Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

48 THÀNH KIẾN NHẬN THỨC sẽ làm đảo lộn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 35 trang )

48 THÀNH KIẾN NHẬN THỨC SẼ LÀM
ĐẢO LỘN, PHÁ HỎNG MỌI THỨ CHÚNG
TA LÀM
rubi | February 18, 2016 | Nhận Thức & Hành Vi | 1 Comment

Chúng ta thích xem mình là những người có lý trí. Trên thực tế, chúng ta có xu hướng mắc phải
hàng trăm thành kiến đã được chứng minh là khiến chúng ta suy nghĩ và hành động một cách vô lý.

Nghiên cứu về con người thường xuyên làm những việc phi lý trí như thế nào đã đủ giúp cho nhà
tâm lý học Daniel Kahneman giành được giải Nobel kinh tế, và nó mở ra lĩnh vực về kinh tế học
hành vi đang phát triển nhanh chóng. Những hiểu biết sâu sắc tương tự cũng định hình lại tất cả
mọi thứ từ marketing cho đến ngành tội phạm học.
Hy vọng giúp bạn lần ra manh mối của những thành kiến đó đã định hình các quyết định của bạn
như thế nào, chúng tôi đã thu thập được một danh sách dài gồm những thành kiến nhận thức đáng
chú ý nhất.

1. CẢM XÚC SUY NGHIỆM (AFFECT HEURISTIC)


Cách bạn cảm nhận ảnh hưởng đến cách bạn giải thích thế giới.
Lấy ví dụ, nếu các từ rake, take, và cake chạy nhanh qua màn hình máy tính trong 1/30 giây.
Bạn sẽ nhận ra từ nào?
Nếu bạn đang đói, nghiên cứu cho rằng tất cả những gì bạn thấy là cái bánh (cake).

2. THÀNH KIẾN “BÁM CHẶT” MỘT ĐIỂM/ MỎ NEO (ANCHORING
BIAS)

Đố bạn biết Abraham Lincoln sinh vào thời gian nào? Nếu năm sinh của ông này không bật ra từ bộ
nhớ của bạn ngay tức thì, và pin chiếc smartphone của bạn thì vừa mới tịt, làm sao bạn trả lời câu
hỏi trên được? Có thể bạn biết rằng ông này là Tổng thống trong thời Nội Chiến Nam Bắc hồi những
năm 1860 và ông là Tổng thống Mỹ đầu tiên bị ám sát. Khi nhìn vào Đài tưởng niệm Lincoln tại


Washington, bạn không thấy một chàng thanh niên trẻ trung, hoạt bát, nhưng là một thứ gì đó gần
giống hơn với một cựu chiến binh sáu chục tuổi đầy mệt mỏi. Đài tưởng niệm một danh nhân phải
miêu tả ông ta vào đỉnh cao quyền lực chính trị, tức ở đây là vào tuổi 60. Ta cùng giả định rằng
Lincoln bị ám sát vào giữa thập niên 1860, nên ta đoán 1805 hẳn là năm ông sinh ra đời (đáp án
đúng là năm 1809). Vậy ta đã giải quyết vấn đề ra sao? Ta tìm thấy một chiếc mỏ neo (anchor) để
giúp chúng ta – năm 1865 – và từ đó ta đưa ra một dự đoán có học thức.


Bất cứ khi nào ta phải đoán một thứ gì đó – độ dài sông Mississippi, mật độ dân số ở Nga, số nhà
máy hạt nhân ở Pháp – ta sử dụng những chiếc mỏ neo. Chúng ta bắt đầu với một thứ gì đó mà
chúng ta chắc chắn và từ đó dấn thân vào lãnh địa xa lạ. Ta có thể làm khác đi không nào? Chỉ cần
chọn một con số nảy ra từ trong óc mình chăng? Điều đó hẳn thật là phi lý.
Thật không may, chúng ta cũng dùng những chiếc mỏ neo vào những khi ta không cần đến. Lấy ví
dụ, một hôm nọ, trong giờ giảng, một giáo sư đặt một chai rượu nho lên bàn. Ông yêu cầu các sinh
viên của mình viết ra 2 chữ số cuối trong số Mã An Sinh Xã Hội (Social Security Number) của họ, rồi
sau đó xác định xem liệu họ có sẵn lòng trả mức tiền tương ứng 2 chữ số trên để mua chai rượu
vang nọ. Trong cuộc bán đấu giá sau đó, các sinh viên có những con số cao hơn đặt mức giá gần
như gấp đôi số sinh viên với những con số thấp hơn. Những chữ số An sinh Xã hội hoạt động như
một chiếc mỏ neo – mặc dù theo một cách ẩn khuất và sai lệch.
Nhà tâm lý học Amos Tversky đã tiến hành một thí nghiệm trong đó có một bánh xe may mắn (wheel
of fortune). Ông mời những người tham dự quay nó một lượt, sau đó phỏng vấn họ xem nước Mỹ
có bao nhiêu tiểu bang. Dự đoán của họ xác nhận cho hiệu ứng mỏ neo: Những ước đoán cao nhất
đến từ những người đã quay trúng những con số cao trên bánh xe.
2 nhà nghiên cứu Russo và Shoemaker đã hỏi các sinh viên có biết Bạo chúa Attila của nước Hung
Nô bị thất bại liểng xiểng tại châu Âu vào năm nào? Cũng như ví dụ về Số An sinh Xã hội ban nãy,
những người tham dự bị neo lại – lần này là bởi vài con số cuối trong số điện thoại di động của họ.
Kết quả là gì? Người nào có số cao hơn chọn những năm sau đó và ngược lại. (Nếu bạn muốn biết
thì vua Attila băng hà vào năm 453.)
Một thí nghiệm khác: Các sinh viên và những người môi giới bất động sản chuyên nghiệp thực thụ
được đi tham quan một ngôi nhà và họ phải ước tính giá trị căn nhà đó. Sẵn trước đó, họ được

cung cấp thông tin về giá bán đã niêm yết (được tạo ngẫu nhiên). Đúng như kỳ vọng, hiệu ứng mỏ
neo đã ảnh hưởng lên các sinh viên: giá bán càng cao, họ ước tính tài sản càng cao giá. Còn dân
chuyên nghiệp thì sao? Liệu họ có định giá căn nhà một cách khách quan? Không, họ bị ảnh hưởng
tương tự từ một giá mốc ngẫu nhiên. Giá trị một thứ gì đó càng không chắc chắn-như là bất động
sản, cổ phiếu, hoặc nghệ thuật – kể cả các chuyên gia cũng càng dễ bị ảnh hưởng với những mốc
neo hơn.


Mỏ neo thì nhan nhản, còn ta thảy đều bám chặt lấy chúng. “Giá bán lẻ đề xuất” in trên nhiều sản
phẩm chẳng là gì hơn là một chiếc neo. Các chuyên gia bán hàng biết rằng họ phải thiết lập một
mức giá ngay từ giai đoạn đầu – rất lâu trước khi họ nhận được một lời đặt hàng. Tương tự, người
ta chứng minh rằng nếu như các giáo viên biết được học lực của học trò trong quá khứ, việc đó sẽ
ảnh hưởng lên cách họ đánh giá học lực tương lai của chúng. Thứ hạng gần đây nhất đóng vai trò
như một điểm khởi đầu.
Trong những năm mới vào nghề của mình, tôi có một sự hạn chế nhanh chóng (quick stint) tại một
công ty tư vấn. Sếp của tôi là một dân pro khi vận dụng các mốc neo. Trong cuộc đàm thoại đầu tiên
với mọi khách hàng, ông đảm bảo chốt một mức giá khởi điểm, theo đó, giá thành này gần như
vượt quá các mức giá nội bộ của chúng tôi: “Tôi sẽ nói với ngài điều này ngay bây giờ để ngài bớt
ngạc nhiên khi nhận được báo giá, thưa Ông-A-hay-B-gì-đó: Chúng tôi vừa mới hoàn thành một dự
án tương tự cho một trong những đối thủ cạnh tranh của ngài và chi phí tầm 5 triệu đô la.” Chiếc
neo đã được thả xuống: Chuyện thương lượng giá cả bắt đầu chính xác từ con số 5 triệu.

3. THÀNH KIẾN XÁC NHẬN (CONFIRMATION BIAS)
Chúng ta có xu hướng chỉ nghe những thông tin xác minh những định kiến của chúng ta – đó là một
trong nhiều lý do tại sao quá khó để có một cuộc trò chuyện thông minh về biến đổi khí hậu.
Gil muốn giảm cân. Anh chọn cho mình một chế độ ăn kiêng và kiểm tra quá trình của anh theo một
thang đo vào mỗi sáng sớm. Nếu anh giảm được vài cân, anh tự khen ngợi mình và cho rằng mình
đang ăn kiêng đúng. Nếu anh tăng cân lại, anh coi nó như biến đổi thường ngày rồi lờ nó đi. Vài
tháng sau, anh chìm trong ảo giác rằng anh đã ăn kiêng tốt, dù khối lượng cơ thể anh vẫn giữ
nguyên. Gil là một nạn nhân của thiên kiến xác nhận – mặc dù đây là dạng thức vô hại của nó.

“Thiên kiến xác nhận” là mẹ của tất cả quan niệm sai lệch. Đó là xu hướng diễn dịch thông tin mới
sao cho thông tin ấy trở nên hợp lệ với các lý thuyết, niềm tin (conviction) và tín ngưỡng (belief) có
sẵn. Nói cách khác, chúng ta lọc bỏ bất cứ thông tin mới nào mâu thuẫn với quan điểm hiện có của
mình. (“chứng cớ phản bác”). Đây là một thực tế nguy hiểm. Nhà đầu tư tài giỏi Warren Buffet nhận
định: “Điều con người đang làm tốt nhất là diễn dịch mọi thông tin mới sao cho các kết luận trước đó
của họ vẫn nguyên vẹn.”
Thiên kiến xác nhận sống khỏe v à sống tốt trong thế giới kinh doanh. Một ví dụ: Một nhóm điều
hành quyết định chọn một chiến thuật mới. Nhóm này ăn mừng nhiệt liệt bất cứ dấu hiệu nào cho
thấy chiến thuật đang thắng lợi. Bất cứ nơi nào mà nhóm điều hành trông thấy, họ thấy đủ các bằng
chứng xác nhận, trong khi các dấu hiện về phần ngược lại hoặc bị vô hình trong mắt họ hoặc nhanh


chóng bị lờ đi như là những “ngoại lệ” hoặc “trường hợp đặc biệt”. Họ mù quáng trước các chứng
cớ phản bác.
Bạn có thể làm gì? Nếu nghe ai đó thốt lên từ “ngoại lệ, thì hãy dỏng tai lên. Thường thì nó đang
che giấu sự hiện diện của các bằng chứng phản bác. Ta nên nghe lời khuyên hữu ích của Darwin:
Từ hồi còn trẻ, ông đã chuẩn bị để chiến đấu với thiên kiến xác nhận một cách hệ thống. Bất cứ khi
một quan sát nào đó mâu thuẫn với lý thuyết của ông, ông tiếp nhận chúng một cách hết sức
nghiêm túc và ghi chép ngay vào sổ của mình. Ông biết rằng não bộ chủ động “quên” các bằng
chứng phản bác sau một thời gian ngắn. Khi xét thấy lý thuyết của mình càng ngày càng đúng, ông
càng chủ động tìm kiếm các mâu thuẫn.

4.

HIỆU

ỨNG

BANDWAGON
Xác suất một người tin theo một niềm tin tăng lên dựa vào số lượng người tin vào niềm tin đó. Đây

là một hình thức mạnh mẽ của tư duy tập thể (groupthink) – và đó là một lý do tại sao các cuộc họp
là rất vô ích.

5. ĐIỂM MÙ ĐỊNH KIẾN (BIAS BLIND SPOTS)


Không nhận ra những thành kiến nhận thức của bạn cũng là một thành kiến.
Nhà tâm lý học trường Princeton, Emily Pronin phát hiện thấy “các cá nhân nhìn thấy được sự tồn
tại và hoạt động của những thành kiến nhận thức và động cơ ở những người khác nhiều hơn ở
chính bản thân họ.”

6. THÀNH KIẾN ỦNG HỘ SỰ LỰA CHỌN (CHOICE-SUPPORTIVE
BIAS)


Khi bạn lựa chọn một thứ gì đó, bạn có xu hướng cảm thấy tích cực về thứ đó, ngay cả nếu sự lựa
chọn của bạn có những sai lầm. Bạn nghĩ rằng con chó của bạn là tuyệt vời – ngay cả nếu nó thỉnh
thoảng cắn người khác – và những con chó khác là ngu ngốc vì chúng không phải chó của bạn.

7. ẢO GIÁC GOM NHÓM (CLUSTERING ILLUSION)
Đây là xu hướng nhìn thấy những kiểu mẫu trong những sự kiện ngẫu nhiên.
Vào năm 1957, ca sĩ opera người Thụy Điển Friedrich Jorgensen mua một máy chơi băng để ghi lại
giọng của mình. Khi ông nghe lại đoạn thâu âm, ông nghe thấy những tiếng nhiễu kỳ lạ trong đó, thì
thầm như những thông điệp siêu nhiên. Vài năm sau đó, ông thu âm tiếng chim hót. Lần này, ông
nghe thấy giọng người mẹ đã khuất của ông trong âm thanh nền đang thì thầm với ông: “Ôi! Fried
bé bỏng của mẹ, con nghe tiếng mẹ chứ? Mẹ đây con.” Vậy đấy. Đời Jorgensen thay đổi từ lúc đó
và ông đã dành trọn đời mình để liên lạc với người đã khuất qua những đoạn băng ghi âm.
Vào năm 1994, Diane Duyser từ bang Florida cũng có một cuộc gặp gỡ với thế giới bên kia. Sau khi
cắn một mẩu bánh nướng và đặt lại xuống đĩa, bà thấy khuôn mặt của Đức Mẹ Đồng Trinh trên đó.
Bà dừng ăn tức thì và cất thông điệp thần thánh (trừ miếng bị cắn) vào một chiếc hộp plastic. Vào

tháng 11 năm 2004, bà bán đấu giá bữa ăn vẫn còn được bảo quản kỹ lưỡng của mình trên eBay.
Miếng ăn của bà đem lại chủ nhân của nó 28,000 Đô-la Mỹ.


Diane Duyser và chiếc bánh có mặt Đức Mẹ Đồng Trinh
Vào năm 1978, một phụ nữ từ New Mixeco cũng có trải nghiệm tương tự. Các điểm đen trên chiếc
bánh tortilla của bà hợp thành khuôn mặt Chúa Jesus. Báo chí đã đeo bám câu chuyện này, và
hàng ngàn người lũ lượt kéo đến New Mexico để xem đấng cứu thế dưới hình hài chiếc bánh
buritto. 2 năm trước đó, tức năm 1976, tàu vũ trụ Viking đã chụp từ trên cao một thành hệ đá (rock
formation) trông như mặt người. “Khuôn mặt trên sao Hỏa” trở thành tít chạy trên khắp mặt báo thế
giới.


Tortilla có mặt chúa Jesus
Còn bạn? Có bao giờ bạn thấy những khuôn mặt trong những đám mây hay viền nét của những
loài thú trên những tảng đá? Tất nhiên rồi. Điều này hoàn toàn bình thường. Não người cố tìm kiếm
các khuôn mẫu và quy tắc. Thực tế là, não lại tiến thêm một bước xa hơn: Nếu nó không tìm thấy
khuôn mẫu quen thuộc nào, nó đơn giản sẽ tự sáng chế ra vài cái. Tín hiệu càng nhòe (diffuse), như
là nhiễu nền trong băng ghi, não càng dễ tìm thấy “các thông điệp ẩn” trong đó. 25 năm sau khi
người ta phát hiện “khuôn mặt trên sao Hỏa”, tàu thăm dò Sao Hỏa (Mars Global surveyor) gửi về
các hình ảnh rõ nét, sinh động về các thành hệ đá: khuôn mặt người quyến rũ hóa ra là những quả
đồi nham nhở mà thôi.
Những ví dụ phù phiếm trên đây khiến cho ảo giác gom nhóm (clustering illusion) có vẻ vô hại;
nhưng thực ra là không. Lấy thị trường chứng khoán làm ví dụ, vốn cho ra những cơn lũ thông tin
vô tích sự mỗi giây. Cười toét mang tai, anh bạn tôi bảo rằng y vừa khám phá ra một khuôn mẫu
trong biển dữ liệu kia: “Nếu anh nhân tỷ lệ phần trăm sự thay đổi của Dow Jones với tỷ lệ phần trăm
sự thay đổi của giá dầu, anh sẽ biết được sự dịch chuyển giá vàng trong vòng 2 ngày tới.” Nói cách
khác, nếu giá cổ phiếu và giá dầu cùng nhau lên hay xuống, giá vàng sẽ lên trong ngày sau ngày
mai. Lý thuyết của anh bạn tôi hoạt động tốt trong vài tuần, cho đến khi anh bắt đầu đầu cơ với một
tổng số lớn hơn trước giờ và cuối cùng phung phí hết số tiết kiệm của ảnh. Anh đã cảm nhận một

khuôn mẫu ở nơi vốn không tồn tại.
oxxxoxxxoxxoooxooxxoo. Đây là chuỗi ngẫu nhiên hay có định trước? Giáo sư tâm lý học Thomas
Gilovich đã phỏng vấn hàng trăm người với câu hỏi này. Hầu hết không muốn tin rằng chuỗi trên
được sắp xếp tùy ý. Họ đoán hẳn phải có một luật nào đó chi phối thứ tự các ký tự trên. Sai lầm,
theo như Gilovich giải thích, và ông chỉ ra cho thấy trong trò tung xúc xắc: Có thể tung ra cùng một


con số đến 4 lần liên tiếp khá dễ, điều này làm một số người bị mê hoặc. Hiển nhiên chúng ta gặp
rắc rối trong việc chấp nhận những sự kiện như vậy có thể diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên.
Trong thế chiến II, quân Đức thả bom London. Trong các loại vũ khí, họ dùng các tên lửa V1, một
loại máy bay không người lái tự dẫn đường (self-navigating drone). Với mỗi đợt tấn công, những
vùng ảnh hưởng được đánh dấu cẩn thận trên bản đồ, và người London khiếp hãi: Họ nghĩ rằng họ
khám phá được một khuôn mẫu và phát triển các lý thuyết về các vùng trong thành phố sẽ là nơi an
toàn nhất. Tuy vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, các khảo sát thống kê xác nhận rằng sự phân phối
trên hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngày nay nguyên nhân lý giải điều này khá rõ ràng: Hệ thống dẫn
đường của tên lửa V1 vô cùng kém chính xác.
Khi nhận thức về một khuôn mẫu nào đó, chúng ta thường nhạy cảm thái quá. Hãy khôi phục thái
độ hoài nghi của bạn. Nếu bạn nghĩ là bạn mới khám phá một khuôn mẫu nào, trước hết hãy cho
rằng nó chỉ thuần ngẫu nhiên. Và nếu những phần bánh pancake giòn tan của bạn bắt đầu trông
như khuôn mặt Chúa Jesus, hãy tự hỏi: Nếu thực sự Người muốn hiện thân, sao ngài không làm
vậy ở Quảng Trường Thời Đại hay trên đài CNN?

9. SỰ TUÂN THEO (CONFORMITY)

Đây là xu hướng con người tuân theo những người khác. Thành kiến này mạnh đến nỗi nó có thể
khiến con người làm những việc lố bịch, buồn cười, như từng được chứng minh trong thực nghiệm
của Solomon Asch.


Hỏi một đối tượng và nhiều đối tượng giả (người đang làm việc cho thực nghiệm viên) trong các

đoạn thẳng B, C, D, và E, đoạn thẳng nào dài bằng đoạn A? Nếu tất cả các đối tượng giả trả lời là D
dài bằng A, thì đối tượng thật sẽ đồng ý với câu trả lời sai đó tới 3/4 lần.

10. TAI HOẠ CỦA KIẾN THỨC

Khi người có nhiều kiến thức không thể hiểu được những người bình thường. Ví dụ, trong chương
trình truyền hình “The Big Bang Theory,” thật khó để nhà khoa học Sheldon Cooper hiểu được cô
phục vụ Penny của ông.

11. ĐƯA RA “MỒI NHỬ” ĐỂ DỤ DỖ
Để giải thích về “hiệu ứng mồi” (decoy effect), nhà kinh tế học hành vi Dan Ariely đã lấy ví dụ về
cách bán quảng cáo của hãng Economist.


Một ví dụ về “lựa chọn mồi” – decoy option
Hãng này đưa ra ba mức đăng kí quảng cáo như sau: 59 USD cho quảng cáo online (khoảng 1,3
triệu VND), 159 USD (khoảng 3,5 triệu VND) cho quảng cáo trên giấy và gói 159 USD nếu sử dụng
cả quảng cáo giấy và online.
Ariely giải thích rằng gói quảng cáo giấy chỉ tồn tại với mục đích khiến gói quảng cáo kép trên giấy
và online trở nên hấp dẫn hơn, kích thích khách hàng mua gói quảng cáo này.
Khi muốn kích cầu khách hàng, “lựa chọn mồi” sẽ là một phương pháp hữu hiệu


Nói một cách khác, khi bạn gặp khó khăn trong việc bán 2 sản phẩm với giá thành đắt, hãy tạo thêm
một “lựa chọn thứ 3” sao cho các lựa chọn ban đầu trở nên “bớt đắt” và vì vậy hấp dẫn hơn đối với
khách hàng.

12. AVAILABILITY HEURISTIC



Khi con người đánh giá quá mức tầm quan trọng của thông tin có sẵn đối với họ.
Ví dụ, một người có thể tranh cãi rằng hút thuốc không phải là không lành mạnh dựa trên cơ sở là
ông nội của anh ấy đã sống tới 100 tuổi và đã hút 3 gói thuốc một ngày, một lập luận phớt lờ khả
năng ông nội của anh ấy là một trường hợp ngoại lệ.

Tất cả những người bán xổ số đều sử dụng một định kiến đơn giản trong cách thức hoạt động của
tâm lý con người, được gọi là định kiến về sự có sẵn (the availability bias). Đây là xu hướng đánh
giá xác suất dựa trên sự xuất hiện dễ dàng của những ví dụ.
Khi các tổ chức xổ số đẩy mạnh quảng cáo về những người thắng giải xổ số, mọi người liên tục
nghe tin về những người trúng độc đắc. Mặt khác, họ hầu như không nghe được gì về đại đa số
những người không trúng giải. Do đó, mọi người giả định là họ có nhiều khả năng trúng số hơn thực
tế. Trong xổ số của Anh được quảng cáo là “Người đó có thể là bạn”, tất nhiên câu này là đúng một
cách nghiêm túc. Để nói toàn bộ sự thật thì bạn nên đọc là:” Người đó có thể là bạn, nhưng gần như
chắc chắn sẽ không phải là bạn.”
Cá mập tấn công thì sao?
Định kiến này ảnh hưởng đến tất cả các phán quyết của chúng ta, dựa trên trí nhớ. Sau đây là một
vài ví dụ.


Mọi người đánh giá họ có nhiều khả năng bị sát hại hơn là bị ung thư dạ dày, bởi vì những vụ sát
hại được thông báo rất thường xuyên trên tin tức (Brinol et al., 2006). Thực tế thì bạn có khả năng
chết vì ung thư dạ dày cao gấp 5 lần so với nguy cơ bị sát hại, dù nguy cơ bị ung thư dạ dày là khá
hiếm.
Điều này cũng đúng với những cuộc tấn công của cá mập, mọi người nghĩ là nó xảy ra thường
xuyên vì truyền thông đưa tin. Thực tế thì bạn có nhiều khả năng bị chết bởi một phần nào đó rơi
khỏi máy bay (Read, 1995).
Khi 2 người bạn của bạn bị tai nạn xe cộ, bạn sẽ đánh giá con đường đó trở nên ít an toàn hơn và
bạn cũng cảm thấy mình có nhiều khả năng bị một tai nạn.
Khi thông tin trở nên rõ ràng hơn, sinh động hơn hoặc dễ dàng hơn khi nhớ lại , thì nó sẽ ảnh
hưởng đến cách thức chúng ta đánh giá về xác suất của sự kiện đó.

Lý do chúng ta có định kiến này là thỉnh thoảng nó là một cách hiệu quả để đưa ra những quyết định
nhanh chóng. Ví dụ, những sự kiện đáng ghi nhớ – như ngộ độc thực phẩm – dạy cho ta những bài
học quan trọng (về những quán ăn rẻ tiền).
Vượt qua định kiến này như thế nào?
Thường thì định kiến về sự có sẵn làm chúng ta lo sợ nhiều hơn cần thiết. Có một cách để vượt qua
nó, ví dụ: Có bao nhiêu người bạn biết mà:
Không
Không

bị

sát
trúng

Không bị giết bởi cá mập?

13. KHOẢNG CÁCH THẤU CẢM (EMPATHY GAP)

hại?
số?


Đó là khi người ở trong một trạng thái tâm lý này không hiểu được người khác đang ở trong trạng
thái tâm lý khác. Nếu bạn đang hạnh phúc thì bạn không thể hình dung được tại sao người khác lại
bất hạnh. Khi bạn không cảm thấy hứng tình thì bạn không thể hiểu được bạn hành xử như thế nào
khi bạn đang hứng tình.

14. ẢO TƯỞNG TẦN SUẤT (FREQUENCY ILLUSION)
Một từ, một cái tên hoặc vật bạn vừa mới học đột nhiên xuất hiện ở khắp mọi nơi. Bây giờ bạn đã
biết từ SAT có nghĩa là gì, bạn nhìn thấy nó ở rất nhiều nơi!


15. HIỆU ỨNG QUY
ATTRIBUTION ERROR)

CHO

CĂN

BẢN

(FUNDAMENTAL

Ở đây bạn quy hành vi của một người cho một phẩm chất nội tại của cô ấy hơn là quy cho tình
huống mà cô ấy đang mắc phải. Ví dụ, bạn có thể cho rằng đồng nghiệp của bạn là một người hay
cáu giận, trong khi thực tế cô ấy chỉ bực bội vì bị vấp ngón chân.

16. HIỆU ỨNG PYGMALION VÀ HIỆU ỨNG GALATEA


Hay còn gọi là Self-fulfilling prophecy (lời tiên đoán tự trở thành hiện thực) được xem như một bí
quyết quan trọng trong quản lý nhân sự. Nếu một người (hoặc chính ta) nghĩ ta thông minh hay ngu
dốt hay sao đó, họ sẽ đối xử với ta theo cách mà họ nghĩ. Nếu ta được đối xử như thể ta thông
minh hay ngu dốt hay sao đó, ta sẽ hành xử, và thậm chí trở thành như thế. Do vậy, những “tiên
cảm” ban đầu của người đó về ta đã trở thành hiện thực! Tóm lại, một khi ý niệm đã hình thành,
thậm chí ngay cả khi nó không đúng với thực tế, chúng ta vẫn có khuynh hướng hành xử theo đó.
Và kỳ diệu thay, kết quả sẽ xảy ra đúng theo kỳ vọng đó, như thể có phép lạ!
Hiệu ứng Pygmalion được diễn giải qua bốn quá trình sau:
– Chúng ta hình thành kỳ vọng về con người hay sự kiện
– Chúng ta thể hiện kỳ vọng đó qua những tín hiệu giao tiếp, đối đãi…
– Người ta có khuynh hướng đáp lại những tín hiệu đó bằng cách điều chỉnh cách cư xử của họ cho

phù hợp
– Kết quả là kỳ vọng ban đầu trở thành hiện thực
Kết quả trở lại tác động vào kỳ vọng ban đầu, tăng cường niềm tin vào những điều chúng ta đã nghĩ
về con người/sự kiện đó. Bốn quá trình trên đây tạo nên vòng tròn cho “lời tiên đoán tự trở thành
hiện thực” (the circle of self-fulfilling prophecies). Vòng lặp càng “quay” lại nhiều càng làm tăng
cường ảnh hưởng của nó.


Hiệu ứng Pygmalion mang một ý nghĩa to lớn khi ứng dụng trong quản lý nhân sự và giáo dục, nhất
là đối với việc giáo dục các trẻ cá biệt. Người ta thấy rằng nhân viên/học sinh có khuynh hướng thể
hiện, hoàn thành công việc tốt hơn khi được cấp trên/thầy giáo tôn trọng, kỳ vọng, tin tưởng. Đôi khi
người ta còn phân ra làm hai dạng: (1) Hiệu ứng Pygmalion – sức mạnh của sự kỳ vọng của cấp
trên đối với nhân viên (hay thầy giáo đối với học sinh) và (2) hiệu ứng Galatea – sức mạnh của sự
tự kỳ vọng (của nhân viên/học sinh vào bản thân mình). Người ta cho rằng hiệu ứng Galatea (năng
lực của sự tự kỳ vọng) này còn thậm chí còn quan trọng hơn cả hiệu ứng Pygmalion. Do đó, người
thầy giáo giỏi phải là người biết truyền cho học trò niềm tin và sự kỳ vọng vào bản thân mình.

17. HIỆU ỨNG HÀO QUANG (HALO EFFECT)

Chúng ta lấy một thuộc tính tích cực của một ai đó và gắn nó với tất cả những thứ khác về người đó
hoặc vật đó.

18. THÀNH KIẾN DỄ – KHÓ (HARD-EASY BIAS)


Ở đó mọi người quá tự tin trong những vấn đề dễ và không đủ tự tin đối với những vấn đề khó.

19. ĐÀN ĐÚM VỚI NHAU

Mọi người có xu hướng tụ tập lại với nhau, đặc biệt trong những thời điểm khó khăn hoặc không

chắc chắn.

20. THIÊN LỆCH NHẬN THỨC MUỘN (HINDSIGHT BIAS)


Não bộ luôn tự động và vô thức khiến các sự kiện và trải nghiệm xung quanh trở nên có ý nghĩa.
Điều này khiến cho các sự kiện bất ngờ trở nên không còn bất ngờ, thậm chí trở thành tất yếu.
Hiện tượng này được gọi là “thiên lệch nhận thức muộn” hoặc “dự đoán theo sự thật đã xảy ra”
(hindsight bias). Khi vướng phải lỗi này, nhiều người cho rằng họ thấy những sự kiện xảy ra đã
được dự đoán trước với xác suất cao, mặc cho xác suất thực tế của sự kiện trong quá khứ là rất
thấp.
Những ký ức dự đoán sự việc sẽ biến mất nên nhiều người sẽ tự tin cho rằng, họ đã dự đoán được
điều đó ngay từ đầu – như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hay kết quả cuộc bầu cử…
Sự thiên lệch này làm cho bạn tin sự kiện “có vẻ như” dễ đoán và dễ giải thích, qua đó làm dịu căng
thẳng cho não bộ. Nhưng điều này lại ngăn cản suy nghĩ nhằm tìm ra giải pháp và gây ảnh hưởng
không nhỏ đến kết quả hành vi trong tương lai.
Theo các chuyên gia, sự “thiên lệch muộn” chỉ xảy ra sau khi bạn gặp thất bại. Từ đó ngăn cản
chúng ta suy nghĩ chống đối với những hành vi thay thế nhằm đảm bảo thành công từ những sự
việc trong quá khứ.

21. ẢO TƯỞNG KIỂM SOÁT

Khuynh hướng con người đánh giá quá cao khả năng kiểm soát các sự kiện của họ, như khi một
fan thể thao nghĩ rằng những suy nghĩ hoặc hành động của anh ta có một tác động lên trận đấu.


22. THÀNH KIẾN THÔNG TIN (INFORMATION BIAS)

Xu hướng tìm kiếm thông tin khi nó không có ảnh hưởng đến hành động. Nhiều thông tin hơn không
phải lúc nào cũng tốt hơn. Quả thật, với ít thông tin hơn thì con người có thể đưa ra nhiều dự đoán

chính xác hơn. Trong mẩu truyện ngắn “Del rigor en la ciencia”, chỉ gồm duy nhất một đoạn văn,
Jorge Luis Borges mô tả một đất nước rất đặc biệt. Trong đất nước này, khoa học vẽ bản đồ phức
tạp đến nỗi chỉ có những tấm bản đồ chi tiết nhất, bản đồ tỉ lệ 1:1, to bằng cả đất nước. Những
người dân dần nhận ra rằng bản đồ như vậy không giúp họ nhìn thấu được cái gì cả, vì nó chỉ đơn
thuần là một bản sao của những gì họ đã biết mà thôi. Bản đồ của Borges là một trường hợp đặc
biệt của Thiên hướng thông tin, một ảo tưởng cho rằng nhiều thông tin có thể đảm bảo những quyết
định đúng đắn hơn.
Cách đây không lâu khi tìm một khách sạn ở Miami, tôi đã liệt kê ra năm đề xuất tốt. Ngay lập tức,
một khách sạn đã lọt vào mắt xanh của tôi, nhưng tôi vẫn muốn chắc rằng mình chọn nơi tốt nhất và
tiếp tục tìm kiếm. Tôi đào bới hàng tá bài phê bình, bài blog và bấm xem không biết bao nhiêu hình
ảnh cũng như đoạn phim. Hai tiếng sau, tôi đã có thể chắc chắn đâu là khách sạn tốt nhất : chính là
nơi mà tôi đã thích ngay từ đầu. Cả núi thông tin thêm kia chẳng hề dẫn đến một quyết định tốt hơn.
Trái lại, nếu thời gian là tiền bạc, thì tôi có lẽ đã đến ở khách sạn Four Seasons rồi.
Jonathan Baron của Đại học Pennsylvania hỏi các bác sĩ câu hỏi sau : một bệnh nhân có những
triệu chứng biểu hiện khả năng 80% anh ta đang mắc bệnh A. Nếu không phải vậy thì anh ta mắc
bệnh X hoặc Y. Cả ba căn bệnh đều nghiêm trọng như nhau, và các cách chữa đều cho ra những


tác dụng phụ tương đồng. Là một bác sĩ, bạn sẽ đề xuất cách chữa nào? Theo logic thì bạn sẽ chọn
bệnh A và đề xuất cách chữa tương ứng. Bây giờ giả sử có một cách chẩn đoán như sau, sau khi
kiểm tra kết quả là “dương tính” nếu mắc bệnh X, và “âm tính” nếu mắc bệnh Y. Tuy nhiên, nếu
người bệnh thực sự mắc bệnh A, kết quả sẽ có 50% khả năng “dương tính” và 50% khả năng “âm
tính”. Bạn có đề xuất thực hiện kiểm tra không? Đa số bác sĩ nói có – mặc dù kết quả không hề có
liên quan. Cứ cho rằng kết quả là dương tính, xác suất bệnh A vẫn cao hơn nhiều xác suất bệnh X.
Thông tin thêm vẫn không đóng góp gì thêm cho quyết định. Bác sĩ không phải là những chuyên gia
duy nhất có thiên hướng cần thông tin dư thừa. Các nhà quản lý và nhà đầu tư cũng rất ham muốn
có nó. Có bao lần người ta làm hết nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, trong khi cái sự thực đã
rành rành trước mắt? Thông tin thêm không chỉ tốn thời gian và tiền bạc, nó còn đẩy bạn vào thế bất
lợi.
Hãy xem xét câu hỏi này: thành phố nào đông dân hơn – San Diego hay San Antonio? Gerd

Gigerenzer của Viện nghiên cứu Max Planck của Đức đặt ra câu hỏi này với các sinh viên Đại học
Chicago và Đại học Munich. Sáu mươi hai phần trăm sinh viên Chicago đoán đúng: San Diego đông
dân hơn. Nhưng, đáng ngạc nhiên hơn, tất cả các sinh viên Đức đều đoán đúng. Lý do: tất cả họ
đều đã nghe về San Diego, nhưng không biết về San Antonio, vậy nên họ đã chọn thành phố thân
thuộc hơn. Trong khi đó đối với các sinh viên Chicago, cả hai thành phố đều quen thuộc. Họ có
nhiều thông tin hơn, và những thông tin đó đã đánh lạc hướng họ. Hoặc, xem xét việc hàng trăm
hàng ngàn nhà kinh tế học – làm việc trong ngân hàng, viện chính sách, quỹ đầu cơ và chính quyền
– và tất cả những giấy tờ mà họ đã xuất bản từ năm 2005 đến 2007, một thư viện tràn ngập các báo
cáo nghiên cứu và mẫu toán học. Những xấp giấy bình luận đáng sợ. Những bài thuyết trình
PowerPoint bóng bẩy. Cả terabyte thông tin trên dịch vụ tin tức Bloomberg và Reuters. Những điệu
nhảy huyên náo tôn sùng vị thần thông tin. Tất cả đều là những việc làm sáo rỗng. Khủng hoảng
kinh tế ập đến và làm đảo lộn thị trường toàn cầu, làm cho vô số các dự báo và bình luận trở nên vô
nghĩa.
Hãy quên chuyện chất đống các dữ liệu. Hãy cố gắng tận dụng những thông tin thực tế đang có.
Chúng sẽ giúp bạn có những quyết định đúng đắn hơn. Những kiến thức thừa thải không có giả trị
gì cả, cho dù bạn có biết hay không. Daniel J. Boorstin nói đúng: “Trở ngại lớn nhất của sự khám
phá không phải sự ngu dốt – mà là ảo tưởng của tri thức.” Và lần tới khi bạn gặp kẻ địch, hãy cân
nhắc việc giết hắn – không phải giết bằng lòng tốt, mà là bằng sự đáng sợ của thông tin và phân
tích thông tin.

23. THÀNH KIẾN TRONG NHÓM (INTER-GROUP BIAS)


Chúng ta xem những người trong nhóm của chúng ta khác biệt với cách chúng ta xem một người
nào đó ở nhóm khác.

24. SỰ LEO THANG PHI LÝ TRÍ




Khi con người đưa ra những quyết định vô lý dựa vào những quyết định hợp lý trong quá khứ. Nó
có thể xảy ra trong một cuộc bán đấu giá, khi một cuộc chiến trả giả kích thích hai nhà trả giá đưa ra
mức giá cao hơn nhiều so với mức giá họ sẵn sàng trả.

25. THÀNH KIẾN TIÊU CỰC (NEGATIVITY BIAS)

Xu hướng chú trọng những trải nghiệm tiêu cực hơn là những trải nghiệm tích cực. Người có thành
kiến này cảm thấy “cái xấu mạnh hơn cái tốt” và sẽ nhìn thấy những mối đe dọa nhiều hơn cơ hội
trong một tình huống nhất định.
Các nhà tâm lý cho rằng đó là một sự thích nghi về mặt tiến hóa – vì tốt hơn là nhầm một tảng đá
thành một con gấu hơn là nhầm một con gấu thành một tảng đá.

26. THÀNH KIẾN BỎ QUA (OMISSION BIAS)


×