Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Sự hình thành và phát triển của mỹ học Mácxít ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.27 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------

LÊ THỊ NGỌC TRANG

SƢ̣ HÌNH THÀ NH VÀPHÁT TRIỂN
CỦA MỸ HỌC MÁC XÍT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------

LÊ THỊ NGỌC TRANG

SƢ̣ HÌNH THÀ NH VÀPHÁT TRIỂN
CỦA MỸ HỌC MÁC XÍT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Đỗ Văn Khang

Hà Nội - 2015


2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử hình thành và phát triển của mỹ học là một quá trình lâu dài
và phức tạp . Mỹ học hình thành cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội
loài người .
Mỹ học với tính cách là hình thái ý thức xã hội đă ̣c thù đã xuất hiện từ
thời kỳ thượng cổ. Thời kỳ, mà lịch sử tư tưởng của nhân loại về cơ bản là
những ý niệm sơ khai về chuẩn mực đạo đức và tín ngưỡng , đồ ng thời cũng
xuấ t hiê ̣n các chuẩn mực về cái Đẹp cách ta 3000 năm. Các nhà mỹ học lấ y di
vâ ̣t văn hóa ở Hang ChauVét làm chuẩ n cho sự xuấ t hiê ̣n Đời số ng Thẩ m mỹ.
Trước khi trở thành mô ̣t khoa ho ̣c đô ̣c lâ ̣p, các tư tưởng mỹ học của loài
người đã xuấ t hiê ̣n từ rấ t sớm trong các nề n văn hóa Đông – Tây cổ đa ̣i. Nế u
không kể đế n các tư tưởng thẩ m mỹ đươ ̣c dân gian hóa mà chỉ kể đế n những
tư tưởng có ý nghiã lý luâ ̣n thì các quan điể m thẩ m mỹ ra đời từ thời văn – sử
– triế t bấ t phân.
Có thể nói, Mỹ học là một bộ phận của triết học gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của triết học từ thời kỳ cổ đại. Đến thế kỷ XVIII, mỹ
học tách khỏi triết học và trở thành một khoa học độc lập.
Thuật ngữ “Mỹ học” đã có nguồn gốc trong ngôn ngữ Hy Lạp, xuất
phát từ chữ “aisthetikos” - có nghĩa là “cảm giác”, là “tính nhạy cảm”. Thực
ra “aisthetikos” có hai nghĩa: thứ nhất, thường được giải thích là nhận thức
cảm tính; thứ hai cũng được giải thích là nhận thức cảm tính, nhưng là nhận
thức cảm tính của sự xúc động (rung động cảm xúc)
Baumgacten cũng xuất phát từ chữ “aisthetikos” để tạo ra thuật ngữ “
Aesthetics” có nghĩa là “học thuyết về cảm giác”. Ông cho rằng, mỹ học là
một khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu những đặc điểm của con đường nhận
thức thế giới bằng cảm xúc, để phân biệt với các hình thái khác của hoạt động

nhận thức như triết học.
3


Có thể nói, thành tựu lớn nhất của mỹ học từ thời kỳ cổ đại đến nay , đó
là hệ thống quan điểm của mỹ học Mácxít. Hê ̣ thố ng mỹ ho ̣c này là sự kế thừa
những thành tựu của hầ u hế t các quan điể m của mỹ ho ̣c thời kỳ trước đó . Mỹ
học thời kỳ này đã giải thích quá trình phát triển xã hộ

i trên lâ ̣p trường duy

vâ ̣t biê ̣n chứng và duy vật lịch sử , đã phát hiê ̣n mô ̣t cách toàn diê ̣n các mố i
quan hê ̣ thẩ m mỹ với các mố i quan hê ̣ xã hô ̣i khác . Đó là mố i quan hê ̣ liên tu ̣c
giữa hiê ̣n tươ ̣ng và bản chấ t, giữa lich
̣ sử tự nhiên và lich
̣ sử xã hô ̣i.
Ở Việt Nam, mỹ học cũng ra đời từ rất sớm gắn liền với thời kỳ dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, mỹ học thời kỳ này chưa có hệ thống
quan điểm mà chỉ là ẩn dưới hình thức của văn học nghệ thuật. Mỹ học thật sự
là khoa học triết học chỉ được nghiên cứu từ cuối những năm 50 của thế kỷ
XX. Các nhà mỹ học Việt Nam cũng chủ yếu tiếp thu những thành tựu của mỹ
học Mác – Lênin trong nghiên cứu mỹ học của Nga, Pháp và Trung Quốc.
Để làm sáng rõ những thành tựu của mỹ học Mácxít ở Việt Nam, tôi đã
chọn cho mình đề tài : “Sự hiǹ h thành và phát triể n của mỹ ho ̣c Mác xit́ ở Viê ̣t
Nam hiê ̣n nay” làm tên đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều những cuốn sách và công trình nghiên
cứu về mỹ học nói chung như:
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: Lịch sử mỹ học, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang và Đỗ Huy: Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Đa ̣i

học, 1985.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: Mỹ học đại cương, Nxb Giáo dục, 1997.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: Nghê ̣ thuâ ̣t ho ̣c , Nxb Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Hà
Nô ̣i, 2000.
GS, TS Đỗ Huy, Nguyễn Chương Nhiếp: Tìm hiểu tư tưởng văn hoá
thẩm mỹ và nghệ thuật của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2000
4


Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long: Giáo trình Mỹ học
Mác Lênin, Khoa Triết học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
Đỗ Huy, Vũ Trọng Dung: Giáo trình Mỹ học Mác Lênin, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001
Đỗ Huy: Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ,Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2001
LQ TSKH Đỗ Văn Khang, Đỗ Thị Minh Thảo: Lịch sử mỹ học (trọn
bộ), Nxb Giáo dục, 2010.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang chủ biên; Mỹ học Mác – Lênin, Nxb. Đại
học Sư phạm, Hà Nội, 2004.
Các công trình trên đã trình bày khá rõ những vấn đề cơ bản của mỹ
học. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay chưa có một tài liệu nào nghiên cứu kỹ
về sự hình thành và phát triể n của mỹ ho ̣c Mácxít ở Việt Nam.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ của luận văn này đã giải quyế t vấ n đề sự
hình thành và phát triển của mỹ học Mác xít ở Việt Nam hiện nay ”. Hy vọng
rằng kết quả của luận văn này sẽ bước đầu làm sáng tỏ về vấn đề nghiên cứu
sự hiǹ h thành và phát triể n của mỹ học Mác xít ở Việt Nam về phương diện
mỹ học Mác xít cũng như phương diện lịch sử mỹ học nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích và trình bày một số quan niệm của các nhà mỹ học

trước Mác và các nhà mỹ học mácxit về sự hiǹ h thành và phát triể n của mỹ
học để qua đó, góp phần tìm ra quan niệm nào là có cơ sở khoa học nhất để
tiếp tục phát triển mỹ học Mácxít ở Việt Nam trong tình hình mới.
Nhiệm vụ:
Tìm hiểu tiề n đề cho sự ra đời của mỹ ho ̣c ở Viê ̣t Nam
Tìm hiểu sự hin
̀ h thành và phát triển của mỹ học Mácxít ở Việt Nam
hiê ̣n nay

5


4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng:
Vấn đề hình thành và phát triển của mỹ học Mácxít ở Việt Nam: thành
tựu và triể n vo ̣ng.
Phạm vi:
Nghiên cứu các khuynh hướng của các nhà mỹ học trước Mác, các nhà
mỹ học Mácxit và những nhà mỹ học Việt Nam về sự hiǹ h thành và phát triển
của mỹ học Mác xít ở Việt Nam để khẳng định tính khoa học của quan niệm
khoa học của các vấn đề mỹ học.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về sự hình thành của
khoa học nói chung để xác định sự hình thành và phát triể n của mỹ ho ̣c Mác
xít ở Việt Nam nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp đồng đại và lịch đại kết hợp
với phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp quy nạp - diễn dịch…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Góp phần làm cơ sở cho việc nghiên cứu mỹ học ở Việt Nam nói
chung, cũng như nghiên cứu sự hiǹ h thành và phát triể n

của mỹ học Mác

xít ở Việt Nam nói riêng thêm khoa học.
7. Kết cấu
Khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết được trình bày cụ thể như sau:

6


NỘI DUNG
Chƣơng 1:
TIỀN ĐỀ CHO SƢ̣ RA ĐỜI MỸ HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. Tƣ tƣởng mỹ ho ̣c truyền thố ng ở phƣơng Đông và ở Viêṭ Nam
1.1.1. Thời kỳ văn minh từ đồ đồng sang đồ sắt
Từ thời đại đồ đá tiến lên thời đại kim khí - thời đại đồ đồng và đồ sắt là một chuyển biến lớn lao của lịch sử nhân loại. Đó là thời kỳ kỹ thuật luyện
kim, thời kỳ xuất hiện những nền văn minh và nhà nước đầu tiên, và cũng là
thời kỳ mở đầu sự nghiệp dựng nước của dân tộc.
Trên lãnh thổ Việt Nam, nền văn minh sớm nhất là nền văn minh sông
Hồng gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, với quá trình hình thành
nước Văn Lang đời Hùng Vương và nước Âu Lạc đời An Dương Vưong
Di tích văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam trên
lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại trong
khoảng 7-8 thế kỷ trước công nguyên đến 1-2 thế kỷ sau công nguyên, thuộc
thời kỳ thịnh đạt của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Đó là sự hội tụ của nhiều chặng
đường dẫn đến Đông Sơn.
Trên lưu vực sông Hồng, khảo cổ học đã xác lập được một phổ hệ gồm

3 giai đoạn: Trước Đông Sơn diễn ra trong thiên kỷ 1 trước công nguyên:
Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ đồng thau.
Đến văn hóa Đông Sơn thì các loại hình địa phương vẫn tồn tại nhưng
tính thống nhất văn hóa trở nên bao trùm và chi phối . Dù thuộc di tích nào , ở
địa phương nào , văn hóa Đông Sơn vẫn mang những đặc trưng chung biểu
thị trong các loại hình di vật văn hóa gồm công cụ

(rìu, cuốc, xẻng, lưỡi

cày...) vũ khi (rìu chiến, dao găm, mũi giáo, mũi tên...), đồ dùng và trang sức

7


(thạp, thổ, vòng tay, khuyên tai...) trong kỹ thuật chế tác và trong nghệ thuật
trang trí.. Văn hóa Đông Sơn vừa có cội rễ bản địa, vừa qua giao lưu và hội
nhập, tiếp thụ một số ảnh hưởng văn hóa bên ngoài từ phương Bắc và từ
phương Nam.
Quá trình thống nhất văn hóa Đông Sơn cũng là quá trình liên kết các
nhóm cư dân Việt cổ - người Lạc Việt và người Âu Việt - thành một cộng
đồng quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời
Hùng Vương và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An Dương Vương.
Nước Văn Lang và Âu Lạc ra đời trên một nền tảng kinh tế đã phát
triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùng lưỡi cày
bằng đồng thau và sức kéo của trâu, bò. Chăn nuôi có chó, lợn, gà, vịt, trâu,
bò, voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát , mộc, dệt,
sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa còn
được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng.

Tiếp nối nước Văn Lang, nước Âu Lạc ra đời vào nửa sau thế kỷ III trước
công nguyên, còn để lại dấu tích của kinh đô Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội)
1.1.2. Văn hóa thẩ m mỹ từ lập nước tới trước thời Lý(1010)
Giai đoạn trước cổ điển được đánh dấu bắt đầu từ thời đại nguyên thủy,
sau đó là thời đại dựng nước và được kết thúc là thời kỳ Bắc thuộc. Thời Âu
Lạc, người Việt đã đạt đến trình độ tương đối cao về canh tác, họ đã biết sử
dụng hệ thống thủy lợi. Công cụ đồ sắt đã xuất hiện vào cuối thời Hùng
Vương. Có thể nói, người Việt đã đạt đến sự ngang bằng về trình độ sản xuất
so với kẻ đô hộ, và điều này khiến cho sự phát triển về văn hóa trở nên nổi bật.
Bởi vì, đây là thời kỳ văn hóa nguyên khai của các dân tộc, tất cả những thành
tựu văn hóa bản địa đều nảy sinh trên cơ sở văn minh bản địa – chứa đựng đặc
tính tộc người riêng biệt được hình thành trong những điều kiện sống tự nhiên
đặc thù. Tuy nhiên, văn minh phương Bắc đạt đến sự phân chia đẳng cấp trong
xã hội phát triển hơn văn minh Lạc Việt ở trình độ của quan hệ sản xuất. Sự tác

8


động có ý nghĩa của thiết chế bộ máy đô hộ phương Bắc làm thay đổi xã hội
Việt chủ yếu là ở quan hệ sản xuất chứ không phải sự thay đổi ở lực lượng sản
xuất. Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù kẻ đô hộ dùng nhiều chính sách và thủ
đoạn thâm độc để đồng hóa dân tộc nhằm Hán hóa Việt tộc và nền văn hóa
Việt song nhân dân ta vẫn bảo tồn và không ngừng phát triển nền văn hóa bản
địa, nội sinh đã được tích lũy qua hàng ngàn năm lịch sử trước đó. Bởi vậy,
mặc dù chữ Hán và tiếng Hán được du nhập ồ ạt vào Việt Nam nhưng không
thể tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc, nhân dân ta vẫn sống theo cách sống
riêng của mình theo cuộc sống và tâm hồn Việt Nam.
Những phong tục, tập quán tốt đẹp của thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc vẫn
được gìn giữ như tục nhuộm răng, ăn trầu, đấu vật, chọi trâu, đá cầu, đánh đu,
ném còn… Trong các lễ hội ngàn năm như hội làng, hội mùa xuân, mặc dù có

những biến đổi ít nhiều trong các nghi lễ nhưng tính chất căn bản của nó vốn
có từ thời Văn Lang, Âu Lạc vẫn được bảo lưu.
Trong các gia đình người Việt từ xa xưa đã định hình một quan hệ ứng
xử đẹp đẽ như thờ cúng tổ tiên, kính trọng ông bà, cha mẹ, anh em thuận hòa
và nhường nhịn nhau. Nho Hán và văn hóa Hán truyền bá vào Việt Nam
nhưng vẫn không thể làm thay đổi truyền thống văn hóa đó của dân tộc. người
Việt vẫn từ chối tư tưởng gia trưởng nặng nề, xem khinh phụ nữ của người
Hán. Nhìn chung, dưới thời Bắc thuộc, chữ Hán và Nho giáo cùng với toàn bộ
hệ tư tưởng phong kiến Trung Hoa không xâm nhập và không ảnh hưởng
nhiều đến các làng xóm người Việt cổ.
Trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp để bảo vệ di sản văn hóa truyền
thống thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
của văn hóa ngoại nhập phù hợp với đặc tính, tâm hồn Việt Nam để làm
phong phú thêm văn hóa truyền thống. Điều này được thể hiện ở chỗ trong
hơn một nghìn năm đô hộ, tiếng nói của dân tộc Việt Nam đã trải qua một quá
trình đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa. Bởi vậy, bên cạnh những âm tiết
thuần Việt còn có nhiều âm tiết Hán - Việt.
9


Trên cơ sở ý thức dân tộc và tinh thần tự cường nhưng không bảo thủ,
đóng kín, nhân dân ta đã biết kết hợp giữa truyền thống và cách tân cho phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử, đã tiếp thu một số cái hay, cái đẹp của văn hóa
ngoại nhập. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc, có ý thức, có sự dung hợp. Điều
này được thể hiện ở nhiều lĩnh vực như từ tập quán giã gạo bằng tay đã
chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp từ đầu Công nguyên; từ tập tục ở nhà
sàn, dần dần người Việt chuyển sang ở nhà nền đất nện; trong trang phục, y
phục, nghệ thuật cũng phong phú, đa dạng và phát triển cao hơn trên cái căn
bản của nền văn hóa cổ truyền.
Nhìn chung, những thay đổi trên đây về tư tưởng văn hóa cũng đã dẫn

đến sự biến đổi trong tâm lý cộng đồng. Trong xã hội Việt cổ, phương thức tư
duy mới chỉ dừng lại ở tính biểu tượng được thể hiện qua tín ngưỡng dân
gian, các truyện thần thoại, tuy còn chất phác nhưng đã vươn tới kiểu nhận
thức hướng tới tính chất “vũ trụ luận”. Khoảng thế kỷ I trước Công nguyên,
Phật giáo từ Ấn Độ đã ảnh hưởng vào nước ta. Thời kỳ Bắc thuộc là thời kỳ
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo trở thành hệ tư tưởng dẫn dắt văn hóa Đại Việt
phát triển rực rỡ.
1.1.3. Mỹ học ẩn trong nghệ thuật
Nhìn chung, ở thời kỳ trước cổ điển, nền văn hóa nước ta phát triển khá
rực rỡ đặc biệt là ở thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta không những gìn giữ được
nền văn hóa bản địa truyền thống mà còn biết tiếp thu một cách có chọn lọc
những tư tưởng tinh hoa của các dân tộc khác để làm phong phú cho nền văn
hóa của mình. Tuy nhiên, ở thời kỳ này vẫn chưa xuất hiện những tư tưởng về
mỹ học mà mỹ học được ẩn trong nghệ thuật, cụ thể là nghệ thuật đồ đồng mà
chủ yếu là trống đồng và trong văn học dân gian.
a) Nghệ thuật đồ đồng tiêu biểu là trống đồng
Dân cư thời kì này đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy trừu tươṇ g
khá cao, điều này được thể hiện rất rõ ở trong nghệ thuật đồ đồng mà tiêu biể u
là trống đồng.
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Bích (1987): Mỹ học Mác – Lênin, tập 1, Nxb Văn hóa, Hà Nội
2. Hồng Chương (1962) : Phương pháp sáng tác trong văn nghệ, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1962.
3. Nguyễn Văn Đại (2002), Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Hêghen (1999) : Mỹ học, tập 1, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Huyên (Cb), Đỗ Huy (2004): Giáo trình mỹ học đại cương,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Huy Hùng và Y Minh (1990): Mỹ học là gì ?, Nxb Văn hóa – Nghệ thuật,
Hà Nội.
7. Thế Hùng (2006): Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
8. Đỗ Huy (1970) : “Mấy suy nghĩ về nội dung tính Đảng trong Văn nghệ
theo quan điểm của Đảng ta”, Thông báo triết học, số 16, tháng 4
9. Đỗ Huy (1970) : “Sự không phù hợp giữa nội dung và hình thức trong
nghệ thuật”, Tạp chí mỹ thuật, số 9.
10. Đỗ Huy (1971): “Vấn đề nguồn gốc và bản chất của cái đẹp dưới ánh
sáng của Đảng ta”, Thông báo triết học, số 22.
11. Đỗ Huy (1984): Cái đẹp – một giá trị, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
12. Đỗ Huy (1996): Mỹ học với tư cách là khoa học, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
13. Đỗ Huy, Nguyễn Chương Nhiếp (2000): Tìm hiểu tư tưởng văn hoá thẩm
mỹ và nghệ thuật của Đảng trong thời kỳ đổi mới , Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
14. Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long (2000): Giáo trình Mỹ
học Mác Lênin, Khoa Triết học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đỗ Huy (2000) : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn
hóa mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11


16. Đỗ Huy, Vũ Trọng Dung (2001): Giáo trình Mỹ học Mác Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đỗ Huy (2001): Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
18. Đỗ Huy (2002): Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Đỗ Huy (2006) : Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đỗ Văn Khang (1983): Lịch sử mỹ học, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
21. Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy (1985): Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
22. Đỗ Văn Khang (1997): Mỹ học đại cương, Nxb Giáo dục.
23. Đỗ Văn Khang, Đỗ Thị Minh Thảo (2001): Nghệ thuật học, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
24. Đỗ Văn Khang (2004) : Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Đỗ Văn Khang (2004): Mỹ học Mác – Lênin , Nxb. Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
26. Đỗ Văn Khang (2008): Mỹ học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Đỗ Văn Khang (2010): B́ ình văn hiện đại, Nxb Lao động.
28. Đỗ Văn Khang (2013): Cơ sở lý luận văn học, Nxb Thông tin và truyền
thông.
29. Vũ Khiêu (1963) : Đẹp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
30. Vũ Khiêu (1967) : “Nghệ thuật của nhân loại từ tiếng khóc bi kịch đến bài
ca anh hùng”, Thông báo triết học, số 5.
31. Vũ Khiêu (1976): Anh hùng và nghệ sỹ, Nxb Văn học Giải phóng, TP Hồ
Chí Minh.
32. Hoài Lam (1979): Tìm hiểu mỹ học Mác – Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
33. Hoài Lam, Nguyễn Hồng Mai, Đặng Hồng Chương (1991) : Mỹ học,
Trường đại học Văn hóa, Hà Nội.

12


34. Nguyễn Văn Phúc (1995): Cái đạo đức và cái thẩm mỹ trong cuộc sống
và trong nghệ thuật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Trương Hữu Quýnh (2011): Đại cương lịch sử Việt Nam tập I, Nxb Giáo
dục Việt Nam

36. Phương Lựu (1979): Học tập tư tưởng văn nghệ của V.I.Lênin, Nxb Văn
học, Hà Nội.
37. V.I.Lênin (1963): Về văn học nghệ thuật, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
38. C. Mác – Ănghen (1958) : Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6.
41. Phan Ngọc (1944) : Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
42. Phạm Quỳnh : Thượng chi văn tập, tập 1
43. Bùi Văn Nam Sơn(2007) : Phê phán năng lực phán đoán, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
44. Vũ Minh Tâm (1998): Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Như Thiết (1970) : “Mấy vấn đề về tính dân tộc của văn nghệ”, Thông
báo triết học, số 16, tháng 4
46. Như Thiết (1986) : Đưa cái đẹp vào cuộc sống, Nxb Sự thật, Hà Nội.
47. Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh (1984) : Đi tìm cái đẹp, Nxb TP Hồ Chí Minh.
48. Tsécnưxépski (1962): Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực,
Nxb Văn hóa – Nghệ thuật, Hà Nội.
49. />50. />
13



×