Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vấn đề NÂNG CAO đạo đức CÁCH MẠNG CHO dội NGŨ cán bộ LÃNH đạo, QUẢN lý NHÀ nước TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY ở nước TA (QUA THỰC tế ở KIÊN GIANG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.15 KB, 73 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng nước ta, cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, trước những biến
động lớn lao đầy phức tạp trên thế giới, cũng như yêu cầu phát triển
của đất nước, vai trò này càng trở nên to lớn hơn bao giờ hết.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước thúc đẩy đất nước phát triển theo
mục tiêu Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải có cả đức lẫn tài trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy rằng: "Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [32, 253].
Sau 30 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo số
đông cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ vững
được phẩm chất đạo đức cách mạng: yêu nước, yêu CNXH, chí công
vô tư, có lối sống lành mạnh, giữ gìn được phẩm chất của người cán bộ
cách mạng.
Tuy nhiên, trước những sự tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường, không ít cán bộ đã bị thoái hóa, biến chất, sự sa sút về đạo đức
của một bộ phận cán bộ này thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân phát triển
mạnh: kèn cựa địa vị, lợi dụng chức quyền trục lợi, tha hóa về lối
sống... Đáng chú ý sự suy thoái về phẩm chất này trong cán bộ đang có
chiều hướng gia tăng, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán
bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối
với chế độ.
1


Sự sa sút về phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản
lý, một mặt do sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhưng


mặt khác cũng phải thấy rằng do trong một thời gian dài chúng ta chưa
chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, buông
lỏng việc quản lý cán bộ và ít tạo môi trường thuận lợi cho việc phát
triển đạo đức.
Vậy việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói
chung, cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng đang là
một vấn đề hết sức bức bách hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài "Vấn đề nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Kiên Giang)" làm đề tài mong
muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng đã thu hút được rất
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đây là vấn đề rất lớn và
cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề còn đặt ra trước chúng ta nhiều
khía cạnh cần được tiếp tục làm rõ và đòi hỏi phải có tính thiết thực
hơn. Hơn nữa trên thực tế các luận án, các bài báo... xung quanh đề tài
này thường được nghiên cứu về dưới góc độ xây dựng Đảng, ít nghiên
cứu về phương diện triết học, nhất là chưa đi sâu vào khảo sát một loại
cán bộ cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở những yêu cầu mới về đạo đức và thực
trạng đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, luận văn làm rõ
2


sự cấp thiết của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong

điều kiện hiện nay.
- Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
+ Vạch ra yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước hiện nay (trên cơ sở khảo sát ở tỉnh Kiên Giang), từ
đó nêu ra những đòi hỏi khách quan của việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn cách
mạng mới.
+ Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đạo đức học Mác - Lênin; các quan điểm đạo đức của Đảng Cộng sản
Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của nghiên
cứu, thực hiện luận văn này.
- Đề tài kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên
cứu đã có.
5. Cái mới của luận văn
- Luận văn bước đầu đã xác định được một số yêu cầu cơ bản
về đạo đức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong tình hình
hiện nay.
3


- Phân tích góp phần làm rõ thêm một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ở
nước ta nói chung, ở Kiên Giang nói riêng trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Với kết quả đã đạt được, luận văn đã góp phần nhỏ bé vào
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước,
đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
- Luận văn có thể dùng tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy về môn đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

4


Chương 1
ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH

1.1. YÊU CẦU ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1.1. Vai trò đạo đức cách mạng của người cán bộ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề đạo đức của con người đã được mọi giai cấp, mọi xã
hội, mọi thời đại quan tâm. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, đạo
đức đã xuất hiện, từ đó dần dần được phát triển hoàn thiện trên cơ sở
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức bị quy định bởi
điều kiện kinh tế - xã hội và luôn luôn kế thừa và phát triển để tiến bộ
không ngừng.
Từ thế kỷ XVI trước công nguyên, Khổng Tử đã khuyên học trò

của mình "Tiên học lễ, hậu học văn". Ông mong muốn xã hội phát triển
bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Để thực
hiện được ý tưởng đó, ông đề ra nguyên tắc vua tôi, ông, bà, cha mẹ,
con cháu đều phải theo luật nước, phép nhà. Tuy không phải là người
đầu tiên bàn đến đạo đức, nhưng công lao chính của ông là đã tổng kết
được kinh nghiệm thực tiễn của đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây
dựng nên học thuyết đạo đức, trong đó chứa đựng nhiều nội dung: Đó
là ý thức với bản thân, ý thức với xã hội, đặt các mối quan hệ của con

5


người trong mối tương quan xã hội, cách ứng xử và hành vi của con
người...
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo phật do Thích
Ca Mâu Ni sáng lập cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề đạo đức. Cái cốt
lõi nhất trong hệ thống đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống
thiện, biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại, người ta đề cao những giá
trị đạo đức, như tính trung thực, lòng dũng cảm, sự trong sáng và cao
thượng trong tình bạn, tình yêu...
Ở nước ta, vấn đề đạo đức được đề cập rất sớm, từ trong các
truyền thuyết, ca dao, tục ngữ... nhân dân ta đã xây dựng những nguyên
tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức nhằm giáo dục con người, chăm làm,
chăm học để nâng cao trí tuệ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và có nhân
cách cao đẹp trong cuộc sống.
Theo quan điểm mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời tồn tại và biến đổi từ nhu
cầu của xã hội. Nhờ nó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình

cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của
xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân
với xã hội.
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ rất
phức tạp, đa dạng, chúng tồn tại đan xen nhau: quan hệ huyết tộc, nhân
chủng, các giới, các thế hệ, các giai cấp... mặt khác, do trình độ nhận
thức của mọi người cũng khác nhau, nên về tập tục, lợi ích, văn hóa,

6


trình độ phát triển cũng khác nhau. Để duy trì sự tồn tại và phát triển,
mỗi xã hội đòi hỏi phải xây dựng những nguyên tắc, chuẩn mực sống,
trên cơ sở đó con người tự ý thức, hành động. Nói cách khác là những
nguyên tắc đó được xây dựng trên cơ sở tính tự nguyện, tự giác của
mỗi người; biến thành ý thức xã hội để con người tự giác tuân theo.
Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có
tính lịch sử. Xã hội nào cũng cần hình thành những nguyên tắc sống để
con người tự nguyện tuân theo, nhằm đảm bảo trật tự xã hội, duy trì sự
tồn tại, phát triển của xã hội và của cá nhân. Trong cuộc sống, có
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi thời đại (sống
thiện, yêu quí lao động, trung thực) nhưng vẫn có những nguyên tắc,
chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ xã hội cộng sản nguyên thủy, đến xã hội chiếm hữu nô lệ, xã
hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, những yếu tố đạo
đức tiến bộ được hình thành và ngày càng phát triển. Đó là sự say mê
lao động, sáng tạo, đề cao tính trung thực, khiêm tốn, phẩm hạnh, danh
dự con người, căm ghét áp bức tàn bạo, ghét sự dối trá, sự tương trợ
hợp tác lẫn nhau, nguyên tắc bình đẳng về lợi ích và lao động. Những
yếu tố đạo đức tốt đẹp đó luôn đối lập với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hiếu

danh, lười biếng, ăn bám, xa hoa, lãng phí.
Như vậy đạo đức là một hiện tượng phổ biến của xã hội, của
mọi thời đại. Nó tồn tại một cách tất yếu khách quan nhằm điều chỉnh ý
thức, hành vi, quan hệ ứng xử của con người với nhau trong xã hội. Ở
đâu có con người thì ở đó có quan hệ đạo đức, và con người có nhu cầu
hướng tới những giá trị đạo đức, sống thiện, có ích, nhân đạo, làm tròn
các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội. Những giá trị đạo đức khi đã được

7


hình thành ở con người thì có tác động trở lại xã hội theo chiều hướng
tốt đẹp.
Đạo đức còn giúp cho con người hoàn thiện nhân cách của
mình. Những người có nhân cách bao giờ cũng có những phẩm chất
đạo đức cao quý. Trong các tiêu chuẩn giá trị làm nên cái đẹp của con
người, sự lựa chọn của nhân dân cũng hướng đến cái giá trị đạo đức
"Cái nết đánh chết cái đẹp", "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"...
Đạo đức là nhu cầu, là cội nguồn của hạnh phúc. Một xã hội
hạnh phúc chính là ở chỗ xã hội đã tạo ra những con người có ý thức,
có năng lực thực tiễn hành động vì người khác. Một người có lòng vị tha
hay giúp đỡ người khác chính là bản thân anh ta đã "làm phúc" cho mọi
người và chính anh ta cũng cảm thấy hạnh phúc. Những người gặp hoàn
cảnh éo le sẽ hạnh phúc biết nhường nào khi được người khác giúp đỡ
vô tư.
Nhờ có hành vi đạo đức tốt, con người mới đem lại hạnh phúc
cho người khác. Chủ thể đạo đức khi thực hiện hành vi đạo đức cũng
trở nên hạnh phúc. Người giúp đỡ người khác sẽ cảm thấy cuộc sống
của mình trở nên tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Người hạnh phúc nhất là
người biết đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác.

Lịch sử đã chứng minh đạo đức có vai trò tích cực trong đời
sống xã hội, nó như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu
tranh chống lại những cái ác, cái xấu đi ngược lại lợi ích của xã hội; nó
giữ gìn và phát triển những cái tốt, cái thiện, làm cho xã hội ngày càng
phát triển. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng đóng vai trò quan
trọng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền
con người, chống lại chủ nghĩa vô nhân đạo, bảo vệ môi sinh, chống
8


nghèo đói, tạo ra mọi khả năng và điều kiện thuận lợi để con người
thực hiện nhu cầu của mình.
Đạo đức còn là một tiêu chuẩn giá trị cao của đời sống con
người, nó loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người
đi tới cái tốt đẹp, cái thiện và cái tiến bộ.
Đối với mỗi con người, đạo đức là cơ sở, là nền tảng để xây
dựng lý tưởng sống, hướng con người xác định đúng mục đích sống.
Trong cuộc sống, người nào cũng đặt cho mình một câu hỏi: mình sống
như thế nào, vì mục đích gì? Tồn tại để làm gì?
Nói chung, người có đạo đức là người sống vì xã hội, sống vì
hạnh phúc của người khác, sống để cống hiến và đem lại lợi ích nhiều
nhất cho xã hội. Điều này không có nghĩa là quên lợi ích cá nhân. Bởi
vì, nếu không có cá nhân thì không thể có xã hội, nên sự tồn tại của cá
nhân là một tất yếu khách quan. Những điều kiện tồn tại của cá nhân
không thể bỏ qua, nhưng đó không phải là tất cả. Do đó, con người
sống phải vì lợi ích chung của xã hội và người khác, đó là một nhận
thức đầy tính nhân văn và cách mạng. Nó thể hiện quan niệm, tồn tại
của con người là mục đích chứ không phải đơn thuần là phương tiện
như những kẻ vụ lợi tham lam.

Đạo đức giúp cho con người sáng tạo ra hạnh phúc. Nếu con
người sinh ra chỉ biết hưởng thụ, sống thụ động, không có trách nhiệm
thì của cải tự nhiên sẽ bị nghèo nàn, khô kiệt và khan hiếm dần đi;
những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần sẽ không nảy sinh, họ luôn
nhìn đời bằng con mắt chán chường, cảm thấy sống thừa, vô vị. Còn
một khi con người đã xác định sống phải có lý tưởng để cống hiến tài

9


năng cho xã hội, thì mọi người sẽ tích cực tự giác làm việc, đem lại
những thành quả có ích cho xã hội, và cũng chính lúc đó con người
tạo ra những giá trị cao cho chính mình. Hạnh phúc chân chính biểu
hiện mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mối
quan hệ ấy thúc đẩy lẫn nhau, làm cho con người và xã hội ngày
càng phát triển.
Đạo đức còn làm cho mỗi người biết giữ gìn phẩm giá, danh dự
sống cao cả, biết hòa nhập, gắn bó với tập thể; tránh tư tưởng bè phái,
cục bộ, vị kỷ, cá nhân và những thói đạo đức giả.
Đạo đức đem lại cho con người niềm lạc quan yêu đời, nó phát
huy và khơi dậy ở con người tính tích cực tự giác, kiên trì khắc phục
khó khăn, khát khao vươn tới cuộc sống chân, thiện, mỹ.
Trải qua các quá trình lao động sáng tạo và cải biến xã hội, con
người càng thấy rõ hơn giá trị to lớn của đạo đức. Đạo đức không chỉ
đóng vai trò điều chỉnh ý thức và hành vi của con người mà còn có tác
dụng cảm hóa con người, giúp con người nhận thức và hành động theo
lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Đồng thời,
đạo đức còn làm thức dậy trong mỗi con người những tình cảm tốt đẹp,
đó là lòng nhân ái, tính trung thực thẳng thắn. Cùng với sự tiến lên của
xã hội, đạo đức sẽ có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giúp

con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội, đánh
giá tư cách, ý thức và hành vi của bản thân mình, làm cho hoạt động
của con người phù hợp với lợi ích của xã hội, của cộng đồng.

10


Xã hội muốn ổn định và phát triển, đòi hỏi phải xây dựng những
chuẩn mực đạo đức để giúp cho con người điều chỉnh hành vi của mình
nhằm đáp ứng những yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Chế độ xã hội nào cũng chú ý quan tâm đến cán bộ, vì nó liên
quan đến vận mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. Ở
nước ta, trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên
hàng đầu và giữ một vai trò hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý
nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và việc tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế
độ; vì cán bộ "vừa là người lãnh đạo lại vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị
đúng đắn. Nhưng để xây dựng đường lối đúng và làm cho đường lối đó
trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội
ngũ cán bộ vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [30, 269] và
"Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém", cán
bộ là cái dây chuyền của bộ máy nếu dây chuyền không tốt hoặc không
chạy thì động cơ dù tốt mấy thì toàn bộ máy cũng bị tê liệt.
Cán bộ là nhân tố quyết định trong việc thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng. Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm thành công sự
nghiệp đổi mới, nhưng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, ngoài sự tự

giác nhận thức, bảo vệ và kiên trì của toàn Đảng và của toàn dân, thì
cán bộ là nhân tố quyết định.

11


Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước và vận động tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Trong mỗi
giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng,
vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực để đáp ứng được sự đòi hỏi
của nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh có những thời
cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới.
Nhiệm vụ cách mạng mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng cao. Chính vì thế, trong điều kiện cách
mạng hiện nay, đạo đức cần phải được nhấn mạnh trong mỗi con người,
đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, làm cách mạng để cải
tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó
cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, người cán bộ có đạo đức cách
mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không lùi bước. Vì
lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc người
cán bộ sẽ không ngần ngại hy sinh lợi ích của cá nhân mình. Khi cần họ
sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Trong mọi
hoàn cảnh khi thuận lợi, thành công cũng như lúc gặp khó khăn gian

khổ họ luôn thể hiện tinh thần "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
12


không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Họ
ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao
động lên trên lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân, gương mẫu trong mọi công việc, biết hòa mình với quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, từ lời nói đến việc làm đều
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Như vậy, đạo đức không thể thiếu đối với mỗi người và càng
không thể thiếu đối với mỗi cán bộ. Nó giúp cho người cán bộ nhìn
đúng, làm đúng. Đạo đức cách mạng là động lực thôi thúc nội tâm của
người cán bộ vượt lên mọi khó khăn để nâng cao trình độ trí tuệ, không
có động lực này thì khó có thể nâng cao được trình độ cho bản thân,
hoặc nếu có thì rất có thể những hiểu biết và tài năng của họ được sử
dụng nhiều khi không đúng mục đích mà Tổ quốc và nhân dân mong
muốn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực,
phản ánh gần như toàn bộ những vấn đề quan trọng nhất của sự nghiệp
cách mạng nước ta. Nhưng có thể nói, vấn đề đạo đức của người cách
mạng được Người đặt ở vị trí hàng đầu và được nói đến nhiều nhất
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy Người rất đề
cao vai trò của đạo đức. Người coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ.
Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo
đức cách mạng, đạo đức làm người. Người nêu lên những tiêu chuẩn về

đạo đức cách mạng và chính Người là một kiểu mẫu về đạo đức cách
13


mạng. Khi đã trở thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh thấy có trách
nhiệm tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu
nước đúng đắn cho người cách mạng Việt Nam. Đồng thời, người
truyền thụ đạo đức cách mạng cho họ. Trong tác phẩm Đường cách
mệnh, ở chương đầu tiên, Người nêu: "Về tư cách người cách mệnh".
Tháng 10 năm 1947, khi Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc, Người
nhấn mạnh đến đạo đức mới, vì chỉ có thực hiện đạo đức mới thì người
cán bộ mới nhận thức đầy đủ ý thức trách nhiệm của mình và hoàn
thành nhiệm vụ của tập thể, của dân tộc, của giai cấp và của loài người.
Người nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân" [34, 252-253].
Trong sự nghiệp cách mạng, một trong những vấn đề Hồ Chí
Minh quan tâm hàng đầu là đạo đức. Suốt đời, Hồ Chí Minh luôn luôn
quan tâm đến việc giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng
cho những người yêu nước, cho thanh niên, cho quần chúng, đặc biệt là
cho cán bộ đảng viên. Phải khẳng định rằng, Hồ Chí Minh không chỉ là
người giáo dục đạo đức cách mạng, mà còn là hiện thân của đạo đức
cách mạng đã nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm, lo lắng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng
bởi vai trò của họ đối với quần chúng, đối với sự nghiệp cách mạng là
rất lớn. Người cho rằng, người cán bộ cách mạng phải có nhiều ưu
điểm, nhiều đức tính tốt, khái quát lại là phải có đạo đức cách mạng và


14


năng lực làm việc. Một cán bộ lãnh đạo quản lý tốt phải được xác định
trên cơ sở tổng hợp một cách biện chứng giữa hai mặt đức và tài. Xét
trong mối quan hệ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng
của người cán bộ là gốc, vì không có đạo đức cách mạng thì có giỏi
mấy cũng không làm được cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Đảng
và Nhà nước. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rèn luyện
đạo đức cách mạng và năng lực làm việc. Người cho rằng, quần chúng
nhân dân theo Đảng không phải vì cái mác "cộng sản" mà là vì tư cách,
đạo đức của người cán bộ cộng sản. Nội dung chủ yếu của đạo đức
cách mạng đó là: xây dựng chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa, chống
chủ nghĩa cá nhân, lao động tự giác, sáng tạo, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư... những tư tưởng đó của Người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và
Nhà nước ta.
Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên đề cao vị trí, vai trò
của đạo đức. Trước đây hàng chục thế kỷ Phật giáo, Khổng giáo, Lão
giáo đều đã đề cao vị trí của đạo đức, đặc biệt là Khổng giáo. Khổng
Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông chủ trương xây dựng một nền chính trị
đạo đức lấy chữ "nhân" làm nền tảng. Hồ Chí Minh đánh giá cao Nho
giáo chủ yếu ở đạo đức học. Người cho rằng "Học thuyết của Khổng
Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng đừng vì
thế mà nghĩ rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cũng giống như tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử. Hồ Chí Minh chỉ lấy cái hay, cái đúng
của Nho giáo ở chỗ nó đề cao đạo đức nhưng không phải là thứ đạo đức
trừu tượng mà là đạo đức của con người trần gian, đặc biệt là đạo làm
người "tu thân" của Nho giáo là để trở thành người có nhân, có đức. Về
15



mặt nào đó chữ "nhân" của Nho giáo cũng như quan niệm về đạo đức
của Khổng Tử dễ gần với chủ nghĩa nhân đạo mácxít. Nho giáo đề ra
"cần, kiệm, liêm, chính". Hồ Chí Minh cũng nói tới: Cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng với một nội dung khác về cơ bản. Quan điểm Nho giáo đề
ra "cần, kiệm, liêm, chính" là chỉ để người khác thực hiện chứ không
phải cho vua, chúa, quan lại phong kiến thực hiện, như Hồ Chí Minh đã
từng có nhận xét. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học mà
đúng hơn phải nói Người là nhà cách mạng về đạo đức. Người tiếp thu
tất cả những cái hay, cái đúng của Nho giáo về quan điểm đạo đức,
song về cơ bản, Người đã có sự cải tạo lại phát triển lên khiến nó trở
thành những giá trị phù hợp với thực tế Việt Nam, với đường lối cách
mạng nước ta. Từ đó ở Người hình thành một hệ thống quan điểm riêng
về đạo đức bổ sung cho quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tạo thành một triết lý phát triển lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng
cho cách mạng nước ta. Triết lý đạo đức Hồ Chí Minh là triết lý phát
triển hướng về con người, thực hiện sự nghiệp cách mạng để giải phóng
con người, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột. Đó cũng là triết lý
về đạo đức thể hiện sự đoàn kết tất cả mọi người cần lao trên thế giới
để thực hiện sứ mệnh cách mạng cao cả là giải phóng con người khỏi
áp bức bóc lột, khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu, để xây dựng một xã hội
phồn vinh, bình đẳng, dân chủ, văn minh.
Phải chăng, cũng từ bài học của bản thân là nhờ có tấm lòng yêu
nước, thương dân được xem như một động lực lớn, Hồ Chí Minh mới
xem đạo đức là cái gốc của người cách mạng, để từ đó Người đặt vấn
đề đạo đức có tầm quan trọng như một triết lý phát triển của xã hội nói
chung, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng. Ở đây còn có ý
16



nghĩa sâu xa nữa mà có lẽ chúng ta chưa phải ai cũng đã thấy hết, đó là
việc Hồ Chí Minh không chỉ đặt đối tượng của sự nghiệp cách mạng
mà mình theo đuổi là giải phóng con người, mà quan trọng là chủ thể
cách mạng cũng là con người. Con người nói ở đây không phải là một
siêu nhân nào đó có sứ mệnh giải phóng cho người khác mà chính là
người dân, người cùng khổ, người bị áp bức. Tóm lại, "số phận dân ta ở
trong tay ta, văn hóa soi đường cho quốc dân đi "như Hồ Chí Minh
khẳng định là với ý nghĩa đó. Nói văn hóa soi đường là nói đến tầm trí
tuệ của mỗi người, yêu cầu về dân trí, nhưng cũng là nói đến vai trò
của đạo đức. Bởi lẽ, nếu thiếu đạo đức thì dù có văn hóa con người
cũng không làm nên trò gì, hơn nữa, đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi
ở đây là đạo đức cách mạng. Bản chất đạo đức cách mạng đã tiềm ẩn
một nội lực khiến cho con người phải vươn lên không ngừng để thực
hiện những hoài bão của mình. Hồ Chí Minh là một tấm gương như vậy
và Người mong muốn mọi người cũng như mỗi người, nghĩ đến thân
phận của mình và số phận của dân ta thì trước hết phải tự mình nâng
mình lên, tự mình phát huy mọi tiềm năng mà mình có được để phụng
sự cho nước, cho dân trong đó có bản thân mình.
Hồ Chí Minh được mọi người tôn vinh là siêu nhân và chính
Người đã có nhiều công lao vĩ đại đối với đất nước ta, nhân dân ta và
cả thế giới. Thế nhưng Hồ Chí Minh lại không bao giờ xem mình là
siêu nhân. Điều đó chẳng những xuất phát từ phẩm chất khiêm tốn của
Người mà còn xuất phát từ một quan niệm về triết lý phát triển, xem sự
nghiệp cách mạng là công việc của mọi người, của dân và do dân. Một
người dù tài giỏi đến mấy nếu không có nhân dân cũng không làm gì
được. Chỉ có nhân dân mới là nhân tố quyết định của phát triển. Đó là
17



một quan điểm mới về triết lý phát triển mà không phải ai cũng thấy,
cũng quán triệt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng của
mình. Đây là một nội dung đạo đức hết sức quan trọng hầu như chúng
ta chỉ thấy rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi lẽ, Hồ Chí Minh không
chỉ nói mà chính Người đã làm như vậy. Bản thân người là một hình
ảnh sinh động của triết lý xem đạo đức như một động lực của phát triển
xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng nước ta nói riêng.
Nhìn lại thực tế lịch sử của dân tộc, chúng ta có thể thấy rõ chỉ
những triều đại nào biết dựa vào dân, coi dân thực sự là gốc của nước,
dân mới là sức mạnh "vừa có khả năng đẩy thuyền vừa có khả năng lật
thuyền", thì triều đại đó sẽ chẳng những đứng vững được mà còn vượt
qua được những sóng gió, giữ cho đất nước được độc lập, thịnh vượng,
nhân dân được tự do. Đó là những tấm gương của Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung và nhiều vị vua hiền, tôi giỏi khác.
Đương nhiên, không chỉ có đạo đức mà phải nói đến tài năng vốn được
xem là một điều kiện cũng có vai trò quyết định trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Song, như Hồ Chí Minh đã từng nói giữa
đức và tài thì đức cần có trước, bởi lẽ, nếu không có đức thì dù có tài
cũng không thể làm gì, thậm chí có tài mà không có đức có khi còn trở
thành tai họa cho dân, cho cách mạng.
Nhìn lại sự nghiệp cách mạng nước ta từ sau Cách mạng tháng
Tám đến nay, chúng ta càng thấy rõ quan điểm xem "đạo đức là gốc
của người cách mạng" của Hồ Chí Minh quan trọng và đúng đắn như
thế nào. Có thể trước đây khi nói đến quan điểm xem đạo đức là gốc
của người cách mạng, có người còn e ngại nghĩ rằng chắc Hồ Chí Minh
chịu ảnh hưởng của Nho giáo nên mới đề cao vai trò của đạo đức như
18


vậy. Nhưng đến nay, sau những thực tiễn sinh động, nhất là sau thời kỳ

đất nước đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, đồng thời có sự mở cửa giao lưu, hội nhập với
thế giới chúng ta mới thấm thía với những quan điểm đúng đắn của Hồ
Chí Minh trong việc đề cao vai trò của đạo đức.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn tiếp tục nhấn mạnh "Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư... Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên"... Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân [33, 510-511].
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước,
những yêu cầu đạo đức của họ trong giai đoạn hiện nay
Cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước là gì? Nó khác với những
loại cán bộ khác như thế nào? Đây là những vấn đề chưa thật được giới
nghiên cứu quan tâm. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành Trung ương (khóa VIII), khi nói về tiêu chuẩn của các loại cán
bộ, Đảng ta đã phân cán bộ thành bốn loại: cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ
khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh. Như vậy ở đây cán
bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước chưa được phân thành một loại cán bộ
riêng biệt trong mối quan hệ với các loại cán bộ khác. Điều đó chứng tỏ
19


loại cán bộ này vẫn có những đặc điểm chung với các loại cán bộ khác,
nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng và các đoàn thể nhân dân.

Ngay việc phân biệt hai thuật ngữ "lãnh đạo" và "quản lý"
hiện nay cũng đang có nhiều cách phân biệt và có nhiều quan điểm
khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, lãnh đạo chỉ là một bộ phận, một chức
năng của công tác quản lý. Nghĩa là, quản lý bao trùm trong nó cả công
tác lãnh đạo. Đối với nhà quản lý, lãnh đạo chỉ là một trong những
phẩm chất mà thôi.
Cũng có quan điểm lại cho rằng, "lãnh đạo" bao gồm trong nó
cả "quản lý", "quản lý" chỉ là một bộ phận hay một khía cạnh của
"lãnh đạo".
Theo Từ điển tiếng Việt (1992): "lãnh đạo là đề ra chủ trương,
đường lối và tổ chức, đảng viên thực hiện" [42, 540]; còn "quản lý" - một
là: trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, hai là: tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [42, 789].
Nếu theo cách hiểu trong Từ điển tiếng Việt thì rõ ràng lãnh đạo
bao trùm lên quản lý và quản lý chẳng qua là thực thi một nhiệm vụ
nào đó được cấp trên chỉ đạo, được lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý không
chỉ là một bộ phận cấu thành công tác lãnh đạo mà quản lý thực chất là
sự triển khai cụ thể của lãnh đạo.
Trong luận văn này chúng tôi không có ý phân biệt giữa lãnh
đạo và quản lý. Hai thuật ngữ này được dùng đôi khi thay thế nhau
trong các văn cảnh tương thích không phân biệt.

20


Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở đây chúng tôi muốn nói tới
những người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn mà
Nhà nước giao cho để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà nước, quản
lý, điều tiết xã hội. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước có

liên quan tới khái niệm cán bộ công chức Nhà nước.
Cán bộ công chức Nhà nước bao gồm những người trong biên
chế, hoặc được tuyển dụng, bổ nhiệm. Họ là những người hoặc được
giao nhiệm vụ thường xuyên, hoặc những người do bầu cử để đảm
nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và
làm việc trong các nhiệm sở của Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã
hội; những người là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp đang làm việc
trong các cơ quan quân đội, công an. Như vậy đội ngũ cán bộ, công
chức không phải chỉ có những người làm việc trong các cơ quan hành
chính Nhà nước, mà cả những người làm việc trong các cơ quan Nhà
nước khác, miễn là họ có đặc điểm chung: giữ một công việc thường
xuyên, được xếp vào ngạch bậc cán bộ công chức nhà nước và được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Thực tiễn lãnh đạo, quản lý nhà nước trong thời gian qua đã
khẳng định rằng muốn công việc Nhà nước được thông suốt, thống
nhất, kịp thời, linh hoạt không thể không cần có một đội ngũ cán bộ,
công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm chất và năng lực.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ,
quyền hạn để thực thi quyền lực của Nhà nước. Trong chế độ ta chức
vụ quyền hạn, quyền lực Nhà nước không phải là của bản thân người
cán bộ, của bản thân Nhà nước. Quyền lực Nhà nước vốn là quyền lực
công cộng của xã hội, của nhân dân "trao cho", ủy nhiệm cho. Những
21


người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước được nhân dân và xã hội "ủy
nhiệm" thay mặt xã hội, thay mặt nhân dân để quản lý xã hội.
Xã hội muốn vận động, phát triển đòi hỏi phải có sự tổ chức và
quản lý chặt chẽ. Xét về nguyên tắc và xu thế phát triển thì mọi thành
viên trong xã hội đều tham dự vào quá trình này. Đây là xu thế tất yếu

trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực tế, thực hiện đầy đủ nguyên
tắc này lại là một quá trình lịch sử lâu dài, đòi hỏi quần chúng nhân dân
phải có một mặt bằng dân trí cao và có một trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa cao. Lúc đó việc quản lý nhà nước sẽ không còn là "chức năng
đặc biệt của lớp người đặc biệt" nữa. Trong tình hình hiện nay, nhất
là ở nước ta còn rất cần thiết phải có một bộ máy quản lý chuyên
nghiệp bao gồm một đội ngũ cán bộ, viên chức thành thạo chuyên môn
nghiệp vụ quản lý, tận tâm tận lực phục vụ lợi ích chung của nhân dân,
của xã hội.
Như vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước vẫn là một tầng lớp
đặc biệt được trao cho những quyền hạn và quyền lực nhất định, nhưng
quyết họ không phải là tầng lớp đặc biệt "có đặc quyền đặc lợi". Sử
dụng chức quyền và việc lợi dụng, lạm dụng chức quyền là hai vấn đề
hoàn toàn khác nhau.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là Nhà
nước mà tất cả quyền lực của nó đều thuộc về nhân dân. Khi nói về bản
chất của Nhà nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Quyền hành và lực lượng
đều ở dân" [34, 199].
22


Để thể hiện và thực hiện được bản chất của Nhà nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ Nhà nước phải là "công bộc", là
"người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Được nhân dân "ủy quyền", "trao cho" do đó Nhà nước, cũng
như cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ,
quyền hạn, có quyền lực trong xã hội và do đó cũng rất dễ dẫn tới sự

chuyển hóa từ chỗ là công bộc, công cụ của nhân dân trở thành "ông
chủ" đứng lên trên xã hội đè đầu cưỡi cổ nhân dân; rất dễ coi quyền
lực được ủy quyền là quyền lực của mình và sử dụng nó nhằm mục
đích trục lợi. Do đó, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
bên cạnh những yêu cầu cần phải có năng lực để thực thi nhiệm vụ,
còn đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, tận tâm vì tập
thể, hết lòng hết sức vì nhân dân, có tinh thần trách nhiệm cao nhất
trước nhân dân.
Trong suốt quá trình cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã hết sức quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán
bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng. Nói về tiêu
chuẩn của người cán bộ, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc.
Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi
mới, nhưng cũng có nhiều khó khăn thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị
mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đặt ra rất nhiều vấn đề cho công
tác cán bộ, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang
tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và

23


tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng những yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng mới. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 3 (khóa VIII) đã đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán
bộ là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có tinh thần phục vụ nhân dân,

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện
có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật,
trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân
tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có
trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, trước sự cám dỗ
của tiền tài, vật chất, trước những đòn tiến công hiểm độc của các thế
lực thù địch, nhiều cán bộ lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, bị
thoái hóa biến chất về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống... thì việc
tiếp tục nhấn mạnh đức là gốc là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
Từ đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định quan
điểm, đường lối của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách

24


mạng. Đạo đức cách mạng được hình thành và phát triển trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa truyền
thống đạo đức của dân tộc. Đó là sự kết hợp giữa bản chất cách mạng
của giai cấp vô sản, những tinh hoa của văn hóa, văn minh nhân loại và
những nét ưu việt trong truyền thống đạo đức của dân tộc. Sự kết hợp
đó tạo nên một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Muốn
xây dựng được nền đạo đức mới cho toàn xã hội thì trước hết đội ngũ
cán bộ của Đảng và Nhà nước phải là lực lượng tiên phong, là tấm

gương cho toàn thể quần chúng nhân dân. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ
vang của mình thì mỗi cán bộ phải không ngừng học tập, rèn luyện,
trau dồi phẩm chất cách mạng.
Đạo đức cách mạng không phải là những tiêu chuẩn trừu tượng,
mà gắn với yêu cầu đặc điểm của từng thời kỳ cách mạng. Trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những yêu cầu
đặt ra về phẩm chất đạo đức của người cán bộ nói chung và của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng là:
Thứ nhất, Có lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng
vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội; phấn đấu tích cực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Phẩm chất này là cái gốc của người cán bộ nói chung và người
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng, là chuẩn mực và giá trị
cao nhất về đạo đức cách mạng của người cán bộ, nó phải được trở
thành tình cảm và ý chí cách mạng của mỗi người cán bộ. Bởi vậy, sự

25


×