Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

tìm hiểu luật thuế thu nhập cá nhân ở anh và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.5 KB, 74 trang )

1
1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành : Thuế và Hải quan

TÌM HIỂU LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở
ANH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Họ và tên

: Nguyễn Thị Thu

Mã sinh viên

: 0851030011

Lớp

: Anh 9

Khóa

: 47

Người hướng dẫn khoa học : THS. Lý Hoàng Phú

Hà Nội, tháng 05 năm 2012




2
2

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG ANH


3
3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Chữ viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Việt

NSNN

Ngân sách nhà nước

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp


TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt


4
4

DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG ANH

Chữ

viết

Tên đầy đủ tiếng Việt

Tên đầy đủ tiếng Anh

PAYE

Khấu trừ thuế tại nguồn

Pay As You Earn

HMRC

Cơ quan Hải quan và Thuế vụ Her Majesty's Revenue and Customs

tắt


Anh
ISAs

Tài khoản tiết kiệm cá nhân

Individual Savings Accounts

VAT

Thuế giá trị gia tăng

Value Added Tax

CEO

Giám đốc điều hành

Chief Executive Officer


5
5

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng trợ cấp cá nhân .......................................................................... 30
Bảng 2.2: Bảng trợ cấp cá nhân của năm tính thuế 2011-2012......................... 31
Bảng 2.3: Bảng trợ cấp người mù từ 2009 - 2013............................................... 33
Bảng 2.4: Bảng mức trợ cấp các cặp đôi 2009 - 2013..........................................34
Bảng 2.5: Biểu thuế suất thuế thu nhập từ năm 2009 - 2013..............................38

Bảng 2.6: Biểu thuế suất cho một số loại thu nhập năm 2011 - 2012.................39
Bảng 2.7: Giới hạn thời gian cho yêu cầu hoàn thuế...........................................42
Bảng 2.8: Đóng góp của thuế thu nhập cá nhân cho ngân sách Chính phủ Anh
giai đoạn 2008-2012...............................................................................................44
Bảng 2.9: Tỷ lệ đóng góp của các khoản thu vào NSNN năm 2010 - 2011.........46
Bảng 3.1: Biểu thuế lũy tiến áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền
lương, tiền công tại Việt Nam................................................................................59
Bảng 3.2: Biểu thuế toàn phần tại Việt Nam đối với thuế TNCN.......................59


6
6

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Nguồn thu NSNN từ thuế TNCN.....................................................45
Biểu đồ 2.1: Các nguồn thu vào Ngân sách Chính phủ Anh năm 2010-2011.....46


7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng
trong hệ thống thuế của một quốc gia. Thuế TNCN góp phần đáng kể trong việc
tăng thu cho NSNN, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội một cách hiệu quả. Ngoài
ra đây còn là một công cụ cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các
tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô.
Chính vì những chức năng quan trọng đó, đến nay thuế TNCN đã được áp dụng ở
hầu hết các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, ngày 27/12/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh

thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Sau đó theo các Nghị quyết ngày
26/03/1991, ngày 10/03/1992 của Chính phủ và các Pháp lệnh (sửa đổi) ngày
19/05/1994 và ngày 06/01/1997 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX, mức
thuế thu nhập đã được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao trải qua 6 lần sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều điểm
hạn chế. Để nâng cao tính chất quan trọng và chế tài đủ mạnh để thực hiện thu thuế
TNCN được đi vào ổn định, hiệu quả, luật thuế TNCN ở Việt Nam được Quốc hội
thông qua vào ngày 21/11/2007 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2009, nhưng chính
thức áp dụng từ ngày 01/06/2009 do tình hình kinh tế khó khăn. Đến nay, luật thuế
TNCN ở Việt Nam mới áp dụng được 3 năm nhưng đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Bộ
tài chính đã đưa ra nhiều phương án sửa đổi nhưng mới chỉ dự thảo đã lạc hậu và
gây ra sự phản đối gay gắt từ phía dư luận. Trong khi đó, ở các nước phát triển, thuế
TNCN đã ra đời từ rất lâu và đã thể hiện rõ được vai trò của một sắc thuế trực thu.
Nhận thấy việc cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển
để hoàn thiện hơn luật thuế TNCN ở Việt Nam, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu luật
thuế thu nhập cá nhân ở Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” để nghiên
cứu. Em chọn nước Anh để tìm hiểu về luật thuế TNCN bởi vì Anh là một quốc gia
mà thuế TNCN ra đời sớm nhất; luật thuế TNCN ở Anh là một luật thuế thực sự
tiến bộ, đem lại nguồn thu lớn cho NSNN.


8
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là tìm ra những điểm tiến bộ trong luật thuế TNCN ở
Anh để đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, hướng tới một luật thuế TNCN ở
Việt Nam hoàn thiện hơn trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là:
 Luật thuế TNCN ở Anh
 Luật thuế TNCN ở Việt Nam số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007

 Công tác quản lý thuế TNCN tại Anh và Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là:
 Đối với luật thuế TNCN ở Anh là từ năm 2009 – 2013, tập trung vào năm tính thuế

2011 - 2012
 Đối với luật thuế TNCN ở Việt Nam là luật thuế có hiệu lực từ ngày 01/01/2009
 Công tác quản lý thuế TNCN tại Anh và Việt Nam từ năm 2009 - 2012

4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê nhằm đi sâu, tìm hiểu các nội dung của

luật thuế TNCN ở Anh và sự khác biệt giữa thuế TNCN ở Anh và thuế TNCN ở
Việt Nam


Phương pháp phân tích, tìm hiểu để đưa ra những nhận xét, đánh giá những điểm
tích cực và những điểm hạn chế trong công tác quản lý thuế ở Anh và ở Việt Nam
5. Những đóng góp khoa học của đề tài
Khóa luận đã hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết cơ bản về thuế , thuế TNCN
và đưa ra những nội dung chính của luật thuế TNCN ở Anh, từ đó so sánh với luật
thuế TNCN ở Việt Nam và rút ra bài học kinh nghiệm.


9
6. Nội dung của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận có bố cục gồm 3 phần như sau:
Chương I : Một số lý luận về thuế và thuế thu nhập cá nhân
Chương II : Thuế thu nhập cá nhân ở Anh

Chương III : Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm rút
ra từ luật thuế TNCN ở Anh


10
CHƯƠNG I : MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Lý luận chung về thuế
1.1.1 Nguồn gốc, khái niệm và đặc điểm của thuế
1.1.1.1 Nguồn gốc
Thuế ra đời là một sự tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và
phát triển của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi
của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách để đảm bảo cho sự tồn tại và thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có
để huy động một bộ phận của cải của xã hội. Việc tập trung huy động của cải có thể
huy động bằng nhiều cách khác nhau như đóng góp bắt buộc, đóng góp tự nguyện
hoặc đi vay, trong đó biện pháp huy động tập trung của cải có tính bắt buộc với mọi
thành viên trong xã hội gọi là thuế.
Thuế luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, song quan niệm
về thuế và việc sử dụng thuế mỗi thời mỗi khác. Trong chế độ phong kiến và giai
đoạn đầu của nhà nước tư sản, thuế đóng vai trò chủ yếu để nuôi sống bộ máy Nhà
nước. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929 – 1933, vai trò của Nhà nước
đã có sự thay đổi. Nhà nước cần can thiệp vào hoạt động kinh tế, lúc này thuế như
là công cụ để điều chỉnh nền kinh tế. Cùng với việc mở rộng chức năng của Nhà
nước và sự phát triển của quan hệ hàng hóa tiền tệ, các hình thức thuế ngày càng
phong phú hơn, công tác thuế ngày càng hoàn thiện hơn và thuế đã trở thành một
công cụ quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tác động tới nền kinh tế xã hội.
Bàn về mối quan hệ giữa thuế và Nhà nước, Mac viết : “Thuế là cơ sở kinh tế của
bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của
người dân để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước”. Ang-ghen cũng đã viết : “Để
duy trì quyền lực công cộng, cần phải có đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó

là thuế má.”
Như vậy, thuế và Nhà nước là hai phạm trù lịch sử gắn bó hữu cơ với nhau :
Nhà nước tồn tại phải có thuế, ngược lại thuế đảm bảo nguồn lực vật chất cho sự
tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế là một tất yếu khách quan với chức năng
chủ yếu và đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn thu tài chính phục vụ nhu cầu chi tiêu


11
theo chức năng của Nhà nước. Cơ sở quan trọng khác cho sự ra đời của thuế là thu
nhập. Nếu của cải làm ra chỉ đủ nuôi sống bản thân người lao động thì không có gì
để đóng góp cho Nhà nước. Sự hình thành thu nhập trong xã hội là cơ sở vật chất
tạo khả năng cho nguồn động viên về thuế. Có thu nhập thì người dân mới có thể
đóng góp cho Nhà nước và ngược lại. Vậy thuế xuất hiện trong xã hội loài người
với hai điều kiện cần và đủ là đó là sự xuất hiện của Nhà nước và sự xuất hiện của
thu nhập xã hội.
Ngày nay, cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ, sự gia
tăng mạnh mẽ quyền lực Nhà nước, đã phát sinh những nhu cầu chi tiêu to lớn, đa
dạng. Để đáp ứng nhu cầu đó thuế và hệ thống thuế ngày càng trở lên quan trọng và
trở thành vấn đề rất nhạy cảm của xã hội. Thuế nhiều khi không đáp ứng đủ nhu cầu
chi tiêu, đặc biệt là những khoản chi đột xuất, cấp bách. Vì thế, nhiều quốc gia đã áp
dụng hình thức phát hành công trái, trái phiếu để giải quyết những vấn đề mất cân
đối trong NSNN. Tuy nhiên, thuế vẫn là hình thức động viên chủ yếu và cơ bản nhất
cho NSNN.
Vậy nhân tố lịch sử đầu tiên làm tiền đề cho sự ra đời của thuế chính là sự ra
đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
1.1.1.2 Khái niệm
Từ khi ra đời và phát triển, thuế được hiểu theo nhiều khái niệm khác nhau
Theo các nhà kinh điển : “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng
không bù lại” và “thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy từ tư bản

hay thu nhập của người chịu thuế”
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze : “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền,
có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do công dân đóng góp cho Nhà nước
thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước”. Theo
thời gian, khái niệm này cho đến nay đã được bổ sung, hoàn thiện hơn đó là : “Thuế
là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do
các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp


12
những chi tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội
của Nhà nước.”1
Theo góc độ phân phối thu nhập, khái niệm về thuế được hiểu như sau : Thuế
là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ NSNN) để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Theo góc độ nghiên cứu pháp luật thì thuế được quan niệm là khoản đóng
góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải
nộp vào NSNN.
Theo góc độ người thu thuế thì thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo nghĩa
vụ do pháp luật quy định. Thuế là khoản thu không hoàn trả ngang giá và trực tiếp.
Theo góc độ người nộp thuế thì thuế được hiểu như sau : Thuế là khoản đóng
góp bắt buộc mà tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo
Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Theo góc độ kinh tế học, thuế được hiểu như sau : Thuế là biện pháp đặc
biệt, theo đó Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực
từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của
Nhà nước.
Các quan niệm trên đều đúng nhưng ở những góc độ khác nhau. Cách hiểu
như vậy chưa thực sự đầy đủ và chính xác. Nhưng từ các quan niệm trên có thể rút

ra kết luận:
Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp
cho Nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà
nước. Người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần còn lại.2
1.1.1.3 Đặc điểm của thuế
Thứ nhất, thuế là một khoản trích nộp bằng tiền. Về nguyên tắc, thuế phải là
một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, điều này trái ngược với hình thức trả
1 />
truy cập ngày 18/02/2012

2 “Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam” (GS.TS Bùi Xuân Lưu – TS. Nguyễn Hữu Khải – Ths.Nguyễn Xuân Nữ,
2003,trang 13)


13
bằng hiện vật trước kia. Sự phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của quan hệ
hàng hóa, tiền tệ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thuế và thuế lại góp
phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp bắt buộc được thực hiện thông qua con
đường quyền lực và có tính cưỡng chế cao. Do đó, đối tượng nộp thuế không có
quyền trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, không có quyền quyết định số thuế phải nộp mà
chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng vi phạm pháp luật thuế sẽ bị cơ quan có
thẩm quyền xử lý vi phạm và cưỡng chế thi hành buộc phải hoàn thành nghĩa vụ
nộp thuế.
Thứ ba, thuế là khoản thu có tính chất xác định và không được hoàn trả trực
tiếp. Không giống như các khoản vay khác, thuế hoàn trả gián tiếp thông qua phúc
lợi xã hội, lợi ích từ việc sử dụng các công trình công cộng. Sự không hoàn trả trực
tiếp thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không
cung ứng một dịch vụ nào cho người nộp thuế và người nộp thuế không thể phản
đối việc nộp thuế. Những người nộp thuế nhiều và người nộp thuế ít đều có quyền

sử dụng các công trình công cộng như nhau.
Thứ tư, thuế không có một đối khoản cụ thể. Mỗi loại thuế không được quy
định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào mà được sử dụng vào mục đích chung là
chi tiêu của Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của thuế là một công cụ định hướng phát triển kinh tế và
hướng dẫn tiêu dùng. Dẫu rằng người chịu thuế là ai, thuế có chuyển nhượng được
hay không thì khi đánh thuế bao giờ cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định đến
hành vi tiêu dùng của giới tiêu thụ và các hoạt động khác của nền kinh tế.
1.1.2 Phân loại thuế
1.1.2.1 Căn cứ vào đối tượng chịu thuế
Căn cứ vào đối tượng chịu thuế, thuế được phân thành 2 nhóm là thuế trực
thu và thuế gián thu
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức và cá
nhân hoặc tài sản của người nộp thuế. Bản chất của thuế trực thu là người nộp thuế


14
đồng thời là người chịu thuế và họ không có khả năng chuyển dịch gánh nặng thuế
cho người khác. Ở Việt Nam có 2 sắc thuế trực thu là thuế thu nhập cá nhân và thuế
thu nhập doanh nghiệp. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp thu nhập
của từng tổ chức và cá nhân có thu nhập, nên đảm bảo được tính công bằng xã hội
hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp của thuế thường phù hợp với khả năng của
từng đối tượng, thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, thu nhập thấp thì nộp thuế ít. Thuế
trực thu còn cho phép tính đến những yếu tố độc lập với thu nhập của người nộp
thuế như hoàn cảnh bản thân (ốm đau, bệnh tật), số người phụ thuộc. Nhưng thuế
trực thu cũng có nhược điểm, đó là phần nào hạn chế cố gắng tăng thu nhập của các
đối tượng vì thu nhập càng cao thì phải nộp thuế càng nhiều. Thuế trực thu do họ
phải trả trực tiếp cho Nhà nước nên họ cảm thấy gánh nặng của thuế và dẫn tính đến
tình trạng trốn lậu thuế. Việc quản lý thuế trực thu cũng hết sức phức tạp và chi phí
quản lý thường cao hơn thuế gián thu.

Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá của hàng hóa và dịch vụ, là một
bộ phận cấu thành của giá cả hàng hóa như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia
tăng, thuế nhập khẩu… Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế (tức là
người sản xuất, cung cấp dịch vụ, thương nhân) có thể chuyển dịch số thuế phải nộp
sang người mua hàng hóa, dịch vụ bằng cách cộng số thuế đó vào giá bán hàng hóa,
dịch vụ. Thuế gián thu đảm bảo được sự tự lựa chọn của người chịu thuế đối với các
loại hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua, đảm bảo được tính tự nguyện chịu
thuế. Người bán hàng sẽ thu thuế gián thu (thu hộ Nhà nước) cùng với giá bán hàng
hóa hoặc dịch vụ, sau đó nộp khoản thuế này vào NSNN (thay cho người tiêu dùng
cuối cùng). Thuế gián thu tránh được quan hệ giữa người chịu thuế (người tiêu dùng
cuối cùng) với cơ quan thuế nên dễ thu hơn thuế trực thu. Thuế gián thu dễ điều
chỉnh tăng hơn so với thuế trực thu và những người chịu thuế thường không cảm
nhận được đầy đủ gánh nặng của loại thuế này. Hiện nay, trên thế giới có xu hướng
coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu vì nó có phạm vi thu rất rộng, đem lại
nguồn thu lớn cho NSNN, dễ hành thu đồng thời chi phí quản lý thấp. Nhược điểm
của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng
một loại hàng hóa, dịch vụ nên người giàu, người nghèo nếu tiêu dùng một lượng
hàng hóa như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất, tỷ lệ động viên thuế


15
gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn người nghèo, người có
thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu càng thấp.
1.1.2.2 Căn cứ vào đối tượng đánh thuế
Nếu căn cứ vào đối tượng đánh thuế thì thuế được chia thành các nhóm sau:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia
tăng
- Thuế đánh vào hàng hóa như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
- Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh

nghiệp
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế tài nguyên.
1.1.2.3 Phân loại thuế theo tên gọi
- Thuế doanh thu (còn gọi là thuế doanh nghiệp hoặc thuế tiêu thụ, Việt Nam
đã đổi thuế này bằng thuế giá trị gia tăng)
- Thuế tiêu thụ đặc biệt (còn gọi là thuế hàng hóa hoặc thuế tiêu dùng, một số
nước gắn tên thuế với các sản phẩm đánh thuế như : thuế thuốc lá, thuế rượu, thuế
bia, thuế bài lá)
- Thuế lợi tức (còn gọi là thuế thu nhập công ty, thu nhập doanh nghiệp),
thuế thu nhập (còn gọi là thuế thu nhập dân cư, thuế thu nhập cá nhân)
- Thuế tài nguyên, thuế đất đai (còn gọi là thuế sử dụng đất)
- Thuế tài sản
- Thuế quan (thuế xuất nhập khẩu)
- Thuế môn bài
1.1.3 Vai trò của thuế
Thuế không chỉ là một phạm trù tài chính, mà còn là phạm trù kinh tế. Do
đó, thuế không chỉ biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động riêng mà còn
chứa đựng các mối quan hệ tài chính giữa các chủ thể trong xã hội. Nhà nước sử
dụng thuế để có nguồn lực tài chính duy trì hoạt động hiệu quả của bộ máy Nhà


16
nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế như một chính sách nhằm điều tiết các
hoạt động của nền kinh tế, làm chuyển đổi các nguồn lực và định hướng hành vi tiết
kiệm, tiêu dùng và đầu tư.
Thuế luôn gắn liền với nhà nước và pháp luật, chức năng cơ bản của thuế
ngoài việc đảm bảo nguồn lực tài chính cho đất nước, còn gắn với chức năng kinh
tế của Nhà nước trong việc sử dụng thuế như công cụ nhằm điều tiết nền kinh tế,
thực hiện công bằng xã hội.
1.1.3.1 Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN

Các nguồn thu của NSNN rất đa dạng, Nhà nước có thể đi vay trong dân, vay
nước ngoài hoặc phát động quyên góp, kêu gọi viện trợ nước ngoài. Nhưng những
nguồn thu đó đều không ổn định và không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Mặc dù khái niệm về thuế còn rất nhiều tranh cãi, song bất cứ ai cũng đều
công nhận rằng thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN.
Nhà nước ban hành luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các
pháp nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế theo quy định của pháp luật đã
tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu
NSNN. Ở Việt Nam, theo số liệu của Bộ Tài Chính trong những năm gần đây thuế
đóng góp vào NSNN hơn 80%. Năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
thuế giới, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại làm cho ngành thuế giảm thu
đáng kể, tuy nhiên vẫn chiếm 85% tổng thu NSNN. Ở các quốc gia phát triển nguồn
thu từ thuế hầu hết đạt trên 90% và đóng vai trò chủ chốt là thuế trực thu. Theo số
liệu của World Bank trong 85 nước thì 60 nước có nguồn thu chiếm khoảng 80% từ
thuế, trong đó Mỹ (95%), Đức (92%), Nhật (95%)…
Những số liệu trên khẳng định vị trí hàng đầu của thuế trong tổng thu NSNN,
và vị trí này ngày càng có xu hướng quan trọng hơn.
1.1.3.2 Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô
Ngay từ đầu thế kỷ XX, khi vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế ngày
càng được khẳng định, thuế đã có chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô thể hiện qua
các điểm sau :


17
Thứ nhất, thuế kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, đổi mới công tác
kế hoạch, giá cả và các đòn bẩy kinh tế khác. Về điều này có thể liên hệ một ví dụ
thực tiễn của Việt Nam năm 2009, khi làn sóng suy thoái kinh tế thế giới đã tác
động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng trực tếp đến mọi mặt của đời sống
xã hội. Trước tình trạng đó, dưới sự chỉ đạo của chính Phủ, Bộ Tài chính và Tổng
Cục Thuế đã ban hành nhiều thông tư, văn bản hướng dẫn từng sắc thuế để có giải

pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an
sinh xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP. Đối với thuế VAT đã có
thông tư số 04/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009 hướng dẫn tạm hoàn thuế VAT đầu
vào đối với hàng thực xuất khẩu chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Thông
tư số 18/2009/TT- BTC ngày 30/01/2009 hướng dẫn thực hiện giảm 50% mức thuế
suất thuế VAT. Đối với thuế TNDN, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng điều kiện
hướng dẫn tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009 của Bộ Tài Chính
được giảm 30% số thuế TNDN phải nộp trong quý IV năm 2008 và số thuế TNDN
phải nộp của năm 2009. Các DN kinh doanh một số ngành nghề thuộc đối tượng gia
hạn nộp thuế TNDN năm 2009 theo quy định tại Thông tư số 12/2009/TT-BTC
ngày 22/01/2009 của Bộ Tài Chính được gia hạn nộp thuế TNDN phải nộp phát sinh
năm 2009 trong thời gian 9 tháng kể từ ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của
Luật quản lý thuế. Đối với thuế TNCN có Thông tư số 27/2009/TT-BTC ngày
12/08/2009 hướng dẫn miễn thuế thu nhập cá nhân năm 2009. Việc ban hành kịp
thời các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế đã giúp cho DN bớt khó khăn về tài
chính, tăng tích lũy, bổ sung nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Mặc khác
việc miễn thuế TNCN, giảm thuế VAT đã kích thích cầu tiêu dùng mạnh mẽ đồng
thời cũng kích thích phát triển sản xuất kinh doanh của DN. Việc thực hiện chính
sách của Nhà nước miễn, giảm, gia hạn nộp thuế cùng với những gói kích cầu của
Chính phủ đã có kết quả rõ rệt trên địa bàn cả nước. Sản xuất kinh doanh dần ổn
định và có chiều hướng phát triển; thị trường chứng khoán, bất động sản, ngân hàng
hồi phục và phát triển đã hỗ trợ ngành sản xuất kinh doanh khác phát triển theo, an
sinh xã hội được đảm bảo.
Thứ hai, thuế còn có vị trí quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý,
hướng dẫn và phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với các thành phần kinh tế


18
theo hướng phát triển có kế hoạch của Nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều
chỉnh các mặt cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, giữa tích lũy và tiêu dùng,

giữa tiền và hàng, giữa cung và cầu. Thông qua thuế gián thu Nhà nước có thể chi
phối đến việc lựa chọn và quyết định sản xuất “cái gì”, sản xuất “như thế nào”. Dựa
vào công cụ thuế gián thu, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy, tiêu
dùng và đầu tư. Từ chính sách thuế phân biệt theo thuế suất cao, thấp khác nhau đối
với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, đối với từng sản phẩm, dịch vụ, tùy thuộc
vào sự cần thiết của sản xuất và đời sống xã hội, thuế đã có tác dụng điều chỉnh việc
phân bổ lại nguồn vốn đầu tư trong xã hội.
1.1.3.3 Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công
bẳng xã hội
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.
Sự bình đẳng, công bằng được thể hiện thông qua các chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đối với mọi công
dân, không có quyền lợi đặc biệt, nghĩa vụ đặc biệt cho bất kỳ đối tượng nào.
Công bằng xã hội không có nghĩa là tất cả mọi người đều phải đóng thuế như
nhau mà là người có thu nhập cao sẽ đóng thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp.
Mỗi loại thuế lại thể hiện mức độ công bằng khác nhau. Đối với các loại thuế gián
thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...đối tượng
chịu thuế rộng, tất cả những người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ đều phải chịu thuế.
Người giàu tiêu dùng nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn sẽ chịu thuế nhiều hơn những
người nghèo tiêu dùng ít hàng hóa, dịch vụ . Chính vì thế, thuế gián thu đảm bảo
tính công bằng xã hội. Tuy nhiên, đến một mức tiêu dùng nào đó người giàu sẽ
không mua quá nhiều hàng hóa, dịch vụ, trong khi đó người nghèo vẫn phải tiêu
dùng những mặt hàng thiết yếu. Vì vậy, tính công bằng xã hội của thuế gián thu
chưa cao. Đối với các sắc thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân thể hiện rõ nghĩa vụ của công
dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc “lợi ích”, “công bằng”,



19
“khả năng nộp thuế”. Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được
hưởng những thành quả phát triển của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ tầng,
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu
nhập của mình thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc “công bằng” và “khả năng nộp
thuế” thể hiện trong luật thuế TNCN ở chỗ :người có thu nhập cao mà hoàn cảnh
gia đình khá giả thì nộp thuế nhiều hơn những người có thu nhập cao nhưng hoàn
cảnh khó khăn, người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế; trong luật thuế TNDN
thì những doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ không phải nộp thuế, doanh nghiệp có
thu nhập trước thuế cao phải nộp thuế nhiều. Do đó, thuế trực thu sẽ đảm bảo tính
công bằng xã hội cao hơn so với thuế gián thu.
Vậy thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công
bằng xã hội, người giàu chịu thuế nhiều hơn người nghèo.
1.2 Các yếu tố cấu thành một sắc thuế
1.2.1 Tên gọi
Tên gọi của mỗi sắc thuế thể hiện đối tượng tác động của sắc thuế hoặc mục
tiêu của việc áp dụng sắc thuế đó. Bất kỳ loại thuế nào cũng có tên gọi ví dụ tên gọi
“thuế xuất nhập khẩu” cho ta thấy thuế này chỉ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu;
thuế giá trị gia tăng đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ; thuế thu nhập
doanh nghiệp đánh vào thu nhập của doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào
việc tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ hạn chế sản xuất hoặc nhập khẩu. Tên gọi của
thuế thường ngắn gọn, dễ nhớ và phản ánh được mục tiêu của thuế.
1.2.2 Đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế
Đối tượng nộp thuế chỉ rõ những pháp nhân, cá nhân được Nhà nước công
nhận về mặt pháp lý và quy định trong nghĩa vụ phải nộp thuế cho Nhà nước. Ví dụ
trong luật thuế giá trị gia tăng ghi rõ đối tượng nộp thuế là : “Tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ
chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (gọi chung là người
nhập khẩu).
Đối tượng chịu thuế là nguồn dẫn xuất trực tiếp của thuế. Xác định đối tượng

tính thuế là xác định nguồn vật chất mà người ta tính toán trên đó số tiền phải nộp.


20
Có thể nói rằng đối tượng chịu thuế là giá trị của vật chịu thuế và số thuế phải trả
chính bằng giá trị đó nhân với thuế suất. Tùy theo tính chất và mục đích của từng
sắc thuế, đối tượng chịu thuế của các sắc thuế là khác nhau. Đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng là giá trị của tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước. Đối
tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và thu nhập khác kể cả thu nhập thu được từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài. Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là
những hàng hóa mà Nhà nước không khuyến khích sử dụng trong nước.
1.2.3 Biểu thuế và thuế suất
Biểu thuế và thuế suất là yếu tố quan trọng nhất của một sắc thuế, phản ánh
mức độ động viên thu nhập của Nhà nước, đồng thời đây cũng là mối quan tâm
hàng đầu của người nộp thuế và người chịu thuế.
Biểu thuế là tập hợp các thuế suất cùng các yếu tố kèm theo. Ví dụ, biểu thuế
xuất nhập khẩu bao gồm : mã số, nhóm mặt hàng và thuế suất; biểu thuế thu nhập
bao gồm bậc thuế. Thu nhập bình quân trên đầu người và thuế suất.
Có các loại thuế suất sau đây:
Thuế suất tuyệt đối : Đây là một mức thuế được ấn định trước bằng một con
số cụ thể trên đối tượng tính thuế. Có 2 loại thuế tuyệt đối là : thuế tuyệt đối cố định
và thuế suất tuyệt đối lũy tiến.
+ Thuế tuyệt đối cố định là thuế không thay đổi theo giá của hàng hóa hay
các yếu tố khác. Ví dụ ở Thụy Điển, thuế thuốc lá gói là 0,39 cua-ron / điếu, bia 3.6
độ nộp thuế 9,5 cua-ron / lít.
+ Thuế suất tuyệt đối lũy tiến là thuế được ấn định bằng một con số tuyệt đối
nhưng tăng theo đối tượng tính thuế. Ví dụ thuế môn bài ở Việt Nam, nếu thu nhập
kinh doanh thấp hơn 100.000 đồng trên tháng thì mức đóng thuế là 15.000 trên
năm. Khi thu nhập tăng đến 250.000 trên một tháng thì mức thuế là 30.000 đồng

trên năm. Cứ như thế nếu thu nhập tăng thêm 750.000 đồng trên một tháng thì thuế
môn bài phải đóng là 450.000 đồng trên một năm.


21
Thuế suất tương đối là thuế suất được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm. Có
2 loại thuế suất tương đối là thuế suất theo tỷ lệ cố định và thuế suất lũy tiến.
+ Thuế suất tỷ lệ cố định là một loại thuế suất được ấn định bằng con số tỷ lệ
phần trăm trên đối tượng tính thuế. Hệ thống thuế Việt Nam hầu hết áp dụng thuế
suất tỷ lệ. Ví dụ, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% và mức thuế này áp
dụng cho tất cả các doanh nghiệp không phân biệt lớn, nhỏ; thuế suất thuế tiêu thụ
đặc biệt với mặt hàng thuốc lá là 65%; thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5% hoặc
10% tùy thuộc vào các mặt hàng.
+ Thuế suất lũy tiến là thuế suất tăng dần theo sự tăng lên của cơ sở tính
thuế. Có 2 loại thuế suất lũy tiến là thuế suất lũy tiền từng phần và thuế suất lũy tiến
toàn phần
Thuế suất lũy tiến từng phần là các bậc thuế suất mà ứng với mỗi bậc là mức
thuế suất tương ứng, thuế suất tăng theo quy mô cơ sở tính thuế. Thuế suất lũy tiến
từng phần là thuế suất mà các quốc gia hay áp dụng cho thuế thu nhập cá nhân. Do
thuế được đánh tăng dần theo mức tăng của thu nhập, tài sản nên thuế có ưu điểm là
sát với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế, đảm bảo công bằng xã hội hơn
khi áp dụng các mức thuế suất khác. Tuy nhiên, việc tính toán đối với mức thuế suất
này lại khá phức tạp, đối với các sắc thuế áp dụng biểu thuế suất này đòi hỏi chi phí
hành thu cao.
Thuế suất lũy tiến toàn phần là bậc thuế suất cũng tăng theo quy mô, nhưng
tăng trên toàn bộ cơ sở tính thuế. Ưu điểm của loại thuế suất này là việc tính toán
đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện hơn so với thuế suất lũy tiến từng phần. Nhưng
hạn chế của loại thuế suất này là tính công bằng chưa cao, sự bất hợp lý về số thu
nhập còn lại sau thuế. Trong trường hợp, giá trị cơ sở tính thuế giữa hai bậc thuế
liền kề không có sự thay đổi đáng kể nhưng đối tượng nộp thuế có cơ sở tính thuế

cao hơn phải chịu mức thuế suất cao hơn cho toàn bộ cơ sở tính thuế dẫn đến số
thuế phải nộp cao hơn nhiều so với bậc thuế liền kề thấp hơn. Thu nhập còn lại của
người có cơ sở tính thuế cao lại ít hơn thu nhập còn lại của người có cơ sở tính thuế
thấp. Chính vì những lý do này, loại thuế suất này ít được áp dụng trong các sắc
thuế của các quốc gia trên thế giới.


22
1.2.4 Miễn giảm thuế, hoàn thuế
Miễn thuế, giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế,
theo đó, quy định cụ thể trường hợp đối tượng nộp thuế được giảm thuế hoặc miễn
thuế hoặc giảm bớt nghĩa vụ thuế so với thông thường. Các đối tượng thường được
miễn giảm thuế trong trường hợp thiên tai, bất khả kháng, hoặc các doanh nghiệp
mới thành lập được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nếu được cho phép, các lý do
nhằm thực hiện hợp đồng của nhà nước như doanh nghiệp được miễn thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để xây dựng công trình BT (xây dựng – chuyển
giao), BOT (xây dựng – kinh doanh – chuyển giao); được miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với doanh nghiệp dự án BOT. Chế độ miễn giảm thuế có ở hầu hết các
sắc thuế; chế độ này nhằm vào thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước, thực hiện chính sách phân bố lại nguồn lực sản xuất, giúp đỡ các cơ
sở sản xuất kinh doanh gặp khó khăn và thực hiện các chính sách đối ngoại của Nhà
nước. Chế độ miễn giảm thuế chỉ có tính tạm thời, chứ không phải lâu dài.
Hoàn thuế là việc Nhà nước sẽ trả lại cho doanh nghiệp, cá nhân số tiền thuế
nộp thừa hoặc số thuế không phải nộp theo quy định. Ví dụ, Nhà nước sẽ hoàn thuế
đối với thuế giá trị gia tăng đầu vào cho những mặt hàng xuất khẩu, hoàn thuế xuất
nhập khẩu đối với hàng hóa tạm nhâp, tái xuất. Và điều kiện hoàn thuế cũng được
quy định cụ thể trong các sắc thuế. Ví dụ trong luật thuế giá trị gia tăng, doanh
nghiệp hoặc cơ sở sản xuất kinh doanh được hoàn thuế khi thỏa mãn một trong các
điều kiện sau: Thứ nhất, cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp khấu trừ, trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu

vào chưa được khấu trừ hết. Thứ hai, cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư mà chưa
được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên. Thứ ba, cơ sở
kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu có số thuế giá trị gia tăng
đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên. Thứ tư, cơ sở kinh doanh
chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chia


23
tách, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa hoặc số thuế
giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.3
1.3 Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân
1.3.1 Nguồn gốc, khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
1.3.1.1 Nguồn gốc, khái niệm
Thuế TNCN được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Quốc gia đầu tiên
áp dụng thuế TNCN là Vương quốc Anh vào năm 1799, khi đó thuế TNCN được
đưa vào dưới hình thức khoản thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc
kháng chiến chống Napoleon (Pháp) và được hoàn chỉnh, chính thức áp dụng từ
năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển cũng áp dụng hình thức thuế này
như Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914)
Đối tượng nộp thuế TNCN này là mọi tầng lớp dân cư trong nước và nước
ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại, không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã
hội. Đồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập, người ta phân chia thành
các khoản thu nhập thường xuyên và không thường xuyên.
Hiện nay trên thế giới có 2 cách đánh thuế :
Thứ nhất, đánh thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân, cách
đánh thuế này thường áp dụng chủ yếu ở các nước Thụy Điển, Nhật, các nước Châu
Phi, Liên xô, Hungari… Cách đánh thuế này có ưu điểm là dễ thực hiện, đơn giản,
đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Nhưng cách đánh thuế này đảm bảo tính công bằng
xã hội chưa cao, chưa đảm bảo phân phối lại thu nhập

Thứ hai, đánh thuế trên tổng thu nhập của các hộ gia đình. Cách đánh thuế
này là đảm bảo tính công bằng xã hội, nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình có ít
nhất 2 người trở lên, các khoản thu nhập của thành viên trong gia đình là khác nhau
nên việc theo dõi các khoản thu nhập phát sinh là hết sức phức tạp. Chính vì vậy mà
rất ít quốc gia áp dụng cách đánh thuế này.

3 Luật thuế

giá trị gia tăng số 13/2008/QH12


24
Như vậy, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của
cá nhân. Thu nhập bao gồm cả thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên. Người nộp thuế bao gồm cá nhân cư trú và phi cư trú.
1.3.1.2 Đặc điểm
Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực triếp vào thu nhập của cá
nhân. Đối tượng nộp thuế TNCN đồng thời là đối tượng chịu thuế, người nộp thuế
TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khóa sang cho đối tượng
khác.
Thuế TNCN động viên trực tiếp thu nhập của cá nhân, cho nên đảm bảo
được tính công bằng xã hội hơn các loại thuế khác vì biểu thuế suất thường là lũy
tiến từng phần nên đóng góp của thuế thường phù hợp với khả năng của từng đối
tượng, thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, thu nhập thấp thì nộp thuế ít.
Thuế TNCN có diện đánh thuế rộng, thể hiện ở hai điểm : Thứ nhất đối
tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh
thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước
ngoài; Thứ hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có
thu nhập, bao gồm cả công dân của nước sở tại và người nước ngoài theo quy định
của từng quốc gia.

Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các
quốc gia đều gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác như
phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe.
Thuế TNCN là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế,
đây cũng là đặc điểm chung của các loại thuế. Nó vận động một chiều, không phải
là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch
vụ Nhà nước cung cấp
Thuế TNCN cho phép tính đến các yếu tố có tính độc lập với thu nhập của
người nộp thuế như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia đình (số người phải nuôi
dưỡng)


25
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại
thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến
đổi về cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, thuế TNCN có nhược điểm đó là phần nào hạn chế cố gắng tăng
thu nhập của đối tượng vì thu nhập càng cao thì nộp thuế càng nhiều. Người chịu
thuế phải trả trực tiếp một phần thu nhập cho Nhà nước nên họ cảm thấy gánh nặng
về thuế và rất dễ gây ra sự phản đối gay gắt khi tăng mức thuế suất. Do đó, công tác
hành thu thuế TNCN khó khăn, chi phí quản lý cao và dễ bỏ sót đối tượng nộp thuế.
1.3.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của nhiều quốc
gia nên thuế TNCN vừa mang vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có chức năng
riêng mà các sắc thuế khác không có được.
1.3.2.1 Đối với nền kinh tế – xã hội
a) Tạo nguồn thu cho NSNN
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, trong đó thuế TNCN là một trong
những sắc thuế chính cấu thành hệ thống thuế nên thuế TNCN cũng góp phần quan
trọng để tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế TNCN được tính trên diện thu rộng, tác

động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng
đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật
chất tinh thần. Ở Trung Quốc năm 2011, tổng thu từ thuế TNCN là 480 tỷ, thu nhập
chịu thuế vào khoảng 500 đến 1000 NDT (tức là khoảng 60 đến 12.000 USD) 4. Ở
Philippin, thu nhập chịu thuế năm 2011 khoảng 10.000 PHP đến 500.000 PHP (tức
là khoảng từ 200 – 10.000 USD5. Ở Hàn Quốc, thu nhập chịu thuế năm 2011
khoảng 10.000.000 won tới 80.000.000 von (tương đương với 10.000 – 80.000
USD)6. Ở Nhật Bản, thuế TNCN chiếm tỷ trọng 30% của tổng số thu từ các loại
thuế. Những số liệu trên thể hiện vai trò quan trọng của thuế TNCN vào NSNN.
4

truy cập ngày 20/02/2012

truy cập ngày
20/02/2012
5

6 />
truy cập ngày 20/02/2012


×