1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời và phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nói chung và Hội đồng nhân dân (HĐND) nói riêng gắn liền với
tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm chăm lo việc củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, xây dựng Nhà nước Việt Nam thật sự là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước phải lấy
dân làm gốc, nhân dân là người chủ đất nước, thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và HĐND. Người nhấn mạnh: "Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực của Nhà nước ở địa phương" [45, tr. 591].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản tinh thần quý báu
của Đảng và của dân tộc ta. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
việc khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản
chất dân chủ của Nhà nước là hướng tiếp cận mới chưa được đề cập. Đặc
biệt, hướng tiếp cận này lại càng có ý nghĩa khi chúng ta vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động
của HĐND để HĐND xứng đáng là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nước ở địa phương.
Sắc lệnh tổ chức và hoạt động của HĐND và Ủy ban Hành chính
(UBHC) (số 63/SL ngày 22-11-1945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký là văn
bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho việc tổ chức, hoạt động của
HĐND các cấp. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thiết chế HĐND đã khơng
ngừng được hồn thiện, đóng một vai trị hết sức quan trọng trong bộ máy
2
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, trong những
năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên trong thực tế
hoạt động của HĐND ở nhiều địa phương vẫn cịn mang tính hình thức
chưa phát huy một cách có hiệu quả vị trí, vai trị của mình. Việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức,
hoạt động của HĐND vẫn còn nhiều bất cập. Với những lý do đó, tác giả
chọn vấn đề "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của
Hội đồng nhân dân các cấp ở Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số vấn đề liên quan đến đề tài như: Tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi
mới hệ thống chính trị; cải cách bộ máy nhà nước; Nhà nước pháp quyền
đã được các nhà nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Nguyễn Anh Tuấn (Chủ biên), Nguyễn Xuân Tế - Bùi Ngọc Sơn,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Nxb
Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Kỷ yếu Hội thảo:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 1993.
- Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Kỷ yếu Hội
thảo: Các nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới,
Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Hà Nội, 1997.
- Lê Minh Thông (Chủ biên), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
- Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (đồng Chủ biên),
Cải cách hành chính địa phương lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998.
3
- Bùi Xuân Đức, Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong
điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, 12/2003.
- Nguyễn Thị Hồi, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Luật học, 1/2004.
- Nguyễn Hoàng Anh, Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 3/2003.
- Chu Đức Thành, Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan đại
diện ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996...
Nhìn chung, những cơng trình trên đã đề cập tới tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước hoặc tổ chức và hoạt động của HĐND. Song, chưa có
đề tài nào nghiên cứu về bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN) và tổ chức, hoạt động của HĐND từ cách tiếp cận về bản chất dân
chủ của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ về phương diện lý luận
tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN và
việc thực hiện tư tưởng đó trong tổ chức, hoạt động của HĐND, luận văn
nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN trong đổi mới tổ chức, hoạt động
của HĐND nhằm phát huy vai trò là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nước ở địa phương.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bản chất dân
chủ của Nhà nước XHCN và thực tiễn vận dụng tư tưởng đó trong tổ chức,
hoạt động của HĐND.
4
- Phân tích thực trạng thực hiện dân chủ trong tổ chức, hoạt động
của HĐND ở Nghệ An theo tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của
Nhà nước XHCN.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện tổ
chức, hoạt động của HĐND trên cơ sở vận dụng một cách triệt để, sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bản
chất dân chủ của nhà nước XHCN và vận dụng tư tưởng đó trong tổ chức,
hoạt động của HĐND.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu những
nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà
nước XHCN và khảo sát việc vận dụng tư tưởng đó trong tổ chức, hoạt
động của HĐND ở Nghệ An qua nhiệm kỳ 1999-2004 và 2004-2009 (tính
đến tháng 7 năm 2005).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân chủ, về việc xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và kế thừa
quan niệm của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài này.
- Để thực hiện luận văn này, chúng tơi sử dụng các phương pháp
phân tích và tổng hợp kết hợp với phương pháp lơgíc, phương pháp thống
kê, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN.
5
- Qua phân tích thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất
dân chủ của Nhà nước XHCN trong tổ chức, hoạt động của HĐND để
khẳng định: HĐND - thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ở
địa phương.
- Từ thực trạng tổ chức, hoạt động của HĐND ở Nghệ An, tác giả
đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động của
HĐND bảo đảm phát huy bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thực hiện thành cơng mục đích và nhiệm vụ nói trên, đề tài sẽ góp
phần nhận thức sâu hơn về bản chất của Nhà nước XHCN nói chung và
HĐND nói riêng từ một cách tiếp cận mới, từ đó có những quan điểm về
đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND để nó thật sự trở thành một thiết
chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước tại địa phương theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về nhà nước, pháp luật và cho những ai quan tâm tới việc nghiên
cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
6
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT DÂN CHỦ
CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VẬN DỤNG
TRONG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ BẢN CHẤT DÂN
CHỦ CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời tranh đấu đưa dân tộc Việt Nam
từ dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân từ thân phận dân thuộc
địa lên địa vị công dân làm chủ đất nước.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống các luận điểm về dân chủ, từ
quan niệm cho đến sự thể hiện của chúng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội..., cũng như phương thức hiện thực hóa chúng trong thực
tiễn. Cho dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về
dân chủ vẫn nổi lên nội dung chính trị, khi Người ln nhấn mạnh tới vấn
đề Nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Từ góc độ này
có thể khái quát quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ trên các nội dung
sau:
- Dân là chủ
Từ các tác phẩm và đặc biệt là hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh có thể khẳng định rằng: Tồn bộ cuộc đời cách mạng sơi nổi, kiên
định của Người là cả một quá trình đấu tranh quên mình để khẳng định
trong thực tế đời sống một nguyên lý mà Người sớm nhận biết đó là: Nhân
dân là người chủ xã hội. Nhận thức này đã thôi thúc Người dấn thân vào
con đường cách mạng, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường
7
cách mạng vô sản và trở thành người dẫn dắt cả dân tộc đi đến lý tưởng,
mục tiêu cao cả là khẳng định trên thực tế địa vị là chủ của nhân dân đối
với xã hội, đất nước: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ" [42, tr. 515].
- Dân làm chủ
Nói "dân là chủ" là để khẳng định vị thế, tư cách xã hội của người
dân. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa tư cách "là chủ" của dân với trạng
thái "dân làm chủ" trên thực tế. Trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến sự khác biệt, đến khoảng cách giữa tư cách
"dân là chủ" với trạng thái "dân làm chủ". Bởi vì, trong lịch sử đã có nhiều
cứ liệu chứng minh sự khác biệt về chất này, đó là làm chủ trên thực tế và
làm chủ trên danh nghĩa. Từ "dân là chủ" đến "dân làm chủ" là cả một bước
nhảy vọt về chất đầy khó khăn. Hồ Chí Minh đã có lần nói đến một thực tế
như là một điều trăn trở khôn nguôi: Làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Ở đây, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu yêu cầu: Làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ. Đây là nguyên tắc thuộc bản chất của Nhà nước và
thực chất của chế độ xã hội mới: "Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [40, tr. 56]. Điều đáng chú
ý ở đây là Hồ Chí Minh thường dùng từ "hưởng" để chỉ một nội dung rất cơ
bản của quyền dân chủ. Khi nói đến việc "nhân dân hưởng hạnh phúc tự do,
ăn no, mặc ấm..." thì "hưởng" ở đây hồn tồn khơng bao hàm nghĩa như là
một thứ ân huệ do được ban tặng, mà đó là thành quả đấu tranh của nhân dân.
Trong suốt cuộc đời đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, Người không
ngừng giác ngộ cho dân chúng nhận thức về tư tưởng tự lực cánh sinh, "việc
ta ta phải gắng lo...", "cơng nơng mình cứu lấy mình", "đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta...". Đây chính là điểm mấu chốt để phân biệt "dân là chủ" và
"dân làm chủ".
8
Để "dân làm chủ" phải có những điều kiện, mà điều kiện tiên quyết
có tính tiền đề là cuộc đấu tranh kiên dũng của nhân dân vì độc lập, tự do
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Giành được chính quyền, nhân dân giành lại được quyền là người
chủ xã hội và cả quyền làm chủ xã hội, nhưng từ địa vị "là chủ" đến "quyền
làm chủ" và làm chủ trên thực tế, cần phải có những điều kiện chặt chẽ kèm
theo. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giành chính quyền, làm chủ chính
quyền, xây dựng xã hội là sự nghiệp của tồn dân, của chính nhân dân,
khơng ai làm thay được. Nhưng để tham gia cuộc đấu tranh và trong q
trình đấu tranh đó nhân dân phải được giác ngộ, tập hợp, đồn kết lại thành
sức mạnh: "Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm
cũng được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những
người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra" [41, tr. 169].
Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có quyền,
mà điều quan trọng là phải có khả năng, năng lực làm chủ. Đây chính là
mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người nói: "Muốn làm
chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ" [46, tr. 86]. Sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành cơng mối quan tâm đó ln ở bên Người trong cả
chặng đường cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: "Làm sao cho nhân
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói,
dám làm" [42, tr. 423] phải được xem như là một lời di chúc của Người.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân ta đã làm chủ nước
nhà và đã thực hành quyền làm chủ trên thực tế. Với tư cách là người đứng
đầu nhà nước, Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết thực trạng làm chủ của dân,
cho nên, Người thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng cho sức mạnh làm chủ
của nhân dân. Cho dù việc bồi dưỡng sức dân, bồi dưỡng năng lực làm chủ
9
của dân có nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng đó khơng phải là một tình
trạng khơng thể vượt qua.
Có thể thấy, Hồ Chí Minh ln tâm niệm về sự cần thiết bồi dưỡng
sức dân thực hiện quyền làm chủ bằng cả một quốc sách được triển khai trên
quy mô rộng lớn - cơng cuộc nâng cao dân trí, bồi dưỡng dân khí - những
nhân tố hàng đầu hình thành "năng lực làm chủ" của nhân dân. Điều đặc sắc là
ở chỗ, chủ trương, chính sách mà Hồ Chí Minh khởi xướng, phát động, cổ vũ,
triển khai thực hiện mang tính hồn thiện, đồng bộ, hệ thống và có tính chiến
lược. Người thấy được ý nghĩa sâu xa căn bản của các cải cách xã hội đối với
việc bồi dưỡng sức dân, xây dựng nền dân chủ "chúng ta phải ra sức thực hiện
những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ
thực sự" [43, tr. 323]. Để phát huy quyền làm chủ và mở rộng quyền làm chủ
của nhân dân, Hồ Chí Minh địi hỏi Nhà nước phải có tầm nhìn bao qt, tồn
diện và cụ thể. Có thể nêu những dẫn chứng tiêu biểu về cách làm này của
Người: Trong bài báo đăng trên Báo Cứu quốc phát động phong trào luyện
tập thể dục trong những năm tháng đầu của chính quyền nhân dân, Người đã
chỉ ra ý nghĩa chính trị, dân chủ to lớn của việc luyện tập thể dục vốn là một
việc làm thông thường của mỗi người. Người xem đây là bổn phận của mỗi
một người yêu nước, "giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần phải có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân
mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe" [40, tr. 24]. Trong Chương trình hành
động của Chính phủ lâm thời với 6 nhiệm vụ cấp bách được trình bày tại
phiên họp Chính phủ ngày 3-9-1945, có 2 nhiệm vụ được Người đặt lên
hàng đầu là chống nạn đói, nạn dốt. Những nhiệm vụ này trực tiếp hoặc
gián tiếp đều có tác dụng bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân trí, ni dưỡng
dân khí, khơi dậy ở mỗi người dân và ở tất cả các tầng lớp nhân dân ý thức,
tinh thần làm chủ nước nhà, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ
quốc vừa giành được quyền độc lập, tự do.
10
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào
cơng cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết
chữ quốc ngữ... Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm
chủ, đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi vậy, ý thức làm
chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn
phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao
năng lực làm chủ của mình [40, tr. 36].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân làm chủ khơng chỉ để hưởng
quyền dân chủ, dù đó là hưởng thành quả do chính mình tạo nên, mà cịn để
"biết dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm", điều đó thể hiện một thái độ
chủ động, tích cực, xây dựng và sáng tạo từ phía người dân. Cách dùng từ
"biết" đặt bên cạnh "hưởng quyền dân chủ" và "dùng quyền dân chủ" thể
hiện một đòi hỏi cao về năng lực "làm chủ', đó là trình độ "dân trí" của
nhân dân. Chỉ khi người dân hiểu được "quyền dân chủ" của mình thì khi
đó họ mới "dám nói, dám làm".
- Đi đến dân chủ thực sự
Năm 1953, tại Hội nghị nông vận và dân vận, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có bài phát biểu quan trọng. Mở đầu bài nói này, Người khẳng
định: "Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự" [43, tr. 25]. Trong điều kiện cụ
thể của năm 1953, Người nói đến "dân chủ thực sự" với nội dung thực hiện
cách mạng ruộng đất, giải phóng nơng dân khỏi ách áp bức, bóc lột của
phong kiến địa chủ. Tuy nhiên, ý nghĩa nhận thức luận của khái niệm này
lại có tính phổ biến. Khơng phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh bổ sung tính từ
"thực sự" bên cạnh khái niệm "dân chủ" khi đề cập đến trạng thái dân chủ
trong xã hội Việt Nam ở thời kỳ này. Ở đây, Người nói đến "dân chủ thực
sự" là muốn gián tiếp đối lập nó với một thứ dân chủ chung chung, hình
thức, chưa thực sự hoặc khơng thực sự. Trong di sản tư tưởng mà Người để
11
lại, khái niệm dân chủ với các tính từ "thực sự", "thật sự", "đầy đủ"... được
sử dụng nhiều lần, trong những hoàn cảnh khác nhau, thể hiện một quan
niệm nhất quán về tính chất của sự việc, đồng thời thể hiện sự quan tâm sâu
sắc của Người về thực trạng của nền dân chủ trong xã hội.
Trong tư duy của Hồ Chí Minh, "thực sự", "thật sự" phải là một
thuộc tính, một dấu hiệu khơng thể thiếu của Nhà nước dân chủ và xã hội
dân chủ. "Bao giờ ở nông thơn nơng dân thật sự nắm chính quyền, nơng
dân được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự" [43, tr. 25]; "... phải thật
sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng" [41, tr. 322]; "phải
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên
mặt "quan cách mạng", "ra lệnh, ra oai" [46, tr. 311].
Trong xã hội ta, "thật sự dân chủ" trở thành một điều kiện, một thước
đo thực chất của chính quyền. Do vậy, thực hành dân chủ có ý nghĩa, tác dụng
là "chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn" [47, tr. 249],
qua đó, Người chỉ rõ tầm quan trọng của phát huy dân chủ.
Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ đó là do tính chất Nhà
nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới
động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên... Có
dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến... Dân chủ, sáng
kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan trọng với nhau [41, tr. 244].
Tóm lại, với quan niệm: Dân chủ là "dân là chủ"; "dân làm chủ"
cùng với "thực hành dân chủ" Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới vị thế (là
chủ) và hành động (làm chủ) của người dân - người chủ xã hội trong mối
quan hệ với nhà nước của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Bản chất dân chủ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
12
Nhà nước dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một Nhà nước dân
chủ kiểu mới, Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Trong tư tưởng của
Người, bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới có nội dung rất rộng và
thể hiện cả trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Bước đầu nghiên cứu
vấn đề này, chúng tơi có thể khái qt thành những nội dung cơ bản sau
đây.
1.1.2.1. Nhà nước dân chủ là tổ chức chính trị của nhân dân do
nhân dân tổ chức ra
Với quan điểm: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân làm chủ" [42, tr. 515], Hồ Chí Minh đã khẳng định việc nhân dân làm
chủ nhà nước bằng con đường tổng tuyển cử phổ thơng đầu phiếu, trực
tiếp, bỏ phiếu kín. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là một quyền
chính trị mà nhân dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức
dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân.
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử,
hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là người
cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử…
Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ. Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của nhân dân [40, tr. 133].
Thơng qua việc bầu Quốc hội và HĐND, nhân dân thực hiện quyền
lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, xây dựng nên
một nhà nước hợp pháp theo ý nguyện của tồn dân.
Theo Hồ Chí Minh: "Chế độ tuyển cử chúng ta thực hiện dân chủ, đồng
thời thực hiện sự đồn kết tồn dân. Mọi người cơng dân từ 18 tuổi trở lên đều
13
có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử. Việc tuyển cử tiến hành
theo nguyên tắc phổ thơng bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín" [45, tr. 591].
Với vai trị là một nội dung làm chủ nhà nước của nhân dân, quyền
bầu cử, ứng cử được ghi rõ trong Hiến pháp năm 1945, Hiến pháp năm
1959 do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành.
Trong Hiến pháp năm 1946, quyền này được thể hiện trong
ba điều:
Điều thứ 17: Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ
phiếu phải tự do, trực tiếp và kín.
Điều thứ 18: Tất cả cơng dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở
lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những
người mất trí và mất cơng quyền. Người ứng cử là người có
quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều thứ 19: Cách thức tuyển cử sẽ do luật định [57, tr. 1011].
Chế độ tuyển cử được quy định tại Điều 5 của Hiến pháp năm 1959:
"Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín" [57, tr. 27].
Và tại Điều 23 quy định:
Cơng dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, khơng phân
biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tơn giáo, tín
ngưỡng tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn
cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên
đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí hoặc những người
14
bị tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử. Cơng dân
đang ở trong qn đội có quyền bầu cử và ứng cử [57, tr. 31-32].
Bầu cử và ứng cử trực tiếp các đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà
nước ở các cấp là một đặc điểm nổi bật trong tổ chức nhà nước ở Việt
Nam. Dưới sự lãnh đạo của bộ máy nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các nguyên tắc Tổng tuyển cử đã được áp dụng nghiêm ngặt trong
cuộc bầu cử Quốc hội khóa I (6-1-1946).
Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I mặc dầu được tiến hành trong một
điều kiện hết sức khó khăn, nhưng đã được đánh giá là diễn ra đúng với
tinh thần dân chủ mà Hồ Chí Minh đã khởi xướng. Điều đó được thể hiện ở
chỗ: tỷ lệ cử tri đi bầu cử cao, bao gồm mọi thành phần, lứa tuổi, dân tộc
(chiếm trên 90% danh sách cử tri), số lượng ứng cử viên nhiều, tạo ra khả
năng lựa chọn cho người dân. Trong thực tế, "tại kỳ bầu cử Quốc hội khóa
I, ở Hà Đơng có 14 đại biểu Quốc hội thì có 97 vị ra ứng cử, ở Nam Định
có 15 đại biểu thì có 70 vị ra ứng cử" [2, tr. 49].
Về độ tuổi đại biểu, có thể thấy, Quốc hội khóa I là một Quốc hội
có độ tuổi trung bình rất trẻ, thể hiện sức sống của một dân tộc đang vươn
lên sau giành được tự do, độc lập: Đại biểu từ 18 đến 25 tuổi chiếm 7%; đại
biểu từ 26 đến 40 tuổi chiếm 70%; đại biểu từ 41 đến 50 tuổi chiếm 18%;
đại biểu từ 51 đến 70 tuổi chiếm 5%.
Về yếu tố chính trị, Quốc hội khóa I có nhiều tổ chức chính trị, Đảng
phái tham gia: Đảng viên mác-xít có 10 đại biểu; đảng viên xã hội 27 đại
biểu; Đồng minh hội có 22 đại biểu; Việt Nam quốc dân Đảng có 26 đại biểu.
Đại biểu độc lập gồm: Chống phát xít (tiến bộ) có 82 đại biểu và xu hướng
quốc gia bảo thủ có 90 đại biểu [25, tr. 81-82, 102].
Về chất lượng đại biểu, Quốc hội khóa I đã phần nào đáp ứng được
tư tưởng chỉ đạo có tính ngun tắc mà Hồ Chí Minh đã đề ra, đó là: "Có
15
đủ chất xám trong bộ máy chính quyền thì mới tăng được sức bật, sức bền
của khối xi măng cốt sắt đại đoàn kết toàn dân và xây dựng tổ quốc" [39, tr.
206]. Kết quả thành phần xã hội của đại biểu Quốc hội khóa I đã minh
chứng cho điều đó: Tri thức chiếm 61%; cơng kỹ nghệ chiếm 6%; buôn bán
chiếm 5%; thợ thuyền chiếm 6%; nông dân chiếm 22% [25, tr. 81-82; 102].
Một đặc điểm không lặp lại của Quốc hội khóa I là: Vừa có bầu, lại
có cử. Ngoài 333 đại biểu bầu được trong ngày 06/01/1946, trong điều kiện
vận nước hiểm nghèo, ngàn cân treo sợi tóc, để đồn kết dân tộc Hồ Chí
Minh đề nghị giành 70 ghế Quốc hội cho Việt Nam quốc dân Đảng (Việt
Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) nhằm cơ lập,
phân hóa các lực lượng chống đối và lôi kéo cả những người trong bộ máy
nhà nước cũ tham gia xây dựng đất nước. Đó là một quyết định có ý nghĩa
vơ cùng to lớn, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
một Nhà nước đại đồn kết dân tộc, vì mục tiêu cao cả của cách mạng đó
là, giữ vững độc lập tự do và từng bước đưa nước nhà bước vào thời kỳ quá
độ lên XHCN.
Thắng lợi to lớn của cuộc tổng tuyển cử chính là đã lựa
chọn được các đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Người dân đã biết "chọn mặt gửi vàng",
ủng hộ lãnh tụ, chấp nhận những quyết sách đúng đắn, tưởng
chừng như nghịch lý mà người ngoài cuộc không bao giờ hiểu
được. Vấn đề này được Hồ Chí Minh lý giải ngắn gọn, sắc sảo
nhưng lại đầy tính biện chứng, một loại biện chứng trong tư duy,
phản ánh chính xác phép biện chứng chính trị và hiện thực cuộc
sống nước ta lúc bấy giờ.
Về ý nghĩa lịch sử thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, Hồ
Chí Minh có những đánh giá xác đáng và khái quát:
16
Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này lần đầu tiên trong
lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó là kết quả của cuộc Tổng tuyển
cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 mà cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết
quả của sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn
bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt
Nam đồn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh khơng sợ nguy
hiểm tranh lấy nền độc lập cho tổ quốc [39, tr. 85-86].
1.1.2.2. Nhà nước dân chủ là Nhà nước đảm bảo cho nhân dân
tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội
Bản chất dân chủ của Nhà nước không chỉ thể hiện ở việc nhân dân
tự tổ chức nên bộ máy nhà nước, mà còn thể hiện đậm nét, đa dạng ở việc
huy động được sự tham gia đông đảo của nhân dân vào quản lý các cơng
việc của Nhà nước.
Trình bày báo cáo trước Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959,
trong phần về tổ chức nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhà nước phải phát huy quyền dân chủ, phát huy tính
tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam
thực sự tham gia quản lý công việc nhà nước" [45, tr. 590].
Xét từ góc độ thực thi quyền lực, việc bảo đảm cho nhân dân tham
gia quản lý các cơng việc nhà nước là một hình thức thực hiện dân chủ đặc
thù, thể hiện bản chất tiến bộ của Nhà nước ta - Nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
Trong các tác phẩm của mình, tuy Hồ Chí Minh không trực tiếp đề
cập đến các phạm trù, khái niệm dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, nhưng
điều đó hồn tồn khơng có nghĩa là Người khơng có sự quan tâm đến các
phạm trù rất cơ bản này. Người thường đề cập đến những phương thức phổ
biến thực hành dân chủ như: "Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và
17
tìm cách giải quyết….Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng,
giải thích cho dân chúng" [41, tr. 297].
Hồ Chí Minh nói nhiều đến u cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm
cơng dân, làm chủ từ phía người dân và việc từ bỏ các tệ quan liêu, hách
dịch, xem thường, khinh miệt quần chúng, vô tâm, tắc trách trước các nhu
cầu của nhân dân từ phía các cơ quan, nhân viên nhà nước. Người lưu ý
rằng: "Có người thường cho dân là dốt khơng biết gì, mình là thơng thái, tài
giỏi. Vì vậy, khơng thèm học hỏi dân chúng, khơng thèm bàn bạc với dân
chúng. Đó là một sai lầm nguy hiểm lắm…" [41, tr. 295]. Đồng thời, Người
nhắc nhở: "Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng" [41, tr. 298].
Dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có
nhiều từng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau,
có lớp tiên tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu. Vì vậy, khơng
phải dân chúng nói gì, ta cũng nhắm mắt theo. Người cán bộ cũng
phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh… Chọn
lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để
nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng.
... Ln ln phải theo tình hình thiết thực của dân chúng
nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự
tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tùy hồn cảnh thiết
thực trong nơi đó và lúc đó đưa ra tranh đấu [41, tr. 296-298].
Trong phát huy quyền dân chủ trực tiếp, huy động sự tham gia của
nhân dân vào quản lý nhà nước thì vấn đề niềm tin của dân đối với chính
quyền và của chính quyền đối với dân là vơ cùng cần thiết. Tuy nhiên,
trong thực tế vấn đề hồn tồn khơng đơn giản, ngồi những lý do nhận thức
sai lệch, cịn có tình trạng như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "Những cán bộ có
khuyết điểm thường sợ dân nói" [47, tr. 213] cịn người dân chưa nói hoặc
18
khơng giám nói, vì sợ cán bộ "trù" cán bộ "chụp mũ" hoặc do cách lãnh đạo
không dân chủ nên:
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với người lãnh đạo, nhân
dân, cán bộ.. dù có ý kiến cũng khơng giám nói, dù muốn phê
bình cũng sợ, khơng giám phê bình… họ khơng nói, khơng phải
vì họ khơng có ý kiến nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng
khơng nghe, khơng xét, có khi lại bị "trù" là khác.
Họ khơng giám nói ra thì họ cứ để trong lịng, rồi sinh ra
uất ức, chán nản. Rồi sinh ra "khơng nói trước mặt, chỉ nói sau
lưng", "trong Đảng im tiếng, ngồi Đảng nhiều mồm", sinh ra
thói thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác [41, tr. 243].
Một trong những hình thức thực hành dân chủ trực tiếp là quyền
giám sát, thanh tra của nhân dân. Hình thức thực hiện dân chủ quan trọng
này đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và đã được thể
chế hóa thành các văn bản dưới luật khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng tác dụng của cơng tác giám sát, thanh tra, Người nói:
Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết
các nghị quyết có được thi hành khơng, thi hành có đúng khơng,
muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là
khéo kiểm sốt. Kiểm sốt khéo, bao nhiêu khuyết điểm lịi ra
hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ bớt
đi [42, tr. 287].
Kiểm sốt có hai cách: "Từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm soát từ
dưới lên do quần chúng thực hiện. Đây là cách tốt nhất để kiểm soát các
nhân viên" [41, tr. 286-287].
Phải nói rằng, được sự giáo dục, chăm lo thường xuyên của Chủ
tịch Hồ Chí Minh mà bản thân Người là một mẫu mực nêu gương sáng về
19
mối quan hệ giữa nhà nước với nhân viên nhà nước và nhân dân, dù trong
điều kiện ác liệt của chiến tranh kéo dài và chính quyền non trẻ, một loại
quan hệ "cá với nước" đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, điều mà ngày nay trở thành như một
điểm sáng để chúng ta noi theo và thực hiện.
1.1.2.3. Nhà nước dân chủ là Nhà nước trong đó nhân dân có
quyền bãi miễn những người khơng xứng đáng trong bộ máy nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân
không chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp mà cịn ở
quyền bãi miễn họ, kiểm sốt, giám sát hoạt động của các đại biểu.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đề cao
một giá trị có ý nghĩa tồn nhân loại của cách mạng Mỹ 1776: "Giời sinh ra
ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, phải làm ăn cho
sung sướng… Chính phủ nào có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đạp
đổ Chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác" [37, tr. 270].
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nhắc lại nguyên tắc này
nhưng với tinh thần mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ kiểu mới
của nhân dân, do nhân dân làm chủ: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ" [41, tr. 60].
Cơ chế bãi miễn dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội bảo đảm
được sự trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động, Hồ Chí Minh
nêu rõ: "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân đối với Nhà nước" [45, tr. 591].
Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng, đây là nội dung làm chủ rất khó
khăn nhưng thể hiện rất rõ tư cách là chủ nhà nước và năng lực thực hành
dân chủ của quần chúng lao động.
20
Với vai trò làm chủ nhà nước, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân,
các đại biểu được bầu ra phải có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, với tinh thần trách nhiệm bàn bạc và giải
quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế dân sinh. Theo quan điểm Hồ
Chí Minh, để thể hiện nhân dân lao động làm chủ nhà nước thì đại biểu do
dân bầu ra phải có mối liên hệ thường xuyên, bằng nhiều "kênh" khác nhau
với nhân dân, thoát ly khỏi mối liên hệ này, Nhà nước rất dễ rơi vào quan
liêu, trì trệ, đứng trên nhân dân, trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có
của Nhà nước kiểu mới. Thơng qua tổng tuyển cử, bầu và có thể bãi miễn
đại biểu do mình bầu ra, quyền chính trị cơ bản của nhân dân được bảo
đảm, nhân dân thực hiện vai trò làm chủ nhà nước, đứng ra tổ chức và xây
dựng Nhà nước kiểu mới của mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do nhân dân làm
chủ còn bao hàm một nội dung khác, đó là nhân dân có quyền kiểm soát
nhà nước; thực hiện chức năng kiểm soát nhà nước, nhân dân được đặt ở vị
trí tối thượng, có quyền được bảo đảm trên thực tế chứ không phải trên
danh nghĩa, lời nói. Hồ Chí Minh viết: "Chính phủ ta là Chính phủ của
nhân dân, chỉ có một đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ
rất mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn
nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [43,
tr. 361].
Là người làm chủ nhà nước, nhân dân có quyền thông qua cơ chế
dân chủ thực thi quyền lực, nhưng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ nhà nước, làm cho Nhà nước ngày càng hồn thiện, trong
sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh đề cập đến mặt thứ hai này của quyền dân
chủ với tinh thần nhất quán và triệt để cách mạng, Người cho rằng:
Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ Chính phủ
là đầy tớ của nhân dân, nhân dân có quyền đơn đốc và phê bình
21
Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ
giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng
chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm trịn phận sự mà
nhân dân đã giao phó [43, tr. 368].
Nét độc đáo của Hồ Chí Minh là ở chỗ quan niệm nghĩa vụ công
dân không chỉ trên tinh thần luật pháp, mà cịn cả trên bình diện đạo đức,
nhân cách cơng dân. Người chỉ rõ: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước
nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền làm chủ, thì phải có nghĩa vụ
làm trịn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân" [43, tr. 542].
Ý thức làm chủ, thực hiện nghĩa vụ làm chủ phải trở thành hành
động tự giác, thấm sâu vào mỗi người, trong từng công việc cụ thể, hàng
ngày Hồ Chí Minh lưu ý rằng:
Đã là người chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước
như chăm lo việc nhà. Người cơng nhân phải u q máy móc
như u q con mình, người nơng dân u q trâu bị của hợp
tác xã như bản thân của mình. Mọi người phải biết giữ gìn của
cơng, phải chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình.
Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo trong gánh vác,
khơng ỷ lại, khơng ngồi chờ. Mọi người phải ra sức góp cơng,
góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên "ăn cỗ đi trước, lội nước
đi sau" [46, tr. 310].
1.1.2.4. Nhà nước dân chủ là nhà nước thực hiện nguyên tắc
công khai, lắng nghe ý kiến của nhân dân
Thực hiện nguyên tắc công khai, lắng nghe ý kiến nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước kiểu mới là một trong những nội
dung cơ bản nhằm dân chủ hóa tổ chức hoạt động của Nhà nước, bảo đảm
22
nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Thực hiện tốt nguyên tắc này
đòi hỏi mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phải công khai để dân biết.
Đồng thời trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách,
pháp luật, kế hoạch, các quyết định của cơ quan nhà nước... phải lắng nghe,
tiếp thu và giải quyết ý kiến, nguyện vọng và những nhận xét, đánh giá của
quần chúng nhân dân.
Thực hiện công khai hóa tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà
nước là bảo đảm cho nhân dân lao động có điều kiện hiểu biết, nhận thức
và phân tích các hoạt động của bộ máy nhà nước. Người dân có thể bày tỏ
ý kiến, thảo luận và đánh giá các hoạt động đó, phát huy quyền làm chủ của
mình trong xây dựng nhà nước và tham gia quản lý nhà nước. Ngược lại,
các cơ quan nhà nước, cán bộ nhân viên nhà nước phải gần dân, trọng dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân chính là để kiểm tra, đánh giá lại chủ
trương, chính sách và các hoạt động của mình. Có như vậy mới kịp thời sửa
đổi, bổ sung, uốn nắn những chủ trương, chính sách và hoạt động đó cho
phù hợp.
Giá trị của nguyên tắc này đã được ghi nhận ở Hiến pháp năm
1945, đó là điều khoản quy định hình thức cơng khai của các kỳ họp Nghị
viện: "Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí
được phép thuật lại các thảo luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong
những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết định họp kín" [57, tr.
13].
Cũng ở Hiến pháp năm 1946, Điều 32 khẳng định nguyên tắc này
và còn quy định về chế độ trưng cầu dân ý: "Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số
Nghị viện đồng ý [57, tr. 40-41].
23
Công khai mọi tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước khơng có
nghĩa là cơng khai cả những vấn đề thuộc bí mật quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, thực hiện nguyên tắc này phải đặc biệt quan tâm tình hình tổ chức,
hoạt động của chính bộ máy nhà nước. Ngồi việc cơng khai hóa những
vấn đề chủ trương chính sách, pháp luật, lập kế hoạch còn phải kịp thời cơng
khai cả những yếu kém, khuyết điểm, thiếu sót của bộ máy nhà nước, cán bộ
công chức nhà nước. Không vì sợ mất uy tín mà để xử lý nội bộ, rút kinh
nghiệm nội bộ, che giấu những yếu kém, khuyết điểm đó. Trái lại, càng
thẳng thắn vạch rõ và xử lý nghiêm minh, kịp thời những yếu kém, khuyết
điểm của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức sẽ làm cho bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, càng củng cố uy tín của Nhà nước đối với
nhân dân.
Ngay trong kỳ họp thứ 2 - Quốc hội khóa I (tháng 11 năm 1946),
Hồ Chí Minh đã nói:
Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng
trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc
ở các Ủy ban làng hiện đông và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ
đã hết sức làm gương và nếu làm gương khơng xong thì sẽ dùng
pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ, đã trị, đương trị và sẽ trị cho
kỳ hết [40, tr. 158].
Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán cán bộ, đảng viên không chấp
hành pháp luật của Nhà nước, làm gương xấu cho quần chúng. Việc lợi
dụng quyền thế vi phạm pháp luật cũng được Người chỉ ra:
Có cán bộ đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà
nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm
đến lợi ích và vật chất cũng như quyền tự do dân chủ của nhân
24
dân, nhưng cũng chưa bị xử lý kịp thời… như vậy là kỷ luật chưa
nghiêm [45, tr. 207].
Đối với Hồ Chí Minh, việc thưởng phạt phải nghiêm minh, bởi vì:
Cán bộ ta nhiều người tận tụy, hết sức trung thành với
nhiệm vụ, với Chính phủ, với Quốc dân. Nhưng cũng có người
hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đốn,
hoặc là dĩ cơng dinh tư. thậm chí dùng phép cơng để báo thù tư,
làm cho dân ốn đến Chính phủ và đồn thể… trong một nước
thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng
chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công [40, tr. 163].
1.1.2.5. Nhà nước dân chủ là Nhà nước trong đó nhân dân có
quyền kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan
nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước
Không chỉ xác định từ làm chủ, là chủ của nhân dân đối với Nhà
nước, Hồ Chí Minh cịn giải thích rất cụ thể mối quan hệ giữa Nhà nước
với nhân dân trong nhiệm vụ phục vụ nhân dân: "Chính phủ cộng hịa dân
chủ là gì? là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch tồn quốc đến làng. Dân là
chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng
quan phát tài. Nếu Chính phủ hại đến dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ" [41, tr. 60].
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng khẳng định ngay trọng trách là chủ
và làm chủ của nhân dân: "... khi dân cùng đầy tớ làm việc thì phải giúp đỡ
Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình Chính phủ, phê bình
nhưng khơng phải là chửi" [41, tr. 60].
Làm thế nào để nhân dân giao quyền mà không mất quyền, các cơ
quan nhà nước được giao quyền mà không tiếm quyền dân và phải thực
hiện tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ, phát triển quyền
25
dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân...? Hồ Chí Minh đã xác định rất
rõ mối quan hệ giữa cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân với nhân dân,
chỉ ra cơ chế và phương pháp hoạt động để chính quyền thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình. Người nói: "Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân,
chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân, Chính phủ rất
mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn nhiệm
vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [43, tr. 361362].
Quan điểm đó chỉ ra sự tác động qua lại giữa nhân dân - Nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực của xã hội, đồng thời chỉ rõ vai trò, trách nhiệm làm
chủ của nhân dân đối với các hoạt động của Nhà nước dân chủ. Việc giúp
đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình các hoạt động của Nhà nước được thực
hiện thể hiện vai trị, trách nhiệm đó. Mặt khác, Nhà nước phải có nhiệm vụ
tạo ra những điều kiện ngày càng tốt hơn để nhân dân thực hiện đầy đủ vai
trị, trách nhiệm của mình.
Tạo ra những điều kiện thực tế và ngày càng hoàn thiện hơn để
nhân dân thực hiện đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình là biện pháp tốt
nhất để phát huy tính chủ động và tính tích cực chính trị trong nhân dân. Vì
theo Hồ Chí Minh, kháng chiến, kiến quốc hay đổi mới và xây dựng đất
nước đều là sự nghiệp của dân và trách nhiệm của dân, mọi lực lượng và
quyền hạn đều ở nơi dân. Người đã giải thích:
Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ
là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đơn đốc và phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy nhân dân có nhiệm vụ giúp
đỡ Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính
phủ làm trịn phận sự mà nhân dân giao phó [43, tr. 368].