy nhiên, không thể phân chia
văn hoá một cách rạch ròi thành “văn hoá vật chất” hay “văn hoá tinh thần”.
Bởi vì, cái gọi là “văn hoá vật chất” thực chất chỉ là sự “vật chất hoá” các giá
trị tinh thần, bản thân các giá trị tinh thần cũng hiếm khi tồn tại dưới dạng
tinh thần thuần tuý, mà nó thường được “vật thể hoá” trong các dạng tồn tại
của vật chất. Ngay cả các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể nhưng
vẫn mang tính vật chất khách quan như văn hoá trong các lĩnh vực đạo đức,


26

giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán… khi tiếp cận vấn đề văn hoá
cần phải xét văn hoá dưới dạng cấu trúc hoàn chỉnh và các chức năng tương
ứng với cấu trúc ấy, trong đó chức năng vận hành đóng vai trò quyết định.
Trong văn hoá: chức năng là cơ chế vận hành của cấu trúc, nếu không có chức
năng thì cấu trúc không vận hành, nếu cấu trúc văn hoá có bị phá huỷ hay mai
một vì nguyên nhân nào đó nhưng chức năng vận hành vẫn còn thì cấu trúc sẽ
được phục hồi và vấn đề chỉ là thời gian.
Nói tóm lại: Văn hoá gắn với toàn bộ hoạt động sống của con người, là
“thiên nhiên thứ hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con
người. Văn hoá, về bản chất thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hoá” con
người, hướng tới sự phát triển và giải phóng những năng lực bản chất của con
người, nhằm phát triển toàn diện con người, hoàn thiện xã hội loài người. Cho
nên, trong quá trình phát triển của lịch sử, bên cạnh sự hội nhập, cố gắng phấn
đấu để có thể ngang bằng nhau về kinh tế, mức sống, kỹ thuật, văn minh thì
vấn đề giữ gìn, tôn vinh và phát huy những tinh hoa văn hoá sẽ làm nên sự
khác biệt, sự độc đáo giữa các dân tộc về lối sống, phương thức sống và giá
trị cuộc sống.
Vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc được rất nhiều quốc gia trên thể giới
quan tâm (đặc biệt là các nước đang phát triển). Trong “thập kỷ thế giới văn

hoá phát triển” (1988 – 1997) UNESCO ghi rõ:
Mối quan tâm lớn của những xã hội đương thời là việc giữ gìn
những nét độc đáo trong bản sắc văn hoá của dân tộc mình và ngăn chặn
sự sói mòn những giá trị văn hoá do sự biến đổi của thị hiếu, lối sống,
ảnh hưởng của nước ngoài [dẫn theo 61, tr.79].
Văn hoá do con người sáng tạo ra, nhưng văn hoá không mất đi cùng với
thế hệ người tạo ra nó, mà văn hoá tồn tại trong những lớp trầm tích các di
sản, được bổ xung những cái tiên tiến, tạo nên dấu ấn riêng biệt cho mỗi dân
tộc, đó chính là bản sắc văn hoá dân tộc.


27

Như vậy, có thể nói: Bản sắc văn hoá dân tộc chính là căn tính của dân
tộc đó, là cái không hề trộn lẫn của dân tộc này với dân tộc khác.
Đối với mỗi dân tộc, văn hoá là căn cước, là chứng chỉ, nó chỉ rõ anh là
ai, thiếu nó anh không tồn tại như một giá trị. Bản sắc dân tộc bao gồm cả hai
mặt: Một mặt, nó là cái cốt lõi bên trong, cái sức mạnh tiềm tàng, bền vững,
nó chi phối tư tưởng, hành vi của dân tộc. Mặt khác, nó là biểu hiện ra bên
ngoài thành những phong tục, tập quán trong sinh hoạt, thường được gọi là
hình thức, màu sắc, hay sắc thái dân tộc. Về mặt lịch sử, cái “tự nhiên thứ
hai”, cái tự nhiên rất người, hay văn hoá không phải được tạo ra một lần và
tồn tại mãi mãi, mà ở các cộng đồng người khác nhau, không gian và phương
thức sống khác nhau thì văn hoá sẽ mang những diện mạo khác nhau (đó là
bản sắc).
Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ giá trị các di sản văn hoá, là những kinh
nghiệm được con người tích luỹ trong quá trình thích ứng với tự nhiên, với
môi trường mà họ đang sinh sống; là những chuẩn mực trong ứng xử giữa cá
nhân với nhau, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng
đồng khác. Đó là những thói quen trong nếp nghĩ, là những tri thức đã tích luỹ

được, là biểu tượng, là niềm tin trong thế giới tinh thần…được trải nghiệm
trong lịch sử, được chuyển giao một cách rất tự nhiên giữa các thế hệ người
(trong hệ thống cấu trúc tạo thành bản sắc văn hoá dân tộc không ngoại trừ
văn hoá các dân tộc thiểu số - văn hoá tộc người).
Văn hoá dân tộc thiểu số là tổng thể các yếu tố: Tiếng nói, chữ viết, lối
sống, phong cách sống, cách ứng xử với môi trường tự nhiên; các mối quan
hệ xã hội, các sắc thái tâm lý, tình cảm, những tập quán trong sinh hoạt đời
thường, trong phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng; trong chu kỳ sống của đời
người, trong quan niệm về vũ trụ nhân sinh…Những yếu tố này được hình
thành trong lịch sử, nó có tính đặc thù, đặc trưng, bền vững và ổn định, được
chuyển giao và phát triển không ngừng từ thế hệ này qua thế hệ khác, được
hoàn thiện dần cùng với sự phát triển của tộc người [10, tr.39].


28

Nói cách khác: Văn hoá tộc người là tổng thể những giá trị văn hoá vật
chất và tinh thần của một dân tộc - tộc người cụ thể, được hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển tộc người, trong quan hệ giao lưu và tiếp
thu tinh hoa văn hoá các dân tộc khác, góp phần làm phong phú, đa dạng nền
văn hoá của cả cộng đồng.
Trong quá trình giao lưu văn hoá, những yếu tố đặc trưng cốt lõi của mỗi
dân tộc vẫn được giữ lại, duy trì và phát huy, nó làm nên những sắc thái văn
hoá độc đáo không trộn lẫn với dân tộc khác. Trong thực tiễn, ý thức tộc
người được nảy sinh từ văn hoá tộc người, nếu văn hoá tộc người bị mai một
thì ý thức tộc người đó cũng sẽ mất dần, bản thân tộc người cũng sẽ tàn lụi và
thậm chí không còn cả tên gọi; nói cách khác, nếu dân tộc nào tự đánh mất
những sắc thái văn hoá mang tính bản sắc thì cũng chính là đánh mất mình.
Để bảo tồn và phát triển văn hoá tộc người không chỉ nói tới các yếu tố cụ thể
của văn hoá dân tộc đó mà còn phải chú ý tới những con người, chủ thể sáng

tạo ra nền văn hoá ấy; tức là, song hành giữa yếu tố văn hoá cụ thể cần bảo
tồn, bảo vệ và những con người cụ thể đã tạo ra sắc thái văn hoá của họ.
1.2. Vai trò nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc.
1.2.1. Những điều kiện khách quan tác động đến vai trò giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc của nhân tố chủ quan trong giai đoạn hiện
nay.
Mỗi nền văn hoá đều là sản phẩm của một cộng đồng người, trong mối
quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội; trong các
mối quan hệ ấy con người đã sáng tạo ra các giá trị văn hoá, các hệ thống
chuẩn mực: Chân, thiện, mỹ và các quan hệ nhân văn. Chính vì thế, môi
trường sống, hoàn cảnh hiện thực mà chủ thể sáng tạo văn hoá đang sống và
hoạt động (ĐKKQ) là yếu tố quy định sự hình thành các giá trị văn hoá, đến
quá trình bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá đó. Khi nói đến văn hoá là nói
đến giá trị, nhưng giá trị văn hoá không tồn tại một cách đơn lẻ, nhất thời, mà


29

được tập hợp trong một môi trường nhất định, cụ thể, sinh động, với những
con người, những chủ thể sáng tạo, giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá đó.
Triết học Mác – Lê nin chỉ rõ, trong mối quan hệ giữa môi trường, hoàn
cảnh và con người, giữa ĐKKQ và NTCQ… thì môi trường hoàn cảnh, hay
ĐKKQ giữ vị trí chi phối chủ yếu đến mọi hoạt động của chủ thể, quyết định
vai trò của NTCQ. Quy luật hình thành và phát triển văn hoá thông qua mối
tương quan giữa văn hoá với các phương diện khác của đời sống xã hội chính
là sự khẳng định vai trò của con người trong quá trình chắt lọc những tinh hoa
văn hoá tạo nên sự phong phú cho đời sống vật chất và tinh thần của mình.
Những mặt, những nhân tố (mang tính cụ thể) tạo nên hoàn cảnh hiện thực
(có tính thời điểm) ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người, đến sự

sáng tạo, giữ gìn và phát triển văn hoá như: yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị xã hội, xu hướng biến đổi đạo đức, lối sống và nhu cầu hưởng thụ văn hoá...
Thứ nhất, những tác động của môi trường kinh tế:
Văn hoá và môi trường kinh tế là những phương diện khác nhau của đời
sống xã hội, nhưng giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng; trong mối
quan hệ đó, cơ sở kinh tế sẽ quyết định nội dung, tích chất, hình thức biểu
hiện của văn hoá.
Đánh giá về vấn đề này Ph. Ăngghen từng nói: Sự phát triển về chính trị,
pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hoá và nghệ thuật đều dựa vào phát triển
kinh tế, nhưng tất cả các lĩnh vực đó cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng
đến cơ sở kinh tế. Cách tiếp cận văn hoá dưới góc độ kinh tế chính trị học của
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nguồn gốc phát sinh của văn hoá là từ cơ sở
kinh tế, từ một nền kinh tế nhất định, nền kinh tế như thế nào sẽ sản sinh và
quy định bộ mặt tinh thần, sắc thái văn hoá của xã hội như thế ấy. Nói về điều
này, Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) Đảng cộng sản Việt Nam viết:
Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát
triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và
hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật


30

pháp, kỷ cương…biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự
phát triển [17, tr.55].
Trong thời đại ngày nay, trước tác động của quốc tế hoá kinh tế, văn hoá
và bản sắc văn hoá dân tộc chắc chắn sẽ có những biến đổi.
Một mặt, về kinh tế, khi hội nhập quốc tế sẽ đem lại những ý nghĩa về
hạnh phúc, về sự tiến bộ xã hội đích thực cho nhân loại, nó đã trực tiếp thúc
đẩy quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh sự chuyên
môn hoá trong sản xuất của các quốc gia và trong các quốc gia. Làm cho nền
kinh tế mỗi nước không chỉ gói gọn trong phạm vi quốc gia thuần tuý. Các

vấn đề liên quan đến đời sống con người như: nhu cầu ăn, uống, lao động,
thông tin…được đáp ứng trên phạm vi toàn cầu, chất lượng cuộc sống của
người dân, sự thịnh vượng về kinh tế của các quốc gia được nâng cao rõ rệt,
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hoá được khẳng định. Sự
tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho việc truyền bá, lưu giữ, phát triển những giá trị văn hoá đặc sắc của dân
tộc, tạo cơ hội giao lưu, tìm hiểu, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân
loại, làm giàu thêm những giá trị văn hoá truyền thống.
Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thể hướng con người đến
lối sống thực dụng, cá nhân, ích kỷ, mê đắm lợi ích vật chất và xu hướng làm
giàu không lành mạnh…Điều này dẫn tới phân hoá giàu nghèo, suy thoái đạo
đức cá nhân và gia đình. Một số người do kiếm được đồng tiền một cách dễ
dàng, phi pháp nên có lối sống trác táng, góp phần làm tăng các tệ nạn xã hội,
sói mòn văn hoá truyền thống. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, một số các quốc gia kém phát triển bị phụ thuộc vào các nước giàu, dẫn tới
nguy cơ bị đồng hoá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, làm suy giảm sức
mạnh dân tộc và có thể dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Văn hoá các dân tộc
thiểu số vùng cao cũng bị tác động và ảnh hưởng tương tự: Điện khí hoá toàn
quốc đã làm cho cuộc sống mọi mặt của đồng bào được nâng lên rõ rệt, nhưng
cũng có một thực tế là lưới điện quốc gia phát triển đến đâu thì cối xay tay,


×