Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về dân CHỦ với VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ dân CHỦ HIỆN NAY (QUA KHẢO sát ở QUẢNG NAM và đà NẴNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.54 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng bao trùm của Người thể hiện ở nguyên lý độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh,
Người đặc biệt chú trọng tới vấn đề dân chủ từ cách mạng dân tộc dân chủ
tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh khơng chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và
thực hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ
đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Tư tưởng dân
chủ Hồ Chí Minh khơng chỉ thể hiện trong tư tưởng chính trị của Người mà
cịn thể hiện sinh động trong mọi lĩnh vực khác thuộc hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Do đó, chúng ta cần vận dụng tư tưởng dân chủ của Người vào sự
nghiệp đổi mới hiện nay, đặc biệt trong cuộc vận động dân chủ hóa để thực
hiện QCDC ở cơ sở. Lúc sinh thời Người đã từng nhấn mạnh dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội trong phát triển.
1.2. Chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh khẳng định là xã hội do
nhân dân lao động làm chủ. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá
trình xây dựng chế độ xã hội mới đảm bảo thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động. Trong xã hội đó, dân chủ thể hiện lợi ích và
quyền lực chân chính của nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định dân chủ là
"dân làm chủ" và "dân là chủ".
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đến nay, chúng ta đã
thu được những thành tựu to lớn: kinh tế phát triển, dân chủ bước đầu được
phát huy, chính trị - xã hội ổn định, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
chủ nghĩa xã hội được tăng cường...
1



Có được những thành tựu to lớn đó là do Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã khơng ngừng tìm tòi các giải pháp để từng bước xây dựng chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã đề ra phương châm "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" (tháng 12/1986). Tuy nhiên, quá trình thực hiện
quyền dân chủ, làm chủ của quần chúng, đặc biệt ở nông thơn vẫn cịn nhiều
hạn chế, thậm chí cịn nhiều thiếu sót, khuyết điểm dẫn đến những phản ứng
của nhân dân, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực (quan liêu, tham
nhũng) của một số cán bộ đảng, chính quyền ở cơ sở. Tình trạng đó lan ra
thành điểm nóng chính trị cần phải xử lý (như hiện tượng ở Thái Bình).
Thấy rõ nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là ở chỗ, người dân vẫn chưa
được hưởng quyền dân chủ đầy đủ và thực sự, Đảng và Nhà nước đã ban
hành chỉ thị, nghị định về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở (năm 1998).
Những cố gắng đó đã đưa đến những thành tựu đáng phấn khởi. Nhưng so
với đòi hỏi của thực tiễn, những thành tựu mà chúng ta đạt được mới ở bước
đầu. Trước những vấn đề mới mẻ do bản thân quá trình vận động và thực
hiện dân chủ hóa đề ra, chúng ta còn cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tiếp
tục phát huy dân chủ, đấu tranh kiên quyết chống lại những hiện tượng vi
phạm dân chủ và quyền làm chủ của dân, đặc biệt từ cơ sở, khắc phục những
biểu hiện dân chủ hình thức và tự do vơ chính phủ.
Qua hai năm thực hiện chỉ thị 30CT-TW của Đảng và Nghị định
29/NĐCP của Nhà nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở cho thấy,
nhân dân cả nước tiếp nhận chủ trương này một cách phấn khởi và tin
tưởng. Chỉ thị này đang đi vào cuộc sống tạo nên chuyển biến tích cực trong
nhận thức chính trị và hành động của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
1.3. Để chủ động phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt
tiêu cực trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở cần phải thường xuyên
nghiên cứu lý luận, chú trọng tổng kết thực tiễn, ra sức khắc phục những
thiếu sót trong q trình xây dựng và thực thi chính sách. Đó là việc làm
cần thiết. Vì lẽ đó cần phải nghiên cứu vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ
2



Chí Minh vào việc xây dựng và phát triển dân chủ ở nước ta, đặc biệt là dân
chủ ở cơ sở.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ lâu vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà
hoạt động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã
hội và nhân văn ở trong nước và trên thế giới.
Ở nước ta trong 15 năm đổi mới vừa qua, thành tựu nghiên cứu
những vấn đề lý luận về dân chủ và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ được thể hiện ở những cơng trình của nhiều tác giả và các tập thể
tác giả. Ví dụ:
- Những lực cản đối với q trình dân chủ hóa ở Việt Nam - Báo
Nhân Dân, số ra ngày 22/4/1998 của Hồng Chí Bảo.
- Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Tạp chí TTLL số 7/1989
của Hồng Chí Bảo.
- Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, H, 1991
của Thái Ninh - Hồng Chí Bảo.
- Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận
và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí TTLL số 9/1992 của Hồng Chí Bảo.
- Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 2/1999 của
Trần Quang Nhiếp.
- Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ. Tạp
chí QLNN, số 1/1999 của Lê Minh Châu.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới: Sự hình thành và
phát triển, Nxb CTQG, H, 1995 của Hồng Văn Hảo.
- Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Sự thật, H, 1997 của
Nguyễn Khắc Mai.
- Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
6/1998 của Hồng Trang.

3


- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân,
CTQG, H, 1988 của Nguyễn Đình Lộc.
v.v...
Ngồi ra, cịn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa
học, các luận án phó tiến sĩ, thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn
đề dân chủ, dân chủ hóa ở nước ta (xem danh mục tài liệu tham khảo ở
phần sau).
Các cơng trình nghiên cứu đó từ những hướng tiếp cận và phạm vi
nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ
chế thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, dân chủ ở cơ sở và vận dụng tư tưởng dân
chủ của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn
đang còn là vấn đề mới mẻ, dường như chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống. Luận văn này là một cố gắng bước đầu của tác giả
góp phần nghiên cứu bổ sung vào chỗ cịn thiếu hụt đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu về dân chủ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng những tư tưởng đó vào việc xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở, đặc biệt ở nơng thơn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa nội dung tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
- Trình bày q trình thực hiện dân chủ ở cơ sở từ 1998 đến nay
bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm (qua khảo sát thực tế ở tỉnh
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng).
- Đưa ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng
tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và thực hiện QCDC ở

cơ sở trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay.
4


4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lênin, các quan
điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân chủ và xây dựng thể
chế dân chủ.
Ngoài ra, tác giả luận văn cịn vận dụng phương pháp lơgic và
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng kết thực tiễn để
nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và
những biện pháp thực hiện dân chủ thể hiện trong những tác phẩm chủ yếu
của Người ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Khảo sát thực tế tại địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng để đánh giá hiện
trạng và các vấn đề đặt ra trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998
đến nay.
6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những nội dung lý luận về dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết.

5



Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ

1.1. TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ - MỘT NỘI DUNG HỢP THÀNH CỦA TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
DÂN CHỦ HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng chính trị thiên tài, nhà tư
tưởng dân chủ lớn của Việt Nam
Hồ Chí Minh - một vĩ nhân đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển
của nhân loại. Sự vĩ đại và cao quý của Người được thể hiện trên nhiều
phương diện từ cuộc đời, sự nghiệp đến tư tưởng, đạo đức, phương pháp và
phong cách. Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau của nhiều bộ môn khoa học
xã hội - nhân văn, các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định rằng: "Ở Hồ
Chí Minh, nhà chính trị (bao gồm cả nhà chiến lược, nhà tổ chức, nhà quân
sự) hòa quyện với nhà nhân văn, nhà đạo đức, nhà văn hóa, hình thành một
diện mạo, một nhân cách riêng của Hồ Chí Minh... Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sự gắn bó thống nhất của những quan điểm tư tưởng chính trị (về cách
mạng dân tộc dân chủ, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về tổ chức lực lượng,
về quân sự) với tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức, tư tưởng văn hóa" [9,
257-249].
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành tư tưởng
Hồ Chí Minh - trong mối quan hệ với tư tưởng nhân văn, tư tưởng kinh tế,
tư tưởng văn hóa và tư tưởng đạo đức.
Từ việc xác định vị trí của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong
tổng thể tư tưởng Hồ Chí Minh như trên, chúng ta cần thiết phải xác định
nội dung thực chất của tư tưởng chính trị ấy. Xung quanh vấn đề này đang
có nhiều cách xác định khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tơi thấy có thể
đồng tình với cách hiểu: "Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh là tổ hợp các
6



luận điểm, các quan điểm liên quan đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Việt Nam nói riêng và các dân tộc bị áp bức nói chung. Đó là lý luận về
cách mạng ở các nước thuộc địa trong thời đại mới" [33, 31]
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh còn là một hệ các vấn đề bao gồm
nhiều nội dung như chiến lược đại đoàn kết, xây dựng mặt trận thống nhất,
xây dựng Nhà nước của dân, do dân vì dân và xây dựng Đảng cách mạng
chân chính. Đó là những điều kiện căn bản đảm bảo thực hiện thắng lợi lý
tưởng và mục tiêu cách mạng.
Một trong những giá trị văn hóa đáng tự hào, đáng trân trọng là tư
tưởng dân chủ của Người. Tư tưởng dân chủ của Người lại là điều cốt lõi
của tư tưởng chính trị đó. Hồ Chí Minh trở thành nhà tư tưởng chính trị, nhà
tư tưởng dân chủ của cách mạng Việt Nam.
Dân chủ luôn luôn bị chế ước bởi những điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của một thời đại lịch sử xác định cũng như các yếu tố thuộc
về đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử và truyền thống của dân tộc. Tìm hiểu tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh tất yếu phải đặt trong bối cảnh lịch sử của
thời đại và đất nước nơi Người sinh ra để xem người đã kế thừa những gì
trong tư tưởng dân chủ của dân tộc và nhân loại, đã phát triển như thế nào
và thực hành ra sao tư tưởng dân chủ đó.
1.1.2. Hồn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và
những tác động tích cực của truyền thống dân tộc đến sự hình thành tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh
Vào giữa thế kỷ XIX, trong khi các nước tư bản phương Tây nhanh
chóng phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì các nước phương
Đơng vẫn chìm đắm trong sự trì trệ dưới sức nặng của chế độ phong kiến
chuyên chế, bảo thủ ngự trị từ lâu đời. Hậu quả là, lực lượng sản xuất của xã
hội chậm phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, đời sống vật chất và
tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động rơi vào cực khổ, bế tắc, mâu


7


thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến thống trị với nhân dân lao động mà
tuyệt đại đa số là nông dân ngày càng sâu sắc.
Từ lâu, chủ nghĩa đế quốc đã nhịm ngó, mưu đồ xâm chiếm Việt
Nam. Sự suy yếu bạc nhược của chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã tạo cơ
hội cho đế quốc Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. Bọn vua quan phong kiến
ươn hèn đã đầu hàng thực dân Pháp, bán nước ta cho bọn ngoại bang, phản
bội lợi ích của dân tộc, đẩy nhân dân ta vào tình cảnh nơ lệ dưới ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân. Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.
Thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ phong kiến, đặt ách
thống trị ở nước ta, tiến hành bóc lột, áp bức và nơ dịch nhân dân ta một
cách vô cùng tàn bạo. Việt Nam trở thành nước thuộc địa với chế độ thực
dân nửa phong kiến. Chính sách thống trị hà khắc của thực dân Pháp làm
cho nhân dân ta bị bần cùng, khốn khổ khơng có chút quyền tự do, dân chủ
nào.
Ngay từ lúc đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân ta đã
anh dũng đứng lên chống xâm lược. Các phong trào cứu nước từ các cuộc khởi
nghĩa Bình Tây ở Lục Tỉnh, phong trào Cần Vương, Văn Thân đến các phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân của các cụ Phan Bội Châu,
Lương Văn Can, Phan Chu Trinh cho đến cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám
và các cuộc khởi nghĩa sau đó đều lần lượt thất bại và bị đàn áp khốc liệt. Cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta đầu thế kỷ XX rơi vào sự bế tắc về
đường lối. Bối cảnh đó đã thơi thúc người thanh niên u nước Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân với hành trang là lòng yêu nước
thương dân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người đã sử dụng những gì
trong hành trang đó để hình thành tư tưởng dân chủ của mình sau này?
Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta quyết không chịu khuất

phục đã nổi lên đấu tranh nhiều lần chống xâm lược, để tự giải phóng mình.
Nhiều lần nước ta bị phương Bắc xâm lược nhưng dân tộc ta vẫn giữ vững

8


được lãnh thổ và chủ quyền quốc gia dân tộc của mình. Những trang sử
vàng của dân tộc đã được làm nên bởi sức mạnh đoàn kết của cộng đồng
Việt Nam. Trong sức mạnh cộng đồng đó, thường nổi lên những người đứng
đầu đất nước - những thủ lĩnh chính trị biết dựa vào dân và tin vào sức
mạnh của dân. Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng có
những con người như thế.
Lý Thường Kiệt nêu lên tư tưởng: "Người làm vua của dân, cốt phải
nuôi dân" [34, 319]. Với ông, "nuôi dân" (dưỡng dân) thì phải bỏ các kế
sách tham tàn, phải loại trừ sự sách nhiễu làm hại dân, phải ngăn chặn sự
đục kht dân để làm giàu cho mình. Nhờ đó mà cuộc hành quân đánh Tống
của ông đạt kết quả rực rỡ ở thế kỷ X, mở ra thời kỳ phát triển mới của Nhà
nước phong kiến Việt Nam độc lập.
Trần Quốc Tuấn lãnh đạo quân dân nhà Trần đã ba lần đánh thắng
quân Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII. Đó là đội quân hùng mạnh nhất thế giới
lúc bấy giờ. Nước Trung Hoa rộng lớn đã bị chúng thôn tính, vậy mà ba lần
xâm lược Việt Nam cả ba lần chúng đều chịu thất bại phải rút quân về nước.
Nhìn lại ba lần chống qn Ngun - Mơng, Trần Quốc Tuấn rút ra một số
bài học về giữ nước, trong đó có bài học về thái độ đối với dân. Ơng nêu:
phải làm sao để "lịng dân khơng xa rời mình", muốn vậy, phải có kế sách cố
kết được lịng dân, đó là nới lỏng sự đóng góp của dân. "Khoan sức cho dân
để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách của sự giữ nước" [35, 398].
Sinh hoạt chính trị đời Trần có yếu tố rất đáng lưu ý là tổ chức một số hội
nghị bàn việc nước có tính chất dân chủ. Năm 1282, Trần Nhân Tơng họp
vương hầu và trăm quan ở Bình Than để bàn về sách lược cơng thủ. Năm

1283, Thượng hồng Trần Thánh Tông triệu tập phụ lão trong nước họp ở
thềm điện Diên Hồng để bàn kế đánh giặc. Qua những hội nghị này, họ biết
được lòng dân, biết được kế sách đánh giặc hữu hiệu đồng thời thu phục
được lịng dân, tăng thêm ý chí giết giặc của nhân dân.

9


Nguyễn Trãi - nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam ở thế kỷ XV. Người đã góp phần tạo dựng nên chính sách thân dân
thời kỳ Lê sơ mà kết quả là giành được chủ quyền đất nước từ tay giặc
Minh, đem lại xã hội thái bình, nhân dân no ấm và phát triển đến thịnh
vượng với quan niệm phải "nuôi dân", "chăn dân", "huệ dân", phải lấy việc
yên dân làm mục tiêu chiến đấu: "Việc nhân nghĩa cốt ở n dân" (Bình Ngơ
đại cáo), "đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp giặc cốt để n dân" (Thư dụ
hàng Bình Than); phải tránh chính sự phiền hà làm hại đến cuộc sống của
dân...
Thái độ và chính sách của các triều đại Lý, Trần, Lê đối với dân đã
tạo cho người dân sự gắn bó với triều đình, tạo cho đất nước một cục diện
thống nhất, vững mạnh, tạo cho dân tộc một sức mạnh chống ngoại xâm và
giữ gìn bờ cõi. Lý luận làm cơ sở cho thái độ và chính sách đó tuy khơng
nhiều nhưng quan điểm thì rõ ràng và ý nghĩa hiện thực thì vơ cùng to lớn.
Chính lý luận đó đã làm tiền đề cho sự chuyển biến nhận thức trong quan
niệm về dân ở các thời kỳ lịch sử sau này, làm cơ sở cho sự hình thành tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh ở thế kỷ XX.
Nhưng "dân" dưới thời phong kiến là thuộc phạm trù của chủ nghĩa
phong kiến, chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến. Dân tuy là số
đơng và có sức mạnh nhưng chung quy lại họ vẫn bị xem là những người bị
trị, cần phải có người khác dẫn dắt, họ khơng có khả năng quản lý và điều
hành đất nước. Dân tuy được xem là thành phần cơ bản của nước, nhưng

nước lại không phải là của dân, mà là của vua, của dòng họ vua thống trị,
cha truyền con nối. Các triều đại đang lên và các nhà tư tưởng của triều đại
ấy dù có nêu trách nhiệm "ni dân", "chăn dân" coi "dân là gốc nước", xem
"dân là quý", dù trong đời sống chính trị ở một mức độ biểu hiện nào đó
cũng có ít nhiều tính chất dân chủ song điều đó cũng chỉ là biểu hiện của
chủ nghĩa nhân bản của tinh thần dân tộc chứ chưa phải là tư tưởng dân chủ,
dân quyền theo nghĩa đích thực của nó.

10


Lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng dân chủ trên thế giới ở thời
cận đại thường gắn liền với các cuộc Cách mạng tư sản ở châu Âu vào thế
kỷ XVIII. Giai cấp tư sản ra đời đảm đương vai trò lịch sử chống phong
kiến, chống thần quyền địi tự do, bình đẳng, địi quyền quản lý xã hội. Vào
lúc này, tư tưởng dân chủ mới trở thành một trào lưu tư tưởng có ý nghĩa
tích cực, tiến bộ, thúc đẩy sự ra đời các thiết chế dân chủ tư sản. Đây quả là
một sự chuyển biến có tính cách mạng trong quan niệm về dân và về vai trị
của dân. Nó có ảnh hưởng tích cực tới sự hình thành tư tưởng dân chủ ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi mà tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp qua
"Tân Thư", "Tân Văn" từ Trung Quốc và Nhật Bản truyền vào Việt Nam.
Phan Bội Châu nêu lên quan niệm "nước lấy dân làm chủ, dân coi việc nước
như việc nhà", "Dân là dân nước, nước là nước dân" hoặc "Chỉ nên đề
xướng dân quyền, dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình dần dần mới có
thể mưu tính đến việc khác, dân quyền là phép đổi dời non sông". Trang đầu
của cuốn sách về lịch sử dân chủ, dân quyền ở Việt Nam bắt đầu từ đây. Tuy
nhiên, bên cạnh mặt tích cực và có ý nghĩa tiến bộ, dân chủ tư sản không
tránh khỏi những hạn chế thuộc về bản chất của nó. Nó biểu hiện ở chỗ, dân
chủ chỉ có đối với giai cấp tư sản còn nhân dân lao động vẫn bị áp bức, bóc
lột thậm tệ ở ngay cả những nơi sinh ra nó. Ở Việt Nam những tư tưởng dân

chủ, dân quyền được Phan Bội Châu nêu ra đã làm phấn chấn lịng người.
Biết bao trí thức u nước, thương dân đặt rất nhiều kỳ vọng vào phép "đổi
dời non sông" ấy nhưng họ chưa biết bắt đầu từ đâu và bằng con đường nào
là đúng đắn nhất để đáp ứng nhu cầu giải phóng dân tộc, nhu cầu dân sinh,
dân trí, dân chủ của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc yêu nước và thương
dân ngọn nguồn của dân chủ, Hồ Chí Minh có cách riêng để thể hiện mình
cả trong nhận thức lẫn trong hành động. Người khơng chỉ dành tình thương
vơ bờ bến cho dân, cho nước mà Người cịn mở rộng tình thương đến tất cả
những người bị đọa đầy đau khổ trên trái đất. Tư tưởng dân chủ và tư tưởng
11


chính trị của Hồ Chí Minh đã tựa vững chắc trên nền tảng của chủ nghĩa yêu
nước, của tinh thần dân tộc, của các giá trị nhân bản và nhân đạo tích cực
mà cốt lõi là tình thương u đối với nhân dân lao động. Người không chỉ
yêu thương nhân dân mà Người cịn ln tin tưởng ở dân, gần gũi với dân,
tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến của dân. Người ln đặt mình trong dân và
đã cống hiến tất cả cho dân, cho nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì
độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối chính trị
cơ bản và nhất quán của Người là đường lối đại đồn kết. Đó là sự đồn kết
theo tình nghĩa đồng bào, đồng thời cũng là sự đoàn kết liên hiệp những
người bị áp bức trên thế giới để đấu tranh cho độc lập tự do, hạnh phúc của
nhân dân lao động. Tư tưởng đại đoàn kết trở thành nguyên tắc chính trị
được Người kế thừa từ truyền thống dân tộc Việt Nam, là di sản quý báu và
vĩ đại của nền văn hóa chính trị Việt Nam.
1.1.3. Những ảnh hưởng của văn hóa phương Đơng và phương
Tây đối với sự hình thành tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
Người Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tư tưởng Nho giáo,
Phật giáo và Lão giáo. Người Việt đã chủ động tiếp thu những yếu tố tích

cực và tiến bộ của Nho, Phật, Lão để trở thành nguồn di sản văn hóa của dân
tộc tạo nên động lực tinh thần của những triều đại phong kiến khi chống
ngoại xâm, đặc biệt là Nho giáo.
Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nho giáo đã có ảnh hưởng
sâu sắc đối với Người ngay từ thời niên thiếu. Hồ Chí Minh tiếp thu Nho
giáo, nhưng là Nho giáo của những người yêu nước qua bổn phận trung hiếu
của người dân đối với sự mất còn của dân tộc. Những giá trị văn hóa
phương Đơng đặc biệt là Nho giáo mà Hồ Chí Minh tiếp thu đó là phải xem
dân là gốc nước. Sách "Thượng thư" nói: "Dân có thể gần, khơng thể coi
thường. Dân là gốc nước. Gốc có vững thì nước mới yên" Hồ Chí Minh đã

12


phát triển quan niệm đó. Người khẳng định: nhân dân là gốc, cơng nơng là
gốc của cách mạng:
"Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" [19, 410]
Trong Nho giáo cũng đã nói đến chữ tín, đến dân tin. Có được dân
tin thì triều chính mới vững vàng. Khổng Tử đã nói như thế. Và để được dân
tin thì theo Khổng Tử phải làm hàng loạt việc có liên quan tới dân như phải
làm sao cho được lòng dân, đáp ứng nguyện vọng của dân, loại trừ cái dân
khơng thích... Kế thừa và phát triển quan niệm này, Hồ Chí Minh ln đề
cao u cầu đối với những người làm chính trị, những cán bộ lãnh đạo chính
trị phải làm sao được dân tin, dân yêu, khơng phải để lấy lịng dân, để lợi
dụng dân mà phải rèn luyện phẩm chất, năng lực để vừa là người đầy tớ vừa
là người lãnh đạo dân, hết lòng thương dân, vì dân, việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
Mạnh Tử cho rằng có ba đối tượng mà người thực hành triều chính
phải tính tới, đó là: dân, xã tắc, vua. Theo ông cả ba đều quan trọng song

nếu xếp thứ tự thì trước hết phải là dân "dân là quan trọng, thứ đến là xã tắc,
còn vua là nhẹ". Bởi ơng cho rằng được lịng dân thì được thiên hạ "được
chúng dân thì làm thiên tử". Đối với Hồ Chí Minh, bao giờ Người cũng coi
dân là trên hết, trước hết, thương dân, trọng dân, được lòng dân, tập hợp lực
lượng dân chúng trên con đường đấu tranh tự giải phóng, giành quyền dân
chủ cho dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân.
Tuân Tử nêu tư tưởng "chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là
dân". Vì vậy, kẻ đang cầm quyền khơng thể vì có quyền trong tay mà coi
thường dân, chà đạp lên nguyện vọng, quyền sống của dân. Tiếp thu tư
tưởng đó, Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm chính trị phải tu dưỡng
rèn luyện suốt đời cả trong đấu tranh giành chính quyền và trong xây dựng
đất nước khi đã nắm được chính quyền.

13


Cách tiếp thu và sử dụng lý thuyết Nho giáo một cách sáng tạo của
Hồ Chí Minh có phần giống như Các Mác tiếp thu phép biện chứng của
Hêghen. Người tiếp thu các nhân tố hợp lý của Nho giáo, cải tạo lại mục
đích "trị quốc, bình thiên hạ" của Nho giáo cho nó hướng vào dân. Những gì
xét thấy khơng hợp thời hoặc lạc hậu thì Người gạt bỏ và phê phán.
Ở thời kỳ niên thiếu của Hồ Chí Minh, Nho giáo đã bất lực trước sự
tiến công của chủ nghĩa đế quốc. Và cả truyền thống tốt đẹp của dân tộc lúc
đó cũng khơng phát huy được hiệu quả, nếu nó khơng được bổ sung thêm
những nhân tố mới, những thành tựu mới của nhân loại. Chính vì thế mà
năm 1911, Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định sang
phương Tây chứ không phải là phương Đông như các vị tiền bối đã làm, với hy
vọng tìm một con đường đúng đắn, có hiệu quả nhất để cứu nước, cứu dân.
Điều hấp dẫn nhất đối với Hồ Chí Minh ngay khi Người cịn ở trong
nước là khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" của Cách mạng tư sản Pháp

(1789). Những mỹ từ về quyền con người đó đã thơi thúc Hồ Chí Minh ra đi
đến tận q hương của nó để tìm hiểu sự thực đằng sau những khẩu hiệu đẹp
đẽ ấy. Trong thời gian ở Pháp, Hồ Chí Minh đã có điều kiện đọc những tác
phẩm của các nhà tư tưởng, các triết gia lớn ở châu Âu, đặc biệt những nhà
tư tưởng, triết học thời khai sáng và thời kỳ cách mạng tư sản Pháp như
Diderot, Voltaine, Montesquieu, Rousseau... Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt
đến những tác phẩm bàn về nhân quyền, dân chủ, nhân đạo như "tinh thần
pháp luật" (Montesquieu), "Bàn về khế ước xã hội" (JJ. Rousseau). Tư
tưởng nhân đạo, dân chủ, nhân quyền thế kỷ XVIII đã dẫn đến cuộc cách
mạng năm 1789, cuộc cách mạng đã tấn công vào chế độ phong kiến và giáo
hội. Nhưng chẳng bao lâu, chính quyền tư sản lại khơi phục nhà thờ, lại tiếp
tục sử dụng tôn giáo làm công cụ ru ngủ nhân dân trong nước và làm
phương tiện xâm lược thuộc địa. Người đã thấy rất rõ rằng, khẩu hiệu "Tự
do, Bình đẳng, Bác ái" chỉ tồn tại trên lý thuyết còn thực tế đã mất dần ý
nghĩa. Sự thật là dưới chế độ tư bản thực dân, không hề có tự do, bình đẳng,

14


bác ái dành cho dân chúng, chỉ có áp bức, bóc lột và các cuộc đàn áp tàn bạo
đối với nhân dân lao động. Người đã nhìn rõ hai mặt tích cực và tiêu cực của
nền dân chủ tư sản, của cách mạng tư sản. Thực tiễn sống, hoạt động và đấu
tranh phong phú qua gần 10 năm khảo sát (1911 - 1920) ở nhiều nước châu
Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh đã đem lại cho Người những nhận thức mới: ở
các nước thuộc địa, đâu đâu người lao động cũng bị chủ nghĩa thực dân đế
quốc đầy ải trong tủi nhục, đói nghèo, bị bóc lột đàn áp dã man, và ở đâu các
dân tộc bị áp bức cũng đều có khát vọng đấu tranh địi giải phóng. Ngay ở
những nước tự xưng là văn minh nhất cũng vẫn có hai loại người: tầng lớp
trên sống hết sức xa hoa, thừa thãi còn đa số nhân dân lao động phải sống
cuộc đời nheo nhóc, bần hàn. Chính do sự yêu thương thông cảm những

người cùng khổ và căm ghét bọn tư bản, đế quốc thực dân mà tình cảm và ý
thức giai cấp, ý thức quốc tế ở Hồ Chí Minh từng bước được nảy nở, làm cơ
sở rất quan trọng cho việc tiếp thu những học thuyết cách mạng, khoa học
tạo bước ngoặt trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh sau này khi Người
giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin và CNCS.
1.1.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917) tạo nên bước ngoặt trong sự hình thành tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh
Trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp thu
tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây và cuối cùng Người đến với
chủ nghĩa Lênin. Đây là bước ngoặt trong quá trình tìm đường cứu nước và
quá trình phát triển tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Bước ngoặt đó đã
đánh dấu sự định hình và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản - chủ nghĩa Mác-Lênin, mang bản chất cách mạng
và khoa học triệt để.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, Cách mạng Tháng Mười và thời đại mới đã
đem lại cho Người câu trả lời đúng đắn nhất. Đó là muốn có một Việt Nam
độc lập có chủ quyền, nhân dân ta là người chủ và làm chủ cuộc sống của
15


mình thì tồn dân tộc Việt Nam phải tự mình xóa bỏ ách nơ lệ, rũ bỏ mọi
gơng xiềng giành lấy độc lập tự do thực sự bằng cách "đem sức ta mà giải
phóng cho ta", dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người đã
chỉ rõ trong "Đường cách mệnh" (1927): "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là Chủ nghĩa Lênin" [16, 268]. Người phê phán cách mạng Pháp, cách
mạng Mỹ là những cuộc cách mạng khơng đến nơi, chỉ có cách mạng Nga là
cách mệnh đến nơi, tức là đã trao lại cho nhân dân quyền lực thực sự của họ.
Người quyết định đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười.

Thế giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết tư tưởng đương
thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để tìm ra con
đường đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Tình cảm u
nước thương dân, quan niệm về dân, hành động tất cả vì dân trong tư tưởng
của Người khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin đã được nâng lên một trình độ
mới mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc, tính khoa học và cách
mạng triệt để nhất.
Cần phải nói thêm rằng: việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin của Hồ Chí Minh là cả một q trình kết hợp nghiên cứu lý luận
gắn với hoạt động thực tiễn. Người đã vận dụng và phát triển lý luận MácLênin một cách sáng tạo chứ không giáo điều, kinh viện. Người cho rằng
học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, trước hết phải nắm vững cái cốt lõi, "linh hồn
sống" của nó là phép biện chứng. Phép biện chứng được Hồ Chí Minh diễn
đạt theo ngôn ngữ phương Đông "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Nhờ nắm vững
"linh hồn sống" đó, Hồ Chí Minh đã có quan điểm và hành vi đúng đắn
trong việc kế thừa, tiếp thu truyền thống dân tộc và nhân loại, tránh được
thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ nhận mọi thành tựu quá khứ. Người cũng tránh
được thái độ bảo thủ, khư khư giữ lấy mọi di sản tư tưởng của quá khứ. Hồ
Chí Minh đã biết gạn đục khơi trong, gạt bỏ những nhân tố tiêu cực của quá
16


khứ mà chỉ giữ lại và phát huy những tinh hoa của dân tộc và nhân loại
trong mọi lĩnh vực của đời sống. Phép biện chứng cũng giúp cho Hồ Chí
Minh có cái nhìn đúng đắn ngay cả đối với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác không phải là kinh thánh để cho mọi người
tụng niệm mà là kim chỉ nam dẫn đường cho mọi suy nghĩ và hành động, nhờ
vậy Hồ Chí Minh đã tránh được cách nhìn siêu hình, phiến diện và bệnh giáo
điều mà nhiều người mắc phải.
Với tư duy biện chứng và tầm nhìn khống đạt, Người cịn nhận thấy

những giá trị tiến bộ và ý nghĩa thiết thực của chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn. Người thấy ở chủ nghĩa Tam dân và chính sách thân Nga, liên
cộng, phù trợ cơng nơng của Tơn Trung Sơn có những mặt tiến bộ, tích cực
có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Người còn ý thức được vai trò
quan trọng của đạo đức trong xã hội phương Đông, đặc biệt là trách nhiệm
tu thân của mỗi người; nhấn mạnh vai trò của truyền thống dân tộc; chú
trọng tiếp thu văn hóa nhân loại, lòng nhân ái của Giê Su, tinh thần dân chủ
và tự do phương Tây; ý thức phấn đấu thực hiện mục đích cuối cùng là làm
cho dân tộc độc lập, tự do, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân
dân, chủ trương xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân...
1.1.5. Những phẩm chất, trí tuệ và nhân cách chính trị Hồ Chí Minh
Khác với nhiều người cùng thời, Hồ Chí Minh là một người có phẩm
chất cá nhân tiêu biểu, một nhân cách chính trị vĩ đại của thời đại chúng ta.
Trước tiên phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh thể hiện ở tình yêu
quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lý tưởng và tình
cảm cách mạng của Người. Sức mạnh của tình cảm yêu nước, thương dân đã
thúc đẩy Người làm cách mạng, làm chính trị và chỉ có làm cách mạng, làm
chính trị với động cơ chân chính vì dân mới đảm bảo thực sự cho lý tưởng vì
nước, vì dân được thực hiện. Vì vậy, tư tưởng vì dân, lấy dân làm gốc khơng

17


chỉ là quan điểm nhân văn, là cốt cách làm người mà cịn là một quan điểm
chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Phẩm chất, năng lực tạo thành nhân cách của Hồ Chí Minh thể hiện
ở chí hướng, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, lý tưởng sống, niềm
tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước: sự nghiệp cách mạng của nhân
dân Việt Nam và nhân dân lao động tồn thế giới, đó là con đường cứu nước
và giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vơ sản và CNXH.

Năng lực trí tuệ của Hồ Chí Minh thể hiện ở trình độ vận dụng lý
luận vào thực tiễn một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn. Hồ Chí Minh là một
nhà cách mạng, một nhà hoạt động chính trị mẫu mực về "học đi đơi với
hành, lý luận gắn liền thực tiễn", thực tiễn cuộc sống và thực tiễn đấu tranh
cách mạng. Đây là phẩm chất và năng lực tạo nên nhân cách chính trị Hồ
Chí Minh, hơn nữa đó là nhân cách văn hóa của Người.
Phẩm chất của Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở sức mạnh và ý chí. Sức
mạnh và ý chí đó của Người đã cổ vũ sự quyết tâm cao độ của hàng triệu
triệu con người Việt Nam và nhân loại tiến bộ trong đấu tranh cách mạng để
thực hiện mục tiêu giải phóng.
Tất cả những phẩm chất, trí tuệ và nhân cách của Hồ Chí Minh được
phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của Người. Nhờ vậy, giữa
mn vàn lý thuyết và học thuyết khác nhau, đối lập nhau, đúng - sai, thật giả đan xen lẫn lộn, Hồ Chí Minh vẫn tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách
mạng đúng đắn và con đường đi tới mục tiêu, lý tưởng đó. Giữa thực tiễn vơ
cùng sinh động với bao tình huống phức tạp, khó khăn, bao sóng gió thử
thách, có khi đe dọa cả cuộc sống và sinh mệnh của mình, Người vẫn vươn
lên, vẫn kiên trì chân lý, để có những quyết định đúng đắn và sáng suốt,
những hoạt động sáng tạo để biến tư tưởng thành hiện thực.
1.2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH

18


1.2.1. Về vai trò của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Dân chủ từ bao đời nay ln là đề tài hấp dẫn đối với các học giả
trong nước và ngoài nước bởi dân chủ liên quan mật thiết tới cuộc sống của
con người và sự phát triển của xã hội. Đối với chúng ta, thực hiện và phát
huy dân chủ của quần chúng nhân dân là điều hệ trọng đối với sự thành bại
của chế độ, của thể chế. Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ
vừa biểu hiện là giá trị xã hội mà con người và lồi người đạt được trong

tiến trình đấu tranh để tự giải phóng mình, từng bước vươn tới tự do và làm
chủ lại vừa là hình thức và tính chất tổ chức thể chế Nhà nước. Dân chủ vừa
mang tính nhân loại vừa mang tính giai cấp. Trình độ dân chủ đi đơi với
trình độ văn minh và tiến bộ xã hội. Nội dung và hình thức của các thể chế
dân chủ biểu hiện những trình độ phát triển khác nhau của các thể chế chính
trị - xã hội. Vấn đề là ở chỗ, giai cấp cầm quyền có ý thức được vai trị của
dân, có thực hiện được sự ủy thác quyền lực của dân hay không? Đó cịn là
sự tự ý thức được vai trị làm chủ xã hội của dân đến đâu để dân chủ có điều
kiện thể hiện đầy đủ vai trị của nó trên thực tế.
Trong lịch sử, từ khi giai cấp và Nhà nước xuất hiện, dân chủ được
tổ chức thành chế độ dân chủ như hình thức thể hiện và biểu đạt quyền lực
của chế độ nhà nước. Chế độ dân chủ, chế độ nhà nước nào cũng mang tính
chất giai cấp, nó thực hiện và bảo vệ lợi ích và quyền lực của một giai cấp
nhất định. Đó là giai cấp thống trị. Mọi nền dân chủ (hay chế độ dân chủ)
trước CNXH thường chỉ là dân chủ do một thiểu số thuộc giai cấp thống trị.
Chỉ đến CNXH, nền dân chủ XHCN mới thực sự là nền dân chủ cho đa số
dân chúng trong xã hội.
Hồ Chí Minh, nhà lý luận và thực hành dân chủ tiêu biểu của thế kỷ
này ở nước ta - là người đã nhìn thấy rõ sức mạnh của dân "Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân" [20, 276]. Người đã huy động sức mạnh của toàn dân
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt
19


Nam từ nô lệ tới độc lập tự do, đưa nhân dân ta lên địa vị làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội. Người ln tìm mọi cách để "làm cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm" [24,
223]. Việc giáo dục dân tự ý thức được vai trò làm chủ xã hội của mình đối
với một dân tộc hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, hàng trăm

năm bị chủ nghĩa thực dân thống trị và trình độ dân trí thấp như nước ta, điều
đó làm Người luôn phải trăn trở, dồn hết tâm lực để tranh đấu thực hiện. Với
Hồ Chí Minh, "dân chủ là của q báu nhất của nhân dân" [22, 279], là chìa
khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Người ý thức sâu sắc rằng, dân
chủ không chỉ là "dân là chủ" mà cịn là "dân làm chủ". Dân có thực sự làm
chủ thì mới tiếp tục bắt tay vào "xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới"
[20, 15], "thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã
hội" [20, 174]. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấy rõ dân chủ là động lực, là sức
mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc, tự do và bình đẳng. Chính
vì vậy Người ln nhắc nhở những người lãnh đạo rằng: "Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa
cách mạng tiến lên". Bằng cách đó, CNXH hiện thực mới có thể tồn tại và
phát triển.
Như thế, dân chủ không chỉ là quyền lực thuộc về nhân dân, làm cách
mạng không chỉ là trao quyền làm chủ cho nhân dân lao động là đủ mà quan
trọng hơn là bằng phương pháp quản lý dân chủ mà "làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm". Tư tưởng ấy có sức mạnh khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
1.2.2 Bản chất của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bất kỳ lý thuyết dân chủ nào cũng lấy vấn đề địa vị của dân làm hịn
đá tảng. Q trình phát triển dân chủ cũng chính là q trình đấu tranh,
giành giữ cho được địa vị của dân bằng những thiết chế chính trị xã hội cụ
thể phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thể hiện cho được giá

20


trị của dân chủ trong thực tiễn, đó là hịn đá thử vàng cho thấy nền dân chủ
là đích thực hay giả hiệu.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất

là dân, vì dân là chủ" [20, 515]. Khẳng định điều đó tức là Người đã xác
định trên thực tế địa vị người chủ của nhân dân đối với xã hội, đất nước.
Đây là sự khẳng định quan trọng thể hiện sự thay đổi mang tính cơ bản
trong vị thế, tư cách của nhân dân trong đời sống xã hội. Tuy nhiên giữa địa
vị "là chủ" và trình độ "làm chủ" của nhân dân trên thực tế có khoảng cách
rất lớn. "Là chủ" nhưng chưa hẳn đã có thể "làm chủ", bởi có thể chỉ là chủ
trên danh nghĩa chứ chưa được làm chủ trên thực tế. Từ "dân là chủ" đến
"dân làm chủ" là cả một quá trình phát triển và trưởng thành về năng lực
thực hành dân chủ của dân. Điều đó hồn tồn khơng dễ dàng, nếu khơng
nói là hết sức khó khăn, phức tạp.
Trước hết, dân chủ phải trở thành một hình thức tổ chức Nhà nước,
thơng qua tổ chức và quản lý của Nhà nước mà nhân dân thực hiện quyền
lực của mình đối với xã hội.
Trên thực tế, khơng có một nền dân chủ nào tồn tại bên ngồi Nhà
nước. Có thể có một Nhà nước nào đó, vào một lúc nào đó khơng dân chủ,
nhưng muốn cho dân chủ biểu hiện ra thì khơng thể thiếu Nhà nước. Tính
pháp lý và nhân văn của dân chủ phải bảo đảm thực hiện dân chủ trong thực
tế phổ biến của đời sống xã hội, cho số đông dân chúng. Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị
và thể chế Nhà nước dân chủ trong đó có thể chế dân chủ của Đảng, nhất là
khi Đảng cầm quyền. Người nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân
dân làm chủ" [21, 499]. Xây dựng thể chế thì trước hết phải xây dựng chính
quyền Nhà nước mà chính quyền đó phải là chính quyền dân chủ, người chủ
thực sự khơng ai khác chính là nhân dân. "Chính quyền dân chủ có nghĩa là
chính quyền do người dân làm chủ" [20, 365]. Đây không chỉ là khẳng định

21


một quan điểm, một tư tưởng chính trị mà nó cịn phải thể chế hóa thành

luật, bằng luật, trước hết là Hiến pháp - bộ luật cơ bản, tối cao của thể chế.
Hồ Chí Minh khơng chỉ đề cập tới vai trị của Nhà nước nói chung mà cịn
đặc biệt nhấn mạnh vai trị của Chính phủ, cơ quan hành pháp của Nhà
nước. Với chức năng hành pháp, Chính phủ điều hành, quản lý Nhà nước
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một Chính phủ tốt phải là Chính
phủ do dân cử ra, mỗi thành viên trong Chính phủ phải do dân trực tiếp lựa
chọn: "Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra" [19,
698]. Để xứng đáng với sự ủy thác, tin cậy của dân chúng thì Chính phủ
phải hành động vì lợi ích của dân "nhiệm vụ của Chính phủ là phải làm
người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [21, 361-362]. "Nhân dân có
quyền đơn đốc và phê bình chính phủ" [21, 368]. "Nếu chính phủ làm hại
dân thì dân có quyền đuổi chính phủ" [19, 60].
Thứ hai, Dân chủ không chỉ được xét với nghĩa là chế độ dân chủ
gắn liền với một Nhà nước tương ứng mà dân chủ còn được hiểu là một giá trị
xã hội.
Kết tinh của giá trị xã hội này của dân chủ là ở chỗ, các cuộc đấu
tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng giải phóng con
người, nâng cao vị trí con người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con
người ý thức và năng lực dân chủ, làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó,
nó được xác định như một lý tưởng nhân đạo, một giá trị nhân văn.
Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số
nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thơng qua đấu tranh cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân
dân. Đó là quyền dân chủ, quyền tự do, cơng bằng, bình đẳng thực sự của
quần chúng nhân dân. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị
của mình từ khi ý thức được nỗi nhục mất nước, ra đi tìm đường cứu nước
đến khi phải từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn

22



tột bậc là làm cho nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người đã làm tất cả để thực
hiện Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Người
đã rút ra một chân lý vĩnh hằng không chỉ cho dân tộc mà cịn cho cả nhân
loại "khơng có gì q hơn độc lập tự do". Trong "Tun ngôn độc lập" khai
sinh ra chế độ dân chủ cộng hịa ngày 2-9-1945, Người đã thể hiện ý chí và
quyết tâm của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do: "Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước độc
lập. Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy" [18, 56]. Đó chính là
tun ngơn về dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng và cơng bằng xã hội.
Nó thể hiện khát vọng chính đáng về quyền dân chủ và làm chủ của nhân
dân Việt Nam, khẳng định thành quả vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì dân chủ
mà nhân dân Việt Nam đã giành được với một ý chí quyết tâm khơng gì lay
chuyển nổi cùng tinh thần đồn kết muôn người như một của dân tộc Việt
Nam để giữ vững nguồn của cải vơ giá đó của nhân dân. Nhưng "nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì" [18, 56].
Vì vậy, tiêu ngữ "Việt Nam dân chủ cộng hòa, Độc lập - Tự do Hạnh phúc" có một ý nghĩa lịch sử thiêng liêng. Nó là mục tiêu phấn đấu
của cả dân tộc Việt Nam thể hiện đầy đủ, toàn diện nội dung nhân quyền và
dân quyền mà bất cứ quốc gia văn minh nào cũng phải hướng tới. Giải
phóng con người, thực hiện tự do và hạnh phúc của con người, đó là mục
tiêu phấn đấu cao nhất, thường xuyên chi phối mọi suy nghĩ và hành động
của Hồ Chí Minh.. Khi đặt câu hỏi: "Mục đích của CNXH là gì? Người đã
trả lời: Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [23,
271].

23



Bao giờ Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải chăm lo đến con người,
tạo điều kiện cho con người có những khả năng và điều kiện tốt nhất để phát
triển, phải chăm lo tới cuộc sống của con người, thấu hiểu tâm trạng, nguyện
vọng của quần chúng, tôn trọng nhân cách của từng người một. Đó là chiều
sâu của giá trị nhân văn của dân chủ.
Thứ ba, dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành
và phát triển một nhân cách trung thực, sáng tạo.
Ở đây nổi bật lên là tác dụng của dân chủ đối với sự phát triển các
năng lực trí tuệ và hình thành các chuẩn mực đạo đức con người. Với ý
nghĩa đó, dân chủ khơng chỉ là phạm trù chính trị mà cịn là phạm trù đạo
đức.
Hồ Chí Minh địi hỏi mỗi người cách mạng phải rèn luyện theo
những chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Làm kiểu mẫu "cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư" [20, 90]. Những phẩm chất đó của con
người mới, xa lạ với những cái xấu, cái ác: Tham ơ, lãng phí, quan liêu. Nó
là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân và là kẻ thù của nhân dân. Chủ nghĩa cá
nhân nó rất dễ dàng kéo người ta xuống dốc, mà xuống dốc thì dễ hơn lên
dốc như Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn chúng ta. Người đặc biệt chú
trọng việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân. Nhân cách trung thực và sáng tạo nêu trên chỉ có thể được
hình thành trong một môi trường xã hội dân chủ mà trước hết là dân chủ
trong kinh tế, dân chủ trong chính trị và dân chủ trong đời sống văn hóa tinh
thần. Người cũng đặc biệt chú trọng thực hiện yêu cầu tự do tư tưởng, giải
phóng tinh thần cho con người.
Nhờ có dân chủ mà những tiềm năng sáng tạo, những sáng kiến của
nhân dân được khai thác và phát huy. Hồ Chí Minh mượn câu nói mộc mạc
trong dân gian để thể hiện quan điểm và niềm tin của mình về sức mạnh làm
chủ của nhân dân: "Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu


24


cũng xong". Bí quyết để động viên và phát huy sức mạnh của nhân dân đó là
dân chủ: "Phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vơ cùng vơ tận.
Tun truyền, giáo dục, đồn kết, tổ chức được trí tuệ và lực lượng đó thì
việc gì khó mấy cũng làm được" [22, 506]. Đồng thời "phải thật sự tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân", "phải mở rộng dân chủ", "phải thực hành dân
chủ rộng rãi"... để thực hiện và phát huy dân chủ.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ dân chủ
Chế độ dân chủ (hay chế độ dân chủ chính trị) là một trong những
hình thức tổ chức Nhà nước. Theo Mác, chế độ dân chủ, đó là chun chính
cách mạng của giai cấp vô sản và Lênin nhấn mạnh rằng: Chun chính vơ
sản, đó là chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp
tất yếu đối với thiểu số bóc lột, thống trị, phản động là kẻ thù của nhân dân.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
giải thích mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính "như cái hịm đựng của
cải thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa. Khóa và cửa cốt để đề phòng
kẻ gian ăn trộm. Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chun chính là
cái chìa khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm khơng có khóa, nhà
khơng có cửa thì sẽ mất cắp hết. Nếu có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa,
thì dân chủ cũng cần phải có chun chính để giữ gìn lấy dân chủ" [23, 279].
Ở đây cái quan trọng nhất, quý báu nhất là dân chủ. Chuyên chính khơng
phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để bảo vệ dân chủ, chỉ là "cái khóa",
"cái cửa" mà thơi.
Đối với Hồ Chí Minh, trong xây dựng chế độ dân chủ, việc xây dựng
một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng bởi đó là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân trong thực tế. Trước hết, Hồ Chí Minh ln khẳng định Nhà nước

của ta là Nhà nước của dân. Ngay khi vừa giành được chính quyền (8-1945)
Người đã cùng tồn thể đồng bào lập tức bắt tay vào một công việc trọng đại
25


×