Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của hoa kỳ và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.95 KB, 46 trang )

Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
MỤC LỤC
1
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
A - LỜI MỞ ĐẦU
Trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập
được ban hành năm 1991 (Pháp lệnh thuế thu nhập với người có thu nhập cao đã
qua nhiều lần sửa đổi), ngày 01/01/2009 thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam chính
thức có hiệu thi hành. Luật điều chỉnh thuế đánh trên thu nhập của mọi cá nhân
sống và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Luật thuế TNCN cũng là một luật
nằm trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam để hội nhập
WTO. Trong lần ban hành luật lần này, Luật thuế mới có rất nhiều điểm thu hút
sự chú ý không chỉ tới các nhà nghiên cứu, nhà kinh tế mà còn nhiều tranh luận
trong quần chúng nhân dân. Luật thuế TNCN mới có khắc phục được rất nhiều
nhược điểm của Pháp lệnh thuế thu nhập trước đây, cũng như phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội hiện nay hay chưa? Sau một thời gian thực hiện thuế thu nhập
cá nhân đã thể hiện nhiều ưu việt nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần được
khắc phục. Sự tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia đi trước trong xây dựng hệ
thống pháp luật cũng như thi hành luật là nhân tố quan trọng giúp quá trình xây
dựng và thi hành luật của Việt Nam đạt hiệu quả cao nhất nhằm khắc phục được
nhược điểm, phát huy ưu điểm và tránh được một số lỗi mà các quốc gia đi trước
đã trải qua.
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển lớn mạnh và rất năng động,
đây cũng là quốc gia có nguồn thu thuế xếp hàng cao trên thế giới. Hơn nữa, Mỹ
cũng là một trong các quốc gia áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân sớm nhất.
Quá trình thi thuế TNCN của Mỹ là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam
để hoàn thiện luật và thi hành luật thuế TNCN. Vì những lý do đó, Nhóm 1 lớp
thuế xin chọn đề tài: TÌM HIỂU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA HOA KỲ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM cho bài tiểu luận của mình.


Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu
sót ngoài ý muốn, rất mong nhận được sự quan tâm và góp ý của cô để bài tiểu
luận trở nên hoàn thiện hơn.
2
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
B - NỘI DUNG
I – MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN
1. Khái niệm về thu nhập và thu nhập cá nhân
Trên thế giới hiện nay tồn tại khá nhiều khái niệm về thu nhập. Ở đây xin
được đề cập đến hai khái niệm được coi là đầy đủ và được chấp nhận rộng rãi.
Đó là hai khái niệm của hai nhà kinh tế học Haig- Simon và Paul.A.Samuelson.
Theo Haig – Simon (còn gọi là định nghĩa H – S, do hai nhà kinh tế học
người Anh là R.M.Haig và H.C.Simon đưa ra đầu thế kỉ 20): Thu nhập là tổng
giá trị của cải ròng tăng lên của một cá nhân cộng với giá trị tiêu dùng của
người nào đó trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)
1
.
Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + thay đổi tài sản tích lũy (giá trị ròng).
Như vậy, TN gồm hai phần: thứ nhất là giá trị của cải ròng tăng lên và thứ
hai là giá trị tiêu dùng trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, quan điểm này
khó áp dụng trên thực tế để xác định TN vì giá trị tăng thêm đó thường chỉ ở
dạng tiềm năng, chưa được thực hiện khi tài sản chưa chuyển quyền sở hữu, mà
nguyên tắc đầu tiên trong đánh thuế là đánh trên quyền lợi thực sự nhận được
chứ không phải dạng tiềm năng.
Còn theo nhà kinh tế học Paul.A.Samuelsom: Thu nhập là tổng số tiền kiếm
được hoặc thu góp trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)
2
.

Trong định nghĩa này, “tiền” được hiểu là những lợi ích thu được cả bằng
tiền và hiện vật mà được quy đổi thành tiền ở thời điểm nhận được, bao gồm cả
giá trị của các sản phẩm sản xuất ra để tự tiêu dùng, TN từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, lao động hay ngoài lao động, từ quyền sở hữu về tài sản và tiêu dùng
dịch vụ mà không phải thanh toán.
Tóm lại, có thể rút ra đặc điểm chung của TN từ hai định nghĩa trên như
sau:
1
PGS.TS. Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh (2002), Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận
dụng ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội, trang 7.
2
Sách đã dẫn, trang 8.
3
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- TN luôn gắn với một chủ thể nhất định, được xác định trong một thời gian
nhất định và không phân biệt nguồn gốc TN;
- TN có thể tồn tại dưới hai hình thức là tiền tệ và hiện vật, nhưng khi xác
định TN thì chúng đều phải được quy đổi chung về thước đo tiền tệ;
- TN hình thành thông qua quá trình phân phối và phân phối lại TN do thị
trường và Nhà nước thực hiện.
Từ các đặc điểm trên, ta có thể rút ra được khái niệm về TN như sau:
Thu nhập là tổng các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ mà một chủ thể nào đó trong nền kinh tế - xã hội tạo ra và nhận
được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời hạn nhất định
( thường là một năm )
3
.
Từ khái niệm chung TN, có thể định nghĩa thu nhập cá nhân như sau: Thu

nhập cá nhân tổng giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ mà một cá nhân tạo ra và nhận được, không phân biệt nguồn hình thành.
TNCN là một bộ phận quan trọng của tổng sản phẩm quốc dân của một
quốc gia vì phần lớn thu nhập quốc dân sau khi được thị trường và nhà nước tiến
hành phân phối và phân phối lại sẽ được phân chia cho các thành viên trong xã
hội dưới hình thức bằng tiền, hiện vật và các khoản phúc lợi xã hội khác.
2. Khái niệm về thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là
Vương quốc Anh và năm 1799, Đức áp dụng vào năm 1808, Hoa Kì áp dụng loại
thuế này muộn hơn nhưng cũng từ năm 1864. Các nước châu Âu còn lại và Úc,
New Zealand, Nhật Bản cũng áp dụng thuế TNCN vào nửa cuối thế kỉ 19. Các
nước châu Á như Thái lan áp dụng năm 1939, Trung quốc áp dụng năm 1984,
những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Rumani áp dụng
năm 1990, Nga năm 1991 cho đến nay đã có hơn 180 nước áp dụng thuế
3
PGS.TS. Lê Văn Ái & TS. Đỗ Đức Minh, 2002, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận
dụng ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội, trang 9.
4
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
TNCN
4
. Loại thuế này thường chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của ngân sách
nhà nước.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá
nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định (thông thường là một
năm)
5
.
3. Những nội dung cơ bản của thuế thu nhập cá nhân

3.1. Đối tượng nộp thuế
Nhìn chung, quy định về thuế thu nhập cá nhân ở các nước đều chia đối
tượng nộp thuế thành hai đối tượng căn cứ vào khái niệm về “cư trú”. Để xác
định có phải đối tượng cư trú hay không, người ta thường sử dụng tiêu thức quốc
tịch hay thời gian sinh sống, làm việc tại nước sở tại. Ví dụ, Luật thuế thu nhập
cá nhân Mỹ quy định đối tượng nộp thuế cư trú là công dân Mỹ và những người
thường trú, kể cả người nước ngoài ở trên đất Mỹ được 31 ngày trong năm hiện
thời, còn trong 3 năm gần nhất đã ở 183 ngày.Công dân Mỹ và người thường trú
trả thuế trên số thu nhập kiếm được trên toàn thế giới. Người nước ngoài không
thường trú trả tuế trên thu nhập kiếm được trên đất Mỹ.Thông thường, các cá
nhân cư trú phải chịu thuế TNCN đối với toàn bộ thu nhập của mình trong năm
tính thuế mà không tính đến nguồn gốc phát sinh thu nhập đó là ở trong nước
hay ngoài nước ( TN toàn cầu). Còn những cá nhân thuộc đối tượng không cư trú
thì chỉ phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản thu nhập phát sinh
có nguồn gốc tại nước sở tại.
3.2. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế của thuế TNCN là thu nhập chịu thuế.
Thu nhập chịu thuế (T) của một cá nhân trong kì tính thuế là tổng thu nhập
trừ đi tổng các khoản được giảm trừ.
Như vậy, từ định nghĩa thu nhập chịu thuế có thể được thể hiện qua công
thức sau:
4
Bộ Tài chính, 2007, ‘Tính ưu việt của thuế thu nhập cá nhân’, Tạp chí Thuế, số 42, kỳ 2 tháng 11.
5
PGS.TS. Lê Văn Ái & TS. Đỗ Đức Minh, 2002, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận
dụng ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội, trang 12.
5
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
T = I – C

Trong đó: T: thu nhập chịu thuế
I: Tổng thu nhập
C: Các khoản giảm trừ
Vậy là, thu nhập chịu thuế bao giờ cũng thấp hơn tổng thu nhập. Việc xác
định thu nhập chịu thuế có thể không dễ dàng với một số khu vực, đặc biệt là khu
vực phi chính thức.
 Phân loại thu nhập chịu thuế:
 Tiền công và tiền lương;
 Thu nhập của doanh nghiệp;
 Thu nhập từ tài sản: Thu nhập từ vốn, tiền cho thuê, phí tài nguyên,
các lợi ích phụ, tiền cho thuê hàng tiêu dùng lâu bền;
 Các khoản chuyển giao thu nhập, thu nhập hưu trí, quà tặng, và
khoản thụ hưởng.
 Thuế thu nhập toàn bộ và thuế thu nhập riêng biệt:
Thông thường, khi xác định TNCN, các quốc gia thường căn cứ vào nguồn
gốc của TN để đưa ra các khoản thu nhập chịu thuế cụ thể được quy định trong
luật. Phần lớn chính sách thuế thu nhập của các nước áp dụng khái niệm “ thuế
đánh trên tổng các loại TN”. Thuế thu nhập toàn bộ cộng các nguồn TN lại, trong
khi đó thuế TN riêng biệt có thuế riêng cho từng nguồn TN khác nhau. Nhìn
chung thuế thu nhập toàn bộ được áp dụng ở các nước công nghiệp phát triển,
còn thuế thu nhập riêng biệt được áp dụng ở các nước đang phát triển.
 Giảm trừ thu nhập trong tính toán thu nhập chịu thuế:
Mỗi quốc gia, tùy vào mục đích đánh thuế và chính sách của mình sẽ đưa ra
một cách cụ thể các khoản TN nào bị tính thuế cũng như các khoản Tn nào
không bị tính thuế (miễn thuế). Các hệ thống thuế thu nhập khác nhau ở cách
thức mà chúng giảm từ tổng TN đến thu nhập chịu thuế. Giảm thuế có thể có các
hình thức như điều chỉnh, khấu trừ, miễn thuế, trợ cấp, và tín dụng. Điều chỉnh
TN nói chung là các khoản giảm thuế mà mọi người trả thuế đều hưởng. Chẳng
6
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm

Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
hạn như tiền cấp dưỡng hay các khoản đóng góp lương hưu là những khoản điều
chỉnh tiêu biểu mà người trả thuế có thể loại ra khỏi tổng TN của họ bằng đúng
với số lượng các khoản này.
Khoản khấu trừ cũng làm giảm thu nhập chịu thuế. Trong một số hệ thống
thuế, các khoản khấu trừ nằm dưới hình thức là một khoản khấu trừ chuẩn hoặc
là các khoản khấu trừ được hạng mục hóa (liệt kê chi tiết từng khoản) và người
chịu thuế được dành cho quyền lựa chọn phương pháp nào mà họ cho là có lợi
nhất. Khấu trừ chuẩn có thể thay đổi tùy theo đặc tính của đơn vị lưu giữ hồ sơ
hay của người trả thuế các khoản khấu trừ được hạng mục hóa nói chung là làm
lợi cho người trả thuế có TN cao hơn là người trả thuế có TN thấp vì người trả
thuế có TN cao thường gánh chịu các chi phí được hạng mục hóa lớn hơn mức
khấu trừ chuẩn. Các khoản khấu trừ được hạng mục hóa và được miễn giảm thay
đổi theo các hệ thống thuế TN khác nhau, nhưng có thể bao gồm chi phí kinh
doanh liên quan đến người lao động không dược hoàn trả, đóng góp cho hoạt
động từ thiện, chi phí giáo dục, đóng góp quỹ lương hưu, đóng góp bảo hiểm
nhân mạng, thanh toán lãi suất cá nhân và tài sản cầm cố, chi phí y tế và nha
khoa, thuế trả cho các chính phủ khác và các khoản thanh toán thuế bảo hiểm xã
hội, và tổn thất do tai nạn hay trộm cắp.
Ngoài ra, nhiều hệ thống thuế thu nhập cho phép khấu trừ các khoản miễn
giảm cá nhân hoặc trợ cấp gia đình (ở nước ta khoản này gọi là giảm trừ gia
cảnh). Những khoản miễn trừ này dựa trên TN thực tế mà các cá nhân cần thiết
cho bản thân trong kì đóng thuế và số lượng cá nhân của cùng một đơn vị hồ sơ
thuế (cũng liên quan đến các đặc tính của đơn vị hồ sơ thuế này).
3.3. Đơn vị chịu thuế
Có một số cách khác nhau để người ta có thể xác định đơn vị chịu thuế thu
nhập trong cùng một hệ thống thuế TNCN. Thứ nhất, mỗi cá nhân có thể được
đánh thuế riêng lẻ, bất chấp tình trạng hôn nhân của họ như thế nào. Thứ hai, các
cặp vợ chồng có thể được đánh thuế trên cơ sở TN chung. Thứ ba, các cặp vợ
chồng có quyền lựa chọn được đánh thuế chung hay riêng. Sau cùng, các hộ gia

7
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
đình có thể được đánh thuế dựa trên cơ sở TN chung. Ban đầu, việc xác định đơn
vị chịu thuế không phải dễ dàng.
Việc lựa chọn đơn vị chịu thuế có các ngụ ý quan trọng về bình đẳng, đặc
biệt là với những xem xét bình đẳng theo chiều ngang. Khái niệm cơ bản về bình
đẳng theo chiều ngang là những người có cùng TN thì phải trả cùng số thuế.
3.4. Biểu thuế
Một khi thu nhập chịu thuế đã được xác lập, thì luật thuế thu nhập sẽ xác
định thuế suất và dòng thuế áp dụng cho khoản TN này. Có sự khác biệt giữa các
hệ thống thuế khác nhau về thuế suất và các dòng thuế. Thuế suất biên thay đổi
từ 1% đến gần 100%, mặc dù thuế suất tối đa phổ biến chỉ vào khoảng 40%. Một
số hệ thống thuế chỉ có 2 hoặc 3 thuế suất và dòng thuế, trong khi những hệ
thống thuế khác có hơn 10. Nếu có một hệ thống lưu trữ chung, thì các khung
thuế khác nhau có thể áp dụng đối với các lưu trữ đơn vị hồ sơ khác nhau.
Thông thường, thuế suất thuế TNCN được đánh theo nguyên tắc lũy tiến.
Tức là người có thu nhập càng cao sẽ phải trả một tỉ lệ thuế/TN lớn hơn. Điều
này nhằm đảm bảo mục tiêu huy động công bằng hơn TN của cá nhân cho ngân
sách nhà nước theo khả năng đóng góp của từng cá nhân.
8
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
II – TÌM HIỂU LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA HOA KỲ
1. Quá trình hình thành và phát triển của thuế TNCN ở Hoa Kỳ
6
Những yêu cầu tài chính trong thời Nội Chiến đã thúc đẩy việc hình thành
thuế thu nhập đầu tiên của Mỹ vào năm 1861. Ban đầu, Quốc hội đánh thuế cố
định là 3% vào tất cả TN trên 800$ và sau đó đã sửa đổi nguyên tắc này để bao
gồm cả thuế lương hưu. Năm 1872, Quốc hội đã hủy bỏ thuế TN, nhưng khái

niệm này vẫn tồn tại. Sau 20 bị bãi bỏ, năm 1894, như là một phần của dự luận
thuế quan, Quốc hội đã ban hành mức thuế 2% đánh vào TN trên 4000$. Tuy
nhiên, sau đó, mức thuế này đã ngay lập tức bị bác bỏ bởi quyết định 5/4 của tòa
án tối cao. Năm 1909 những người tiến bộ trong quốc hội một lần nữa kèm theo
điều khoản về thuế TN và dự luật thuế quan. Đảng bảo thủ đã đề xuất một sửa
đổi về việc ban hành loại thuế này trong hiến pháp nhằm mục đích mọi sự sửa
đổi sẽ không bao giờ nhận được sự phê chuẩn của ba phần tư số bang. Nhưng
thật ngạc nhiên, lần lượt các cơ quan luật pháp của các bang đã phê chuẩn việc
sửa đổi, và vào ngày 25/2/1913, với sự chứng nhận của thư kí bang Philander
C.Knox, sửa đổi lần thứ 16 đã có hiệu lực. Cho đến năm 1913, do việc miễn và
khấu trừ thuế rộng rãi, chưa đầy 1% dân số đã trả thuế TN với mức chỉ 1% TN
thực tế.
Trong chiến tranh thế giới lần 1, thuế suất mức cao nhất lên tới 77%, sau đã
giảm xuống 25% sau chiến tranh. Trong đại khủng hoảng kinh tế năm 1933 và
chiến tranh thế giới lần 2, thuế suất tăng trở lại. Năm 1935, Đạo luật ngân sách
đã đưa những khoản thuế TN lương hưu cá nhân không hợp lý với mức thuế tới
75% cho những TN vượt quá 5 triệu $ nên còn được gọi là Đạo Luật Thuế Tài
Sản. Sau đó, thuế suất cao nhất còn lên đến 94% vào năm 1944, 1945 vã giữ ở
mức 91% cho tới tận năm 1964. Điều bất hợp lý này đã làm cho việc trốn thuế
TN trở thành một phần quan trọng của các hoạt động phạm pháp thời kì này.
6
Các số liệu thuế suất trong lịch sử thuế TNCN của Hoa Kỳ lấy từ các nguồn sau:
IRS, Statistics of Income 2007 Fall Bulletin, Publication 1136;
James Young, ‘Inflation Adjustments Affecting Individual Taxpayers in 2007’.
9
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Đạo luật thuế cải cách năm 1986 đã đưa mức thuế suất thấp trở lại với
khung thuế suất từ 15% - 28%. Những năm 90 của thế kỉ trước, khung thuế suất
cao nhất tăng lên mức 39,1% nhưng sau đó đã giảm xuống 35% nhờ “ Đạo luật

phát triển kinh tế và giảm thuế năm 2001” của tổng thống Bush năm 2001.
Thuế TN đã không ảnh hưởng trực tiếp tớ hầu hết người Mỹ cho đến Chiến
Tranh Thế Giới Thứ 2. Trong năm 1939, chỉ có 5% người Mỹ trả thuế TN liên
bang. Nhưng đạo luật Ngân sách năm 1942 đã tăng mức thuế, giảm việc miễn
thuế và thành lập Thuế Victory 5% đánh vào TN trên 624$, mở rộng nền tảng
thuế TN một cách đáng kể. Kết quả của kế hoạch thuế mới này là trên 74%
người Mỹ đã trả thuế Tn liên bang vào năm 1945. Thuế TN đã trở thành nguồn
quan trọng nhất của ngân sách liên bang. Thiếu nó, công cuộc cải tổ xã hội
những năm 1930, chi phí của chiến tranh thế giới thứ 2, quốc phòng quốc gia
suốt chiến tranh lạnh, và các chương trình của Đại Xã Hội những năm 1960 sẽ
không thể tiến hành.
2. Nội dung cơ bản thuế TNCN của Hoa Kỳ
Thuế TNCN do một cơ quan thuộc Bộ Tài Chính quản lý, đó là Cục thuế
liên bang (IRS). Hệ thống pháp luật thuế TNCN của Mỹ được coi là một hệ
thống phức tạp với gần 50 000 trang luật và các quy định của Cục thuế liên bang
nhằm cụ thể hóa luật này. Toàn bộ hệ thống phức tạp này được công bố cho công
chúng tại trang chủ của IRS: Một phần công việc của IRS là
tạo ra các mẫu khai thuế để người dân điền thông tin về thu nhập của mình. Cơ
quan thuế cũng cho ra các ấn phẩm phát miễn phí cho công chúng để giải thích
về luật này.
Thuế TN cá nhân được đánh bởi chính quyền liên bang và chính quyền
bang. Sau đây là những đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật thuế thu nhập cá
nhân của chính quyền liên bang Hoa Kỳ.
2.1. Đối tượng nộp thuế
Luật thuế chia người nộp thuế thành hai đối tượng là người cư trú và không
cư trú. IRS để xuất hai cách nhận biết cho người được coi là cư trú.
10
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Thứ nhất, người đó có thẻ xanh (green card) với điều kiện trạng thái của

thẻ không bị hủy bỏ, bị giám sát pháp lý hoặc hết hiệu lực;
- Thứ hai, đó là dựa trên sự hiện diện thực tế. Một cá nhân được coi là cư
trú khi có hiện diện thực tế (về mặt vật lý) tại mỹ ít nhất 31 ngày trong năm tính
thuế, và ít nhất 183 ngày trong vòng 3 năm có bao gồm năm hiện tại và hai năm
trước đó. Cụ thể, để đạt được yêu cầu này, bạn phải đếm tất cả số ngày bạn hiện
diện tại Mỹ trong năm tính thuế, 1/3 số ngày hiện diện của năm ngoái, và 1/6 số
ngày hiện diện của năm liền trước nữa
7
.
Để giải thích cặn kẽ cho quy định trên của luật Mỹ, IRS còn quy định khá
chi tiết về tiêu chuẩn đủ để tính ngày cư trú, một số ngoại lệ với Canada và
Mexico, và ngày miễn TN v.v… Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, thậm chí
nếu bạn đủ điều kiện theo cách thứ hai này, bạn vẫn không được đối xử thuế như
người cư trú nếu bạn ở Mỹ ít hơn 183 ngày, nếu bạn vẫn phải khai thuế cư trú tại
một nước khác – nước này được xem xét là gần gũi với bạn hơn Mỹ. Điều này
không xảy ra nếu bạn đã là một công dân Mỹ. Còn trong trường hợp người nước
ngoài chuyển đổi từ “không cư trú” thành “cư trú” trong năm hoặc ngược lại, thì
họ sẽ được tính thuế theo cả hai trạng thái trên, tức là “trạng thái kép” theo thời
kỳ, đánh dấu bởi thời gian xảy ra sự chuyển đổi trên. Áp dụng điều này, trong
trường hợp một người không cư trú lấy một công dân Mỹ mà chọn theo khai thuế
gia đình, họ vẫn phải chụy cả hai mức thuế cư trú và không cư trú.
Người không cư trú khai mẫu thuế 1040NR và 1040NR-EZ cho những TN
tại Mỹ. Còn người nước ngoài cư trú sẽ tuân thủ luật như những công dân Mỹ;
chịu thuế TN trên TN toàn cầu và khai trên mẫu 1040EZ, 1040A và 1040.
2.2. Thu nhập chịu thuế
Thuế TN đánh trên lợi tức phải chịu thuế của cá nhân tức là mọi loại TN
của cá nhân không phân biệt loại TN, nguồn hình thành, tính chất của TN đó (trừ
những TN được miễn quy định cụ thể trong luật). Cơ sở tính thuế được quy định
rất tỉ mỉ, gồm nhiều yếu tố được thuyết minh chi tiết qua các văn kiện pháp lý:
7

2011, Topic 851 - Resident and Non-Resident Aliens, Cục thuế Liên bang Hoa Kỳ, truy cập ngày
01/04/2011, < />11
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tổng TN (Gross Income) là tất cả số thu từ mọi nguồn đã trừ đi các khoản
được phép loại trừ (Exclusions) - các khoản này hoặc được miễn thuế, hoặc
thường được điều chỉnh bởi luật thuế khác – như:
- Lợi nhuận kiếm được từ trái phiếu tiểu bang và địa phương;
- Lãi vốn (Capital Gains);
- Đóng góp của chủ vào kế hoạch lợi tức của công nhân lao động;
- TN lợi tức từ một số hình thức tiết kiệm;
- Quà tặng và của thừa kế.
Ví dụ: Tiền lời nhận được từ các công trái miễn thuế cũng không phải gộp
vào tổng TN.
Tổng TN đã điều chỉnh (Adjusted Gross Income) – AGI: là tổng TN đã trừ
đi các khoản được khấu trừ (Declusions) và miễn thuế (Exemptions) theo luật
định. Có hai cách sau mà người nộp thuế có thể tự do lựa chọn cách nào có lợi
cho mình hơn:
(1) Khấu trừ theo danh mục (itemized deductions) do bản thân họ lựa chọn
theo một danh mục (list) và kê khai với sở thuế. Các khoản đó thường là: Chi phí
y tế không hoàn lại vượt quá 7,5% AGI không được bảo hiểm chi trả, TN của
bang và địa phương và thuế bất động sản, một số chi phí lợi tức nhất định, những
đóng góp từ thiện, những tổn thất về người và của, những chi phí không hoàn lại
liên quan đến nghề nghiệp;
(2) Khấu trừ tiêu chuẩn (standard deduction) với số tiền ấn định sẵn cho
từng đối tượng chịu thuế và tăng lên hàng năm. Ví dụ: khấu trừ tiêu chuẩn của
người độc thân năm 2007 là 5.350$ và cho cặp vợ chồng khai chung là 10 700$.
Các khoản miễn thuế hợp pháp (allowable exemptions) là khoản miễn thuế
dành cho bản thân, vợ hoặc chồng (nếu khai thuế chung), và cho những người
sống lệ thuộc vào người đóng thuế. Khoản này phụ thuộc vào chi phí sinh hoạt

hằng năm và thường được IRS công bố theo năm. Năm 2007, khoản này là
3.400$. Năm 2008, khoản này tăng thêm 100$ do lạm phát, tức là 3.500$.
12
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Ví dụ: Năm 2007, John 44 tuổi, có hai con nhỏ. Tổng TN của anh là
100.000$ trong năm 2007. Anh dành 15.500$ cho bảo hiểm khi về hưu, 1.800$
cho các kế hoạch chăm sóc sức khỏe gia đình. Tất cả những khoản này không
phải chịu thuế. Ngoài ra, John còn có TN 12 000$ từ lương của vợ anh, 200$ tiền
lãi ngân hàng, 150$ hoàn thuế của chính phủ. Như vậy tổng TN của John là:
100.000 – (15.500 + 1.800) + 12.000 + 200 + 150 = 95.050$.
Khấu trừ theo danh mục của John tính ra là 22300. Anh có 4 suất miễn thuế
hợp pháp cho bản thân, vợ anh và hai con, tổng là: 4 x 3 400$ = 13 600$. Như
vậy, TN có thể bị đánh thuế của John là: 95.050 – 22.300 – 13.600 = 59.050$.
Lợi tức chịu thuế (Taxable Income): là tổng TN đã điều chỉnh trừ đi các
khoản khấu trừ khác như kể trên. Đây là TN dùng để đánh thuế.
Lợi tức chủ yếu chia thành hai loại:
(1) Lợi tức thông thường (Ordinary Income) là TN do tiền công, tiền lương
(wages, salary), TN từ công ty tư nhân, lãi cổ phần, lợi nhuận từ quỹ đầu tư,
v.v…;
(2) Lợi tức đầu tư (Capital Gains) là TN do bán tài sản đã đầu tư
(Investment Property). Trong đó lợi tức đầu tư ngắn hạn bị đánh thuế như lợi tức
thông thường, trong khi lợi tức đầu tư dài hạn được ưu đãi hơn do chính phủ
khuyến khích người dân đầu tư hơn là tích trữ (lợi tức dài hạn là khoản loại trừ
khi tính tổng TN – exclusions).
2.3. Thuế suất
Năm 2008, có 6 bậc thuế tương ứng với các giỏ TN (Branket) khác nhau là
10%, 15%, 25%, 28%, 33% và 35%. Tuy nhiên, khoảng và mức TN khác nhau
tùy theo người đóng thuế độc thân, khai chung cặp vợ chồng, và hai vợ chồng
khai riêng, hoặc người khai là chủ gia đình.

13
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thu nhập có thể bị đánh thuế Thuế suất
0$ - 16 050$ 10%
16 050$ - 65 100$ 15%
65 100$ - 131 450$ 25%
131 450$ - 200 300$ 28%
200 300$ - 357 770$ 33%
Từ 357 770$ trở lên 35%
Bảng 1: Thuế suất cho cá nhân độc thân
Thu nhập có thể bị đánh thuế Thuế suất
0$ - 8 025$ 10%
8 025$ - 32 550$ 15%
32 550$ - 78 850$ 25%
78 850$ - 16 4550$ 28%
164 550$ - 357 700$ 33%
Từ 357 700$ trở lên 35%
Bảng 2 : Thuế suất cho cặp vợ chồng khai chung
3. Thực trạng thi hành luật thuế TNCN tại Hoa Kỳ
3.1. Hệ thống thuế TNCN của Hoa Kỳ vận hành theo cơ chế tự kê khai, tự
nộp thuế
Tự kê khai tự nộp thuế là cơ chế quản lý trong đó đối tượng nộp thuế tự kê
khai về thuế, tự tính nghĩa vụ thuế cho mình căn cứ theo luật thuế và tự nộp thuế
theo kê khai, cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai nộp thuế đó của
đối tượng nộp thuế trừ trường hợp phát hiện các sai sót, vi phạm hoặc dấu hiệu
không tuân thủ luật thuế. Trong cơ chế này nổi bật vai trò chủ yếu của hai chủ
thể là đối tượng nộp thuế và cơ quan quản lý thuế.
Luật thuế TNCN Hoa Kỳ quy định rất rõ ràng nghĩa vụ của người nộp
thuế trong việc:

- Xác định thu nhập gộp, các khoản giảm trừ được phép, các khoản miễn
thuế được phép;
- Tính toán nghĩa vụ thuế (số thuế phải nộp);
- Thông báo các thông tin về thuế một cách đúng hạn và đệ trình việc thanh
toán bao gồm:
 Bản khai thuế TNCN vào ngày thứ 15 của tháng thứ tư sau năm
tính thuế (thông thường, thuế TNCN nôp chậm nhất vào ngày 15/04 dương lịch);
14
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
 Trong năm, phần lớn người nộp thuế bị khấu trừ thu nhập để tạm
nộp thuế theo tháng (những người làm công ăn lương), hoặc khi thu nhập phát
sinh.
Thuế TNCN đòi hỏi đối tượng nộp thuế cần lưu giữ đầy đủ chứng từ chứng
minh thu nhập của mình. Đây là điều lạ lẫm và khó thực hiện nếu xã hội giao
dịch bằng tiền mặt. Nhưng người dân Mỹ thường lưu lại các hóa đơn chứng từ
thu nhập và chi tiểu của mình để cung cấp cho khai thuế của họ và cơ quan thuế
khi cần thiết. Mọi người ở Mỹ đều phải khai thuế, kể cả người không có việc
làm.
Hệ thống tự khai thuế chỉ có thể vận hành được với điều kiện người nộp
thuế phải là người trung thực, kê khai một cách “đúng đắn” nghĩa vụ thuế. Sự kê
khai đúng đắn ở đây được hiểu là nghĩa vụ thuế được xác định ít nhất trong
chừng mực người nộp thuế hiểu biết đủ để diễn giải luật thếu. Nếu hiểu theo điều
kiện trên thì sự thi hành thuế như vậy có vẻ rất không khả thi vì chẳng ai muốn
kê khai tất cả các khoản thu nhập của mình để bị đánh thuế. Và, không phải đại
bộ phận người dân ý thức được rằng đóng thuế là tự nguyện đóng góp giúp chính
phủ điều hành đất nước, ngay cả ở các quốc gia có trình độ dân trí cao như các
nước phát triển Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Tuy nhiên, đây là biện pháp giúp giảm
rất nhiều chi phí quản lý của ngành thuế, vì không có cơ quan thuế nào hiểu
tường tận thu nhập của từng cá nhân. Việc người nộp thuế không kê khai một

cách “đúng đắn” nghĩa vụ thuế được coi là “không tuân thủ”. Vấn đề là, cơ quan
thuế ở đây là Cục thuế liên bang sẽ dùng những biện pháp gì để tối thiểu hóa sự
“không tuân thủ đó”.
Theo thống kê của IRS, hơn 50% người nộp thuế ở Hoa Kỳ sử dụng người
khai thuế thuê, phần còn lại có sự trợ giúp của các phần mềm kê khai thuế, hoặc
tự khai. Điều này cũng từ nguyên nhân là luật thuế TNCN quá phức tạp và nhiều
trường hợp ngoại lệ, chú thích. Đây là quyền của đối tượng nộp thuế. IRS đánh
giá rất cao vai trò của các đại lý này trong việc cải thiện tình hình tuân thủ luật
thuế trong điều kiện tự khai tự nộp. Quan hệ giữa đối tượng nộp thuế khắc hẳn
giữa quan hệ của họ với cơ quan thuế. Đây là quan hệ có tính chất trợ giúp. Theo
15
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
quy định của luật: “Một kế toán công có cả quyền lẫn trách nhiệm trong việc trợ
giúp và biện hộ cho khách hàng, có nghĩa vụ đối với cả hệ thống thuế và khách
hàng”. Đại lý thuế giúp đối tượng nộp thuế kê khai đúng các khoản thu nhập của
mình theo luật, tránh việc đối tượng nộp thuế phải trả những khoản thuế nhiều
hơn so với luật định chỉ vì sự thiếu hiểu biết trong kê khai. Tuy nhiên khi khách
hàng của đại lý thuế chịu một hình phạt nặng do kê khai và nộp thuế dưới mức,
đại lý có thể bị phạt tới 250 USD.
Ngoài quyền sử dụng một đại lý thuế để kê khai cho mình, đối tượng nộp
thếu còn có quyền khiếu nại tại 3 cấp: tại cơ quan thuế địa phương, tòa án thuế,
tòa án quận hoặc tòa yêu sách.
Nghĩa vụ và quyền lợi khá rõ ràng về phía đối tượng nộp thuế là một cơ sở
rất tốt để cơ quan thuế tiết kiệm chi phí quản lý cho bộ máy phức tạp về hành thu
thuế. Nhờ giảm được phần điều tra và tính thuế thu nhập cho từng các nhân. Cơ
quan quản lý thuế tập trung hơn vào nhiệm vụ giám sát, thanh tra xem đối tượng
nộp thuế có thực hiện đầy đủ, chính xác nghĩa vụ thuế của mình. Hơn nữa, cơ
quan này cũng có điều kiện cải cách cơ chế thi hành tốt hơn tạo điều kiện tối đa
cho đối tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ. Cách làm này khả thi hơn cả. Về vai

trò của cơ quan quản lý thuế trong cơ chế tự khai tự nộp thuế sẽ tập trung vào các
khâu giám sát, đẩm bảo luật thuế thực hiện nghiêm chỉnh.
3.2. Đảm bảo việc nộp thuế bằng nhiều biện pháp
Luật thuế cũng quy định cho phép cơ quan thuế áp dụng các chế tài nghiêm
khắc để đảm bảo tính tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Vì hệ thống thuế đã sử
dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế nên IRS rảnh rang hơn trong công việc này và
có thời gian tập trung hơn vào việc giám sát, thanh tra thuế. IRS có hệ thống
giám sát thuế khá chặt chẽ qua các báo cáo của hệ thống ngân hàng, hệ thống
kiểm toán và nhiều bộ máy giúp việc khác. Do nền kinh tế Hoa kỳ thực hiện
thanh toán chủ yếu qua tài khoản ngân hàng nên IRS dễ quản lý thu nhập của
người dân hơn. Hệ thống giám sát của IRS thực hiện dựa trên cơ sở trách nhiệm
và quyền hạn của ác bộ phận được quy định rõ rang trước luật thuế. Đây là cơ sở
vững chắc cho quá trình thi hành luật làm cho quá trình thi hành luật thuế là một
hoạt động độc lập với nhà nước. Bộ trưởng bộ tài chính là người cuối cùng chịu
16
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trách nhiệm trước pháp luật về quá trình thu thuế. Và tổng cục trưởng cục thuế
liên bang, theo quy định của luật phải là người trung lập giữa nhà nước và người
nộp thuế. Đây là nhân tố quan trọng giúp tăng hiệu quả thực thi của việc giám
sát.
Hàng năm có khoảng 1-1,5% số tờ khai thuế được chọn ra để thanh tra
thông qua các chương trình hoặc hệ thống sau:
- Hệ thống chức năng phân biệt (DIF): Theo chương trình này, khoảng 2/3
các tờ khai thuế được lựa chọn để đưa vào máy tính xử lý. Chương trình máy
tinhs sẽ đánh giá các khoản mục đã được kê khai và sau đó sẽ tính được một mức
điểm tổng hợp của mỗi tờ khai. Trên thực tế, trên cơ sở cho điểm, có khoảng
10% số tờ khai được coi là có khả năng phải thanh tra gọi là “tờ khai không bình
thường”. Toàn bộ các tờ khai không bình thường được kiểm tra bởi chính cán bộ
thuế (không phải bằng máy tính) để xác định khả năng sai sót. Kết quả kiểm tra

của cán bộ thuế sẽ giảm bớt số các tờ khai phải thanh tra xuống còn khoảng 1%;
- Chương trình đánh giá tuân thủ luật (TCMP): Hàng năm, cơ quan thuế
chọn mẫu xác xuất gồm 50.000 tờ khai thuế trên cơ sở các chữ số cuối cùng của
mã số an ninh xã hội. Như vậy tỷ lệ lựa chọn là 1/2000. Cán bộ thuế kiểm tra cụ
thể từng khoản mục trong các tờ khai đã chọn và yêu cầu người nộp thuế phải
chứng minh các khoản mục đã kê khai bằng chứng từ cụ thể (ví dụ: giấy khai
sinh, hôn thú, chứng từ thu chi…) Các kết quả kiểm tra này được sử dụng để cập
nhật vào chương trình DIF trên. Theo quy định của luật thuế, người nộp thếu
không được phép chối từ yêu cầu xuất trình các tài liệu nêu trên của IRS;
- Thanh tra tình trạng tài chính: IRS triển khai các Modul tập trung điều tra
một cách “tổng thể người nộp thuế”. Phương thức này nhằm cung cấp cho thanh
tra thuế và cán bộ quản lý thuế một hồ sơ kinh tế của mỗi một người nộp thếu, do
đó, giúp họ có thể đưa ra một sự giả định chắc chắn về tính hợp lý của những
điều đã kê khai trong sự so sánh với mức sống của người kê khai;
- Chương trình chuyên môn hóa thị trường: Từ năm 1994, cơ quan thuế địa
phương của Mỹ bắt đầu hướng dẫn cán bộ thuế nhằm có được một sự hiểu biết
sâu sắc về một số ngành nhất định. Chương trình này được gọi là chuyên môn
hóa thị trường, và được sử dụng để thay thế các biện pháp trước đó mà việc kiểm
17
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
tra chấp hành luật thuế chủ yếu dựa trên từng vùng lãnh thổ hoặc đi sâu vào
phạm vi thu nhập. Theo chương trình này, toàn bộ các ngành công nghiệp – dịch
vụ được phân loại thành 100 lĩnh vực thị trường để cán bộ thuế nghiên cứu sâu
đặc điểm kinh tế và thị trường của mỗi lĩnh vực;
- Các hoạt động điều tra tội phạm: Vụ điều tra tội phạm của IRS thường
xuyên tiến hành điều tra các hoạt động bất hợp pháp như rửa tiền của các ngân
hàng hải ngoại và các khoản thu nhập từ tiền thưởng không kê khai của nhân
viên sòng bạc. Hiện nay cơ quan thuế Mỹ cũng tập trung nhiều nỗ lực vào việc
điều tra các hoạt động tội phạm liên quan đến ma túy và cờ bạc;

- Khuyến khích cung cấp thông tin: IRS chấp nhận thanh toán một khoản
gọi là “phí phát hiện” cho những người cung cấp thông tin về trường hợp những
người nộp thuế có khả năng lừa dối trong kê khai thuế. Để thanh toán khoản phí
có tính chất tiền thưởng này, phía IRS khẳng định rằng IRS sẽ không phát hiện
được các hành động lừa dối nếu như không có các thông tin được cung cấp;
- Sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật. Có rất nhiều lỗi phạt: phạt do
chậm trễ, phạt do thực hiện không chính xác, phạt do kê khai không nghiêm túc
và phạt tù.
• Phạt do chậm trễ:
 Chậm kê khai: Một khoản phạt bằng 5% số thuế không thanh toán
đúng hạn được thu theo mỗi tháng hoặc khoảng thời gian kê khai chậm của
tháng, Mức phạt tối đa là 25% số thuế khai chậm. Nếu kê khai chậm hơn 60
ngày, khoảng phạt tối thiểu là 100USD hoặc số thếu còn phải nộp theo kê khai;
 Chậm nộp: Một mức phạt bằng 0,5% số thuế thanh toán chậm được
thu theo mỗi tháng hoặc khoảng thời gian thanh toán chậm trong tháng. Mức
phạt tối đa là 25% số thuế thanh toán chậm.
• Phạt do thực hiện không chính xác:
Một khoản phạt bằng 20% đối với số thuế đã được xác định là đã kê khai và
thanh toán dưới mức luật định do thiếu ý thức (kể cả không cẩn thận hoặc có
dụng ý không chấp hành các nguyên tắc và quy định) và bất kỳ một sự kê khai
nộp thuế dưới mức luật định một cách nghiêm trọng (theo luật, nếu số thuế kê
khai thấp hơn 10% hoặc 5.000USD so với số thuế phải nộp, tùy theo số nào thấp
hơn).
18
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
• Phạt do kê khai không nghiêm túc:
Tòa án thếu có quyền phạt người nộp thuế đến 5000USD nếu đã kê khai
một bản kê khai thuế được kết luận là “hời hợt”.
Năm 2007, trước tình hình một số tờ khai thuế nước ngoài có quá nhiều lỗi

sai, IRS đã phải thực hiện một số biện pháp như: tăng cường việc giám sát các tờ
khai, đưa ra chương trình khai thuế hỗ trợ nhiều hơn cho người kê khai và đưa ra
một mức phạt khá nặng cho những trường hợp kê khai sai. Mức phạt cụ thể là:
500USD cho lỗi vô ý, 10.000USD cho lỗi cố ý, 50.000USD cho lỗi cố ý điển
hình và 150.000USD + 50% giá trị tài khoản nếu sai phạm là hoàn toàn cố ý
8
.
• Phạt tù:
Những người nộp thuế được coi là liên can đến việc trốn thuế sẽ bị phạt
100.000USD và/ hoặc bị phạt tù đến 5 năm
Cùng với “cây gậy”, IRS còn sử dụng rộng rãi các biện pháp nhằm tạo
thuận lợi và khuyến khích người tự nộp thuế kê khai nộp thuế. Chiến dịch “Sự
tuân thủ năm 2000” của IRS được phát động với mục tiêu đạt được sự tuân thủ từ
90% trở lên, tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa của việc không chấp hành luật
thuế để từ đó áp dụng các công cụ thích hợp để cải thiện sự chấp hành một cách
tự nguyện của người nộp thuế.
Mức hoàn thuế tốt hơn cũng như những cam kết hỗ trợ xã hội đầy đủ khi
đối tượng nộp thuế xảy ra tai nạn hoặc gặp khó khăn lớn về tài chính. Sự hỗ trợ
này chỉ có thể được chính phủ cung cấp nếu đối tượng nộp thếu có một hồ sơ
thuế trong sạch. Và vì các khoản phúc lợi xã hội của Mỹ thực tế khá tốt nên các
cá nhân cũng rất băn khoăn khi lựa chọn giữa trốn thuế hay mất đi các khoản hỗ
trợ khi mình gặp khó khăn. Những người muốn giảm thuế thường ký bảo trợ cho
người gia, người thất nghiệp, học sinh…mỗi năm có thể lấy lại được tiền của
chính phủ và tiền được chuyển thẳng vào account chỉ trong vòng 2 tuần. Sự hoàn
thuế tốt làm cho người dân tin tưởng sự công bằng của pháp luật và tự nguyện
đóng thuế. Năm 2008, số thuế hoàn lại là 336,125 tỷ USD trên tổng số tờ khai là
138,894 triệu tờ tương đương mức 2.420USD/tờ. Mức này khá cao làm cho các
cá nhân thực sự cần cân nhắc giữa đóng thuế đầy đủ để hưởng hoàn thuế tốt hay
trốn thuế để bị ghi vào sổ đen của Cục thuế liên bang, đồng nghĩa với việc mất
8

Bộ Tài chính, 2007, Tạp chí thuế quốc tế, số tháng 4.
19
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
mọi quyền lợi hoàn thuế và các quyền lợi phúc lợi xã hội khác, cộng với việc bị
đòi thuế liên tục.
3.3. Chính sách thuế TNCN thay đổi theo từng thời kỳ kinh tế và được xem
xét, điều chỉnh hàng năm cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
Vì thuế thu nhập cá nhân có tác động khá lớn đến tiêu dùng của người dân.
Qua đó thuế TNCN có tác động kích thích hay kìm hãm kinh tế. Chính vì lý do
đó, chính phủ Hoa Kỳ rất sát sao trong vấn đề thu thuế. Cục thuế liên bang IRS
hàng năm đều ban hành rất nhiều điều chỉnh cho năm thuế đó phụ thuộc vào tình
hình kinh tế xã hội biến chuyển trong cả năm (vì đây là yếu tố chủ yếu gây ra sự
thay đổi trong thu nhập và chi tiêu của người dân). Điển hình vẫn là thay đổi các
mức miễn trừ cá nhân, khấu trừ thuế, tín dụng thuế. Ví dụ, năm 2006, mỗi cá
nhân được miễn thuế cho bản thân là 33.125USD, năm 2007 là 34.000USD, mức
này tăng lên 35.000USD vào năm 2008 do ảnh hưởng của lạm phát
9
. IRS còn
quy định cụ thể mức này cho các trường hợp cặp vợ chồng khai chung, khai
riêng, khai theo chủ hộ.
Năm 2008, IRS cho phép cá nhân bị ảnh hưởng của thảm họa lũ lụt
Midwest được khấu trừ 500USD. Ấn bản 501 (Publication 501) là tài liệu chính
thức hướng dẫn thi hành thuế TNCN của năm 2008. Ấn bản này có độ dài gần 80
trang, hướng dẫn chi tiết cách khai thuế cho người dân. Chỉ riêng điều này đã
cho thấy sự phức tạp trong luật thuế TNCN của Mỹ. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy
sự làm việc mẫn cán của Cục thuế liên bang trong nỗ lực quản lý thuế, một điều
mà có lẽ bộ máy của các quốc gia khác đều đang mơ ước.
Trên phương diện chính sách thuế cho từng thời kỳ kinh tế, điển hình cho
sự thay đổi chính sách thuế là đạo luật Tăng trưởng kinh tế và miễn giảm thuế

năm 2001 của tổng thống Bush
10
. Đạo luật này đã thay đổi một bước thuế TNCN,
thuế di sản, thuế quà tặng và thuế thừa kế. Với thuế TNCN, đạo luật này đã giảm
mức thuế suất 15% khi đó của Hoa Kỳ trong giai đoạn 6 năm từ 2001 đến 2006.
9
2011, Publication 501 - Introductory Material, Cục Thuế Liên bang Hoa Kỳ, truy cập ngày 01/04/2011,
< />2011, Highlights of 2007 Tax Changes, Cục Thuế Liên bang Hoa Kỳ, truy cập ngày 01/04/2011,
< />10
Bộ Tài chính, 2001, ‘Tin thuế các nước’, Tạp chí thuế quốc tế, số tháng 5, NXB Tài chính, Hà Nội,
trang 39-40.
20
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thuế suất mới 10% áp dụng cho mức thu nhập 6.000USD với người độc thân,
10.000 với hộ gia đình và 12.000 với cặp vợ chồng kê khai chung. Mức thuế suất
mới này được áp dụng từ này 01/01/2001.Mức thuế 15% không thay đổi mà
được mở rộng khoảng thu nhập chịu thuế của mức thuế suất này. Các mức thuế
suất khác cũng được cắt giảm nhưng không đáng kể. Cụ thể như bảng sau:
Thuế suất khi
chưa cắt giảm (%)
Thuế suất mới
2001 - 2003 (%) 2004 - 2005 (%) 2006 trở đi (%)
28 27 26 25
31 30 29 28
36 35 34 33
39,6 38,6 37,6 35
Bảng 3: Thuế suất theo chương trình Tăng trưởng kinh tế và
miễn giảm thuế năm 2001
Các mức thuế suất này có hiệu lực từ ngày 01/07/2001. Các mức thu nhập

có thuế suất cao được cắt giảm ít hơn khu vực có thuế suất trung bình vì phần
lớn người dân có thu nhập dưới mức trung bình, sự thay đổi thuế cho khu vực
này có tác dụng lớn đến tiêu dùng trong nền kinh tế. Còn các tầng lớp có thu
nhập cao trong xã hội sẽ không hưởng lợi nhiều từ chính sách này.
Đạo luật này còn cắt giảm thuế đối với các cặp vợ chồng khai thuế chung.
Vì có nhiều trường hợp khi kê khai chung, mức thuế phải nộp sẽ cao hơn tổng
mức thuế nếu hai người khai riêng lẻ gộp lại. Chính vì vậy, đạo luật điều chỉnh
lại sự bất hợp lý đó. Sự điều chỉnh này có hiệu lực từ ngày 01/01/2005
Gần đây nhất, Đạo luật tăng trưởng kinh tế 2008 mới được quốc hội thông
qua đã tăng số thuế hoàn lên 95,7 tỷ USD trong tổng số 336,125 tỷ USD thuế
được hoàn của năm 2008. Chính sách này nhằm giảm sự suy thoái kinh tế Mỹ
trong nửa cuối năm 2008.
Tóm lại, Mỹ là quốc gia có sự điều chỉnh thuế TNCN gần như năng động
nhất thế giới.
21
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.4. Hệ thống công nghệ thông tin phát triển đem lại sự quản lý và thi
hành thuế tốt hơn cho người Mỹ
Điều không thể chối cãi là Mỹ luôn là quốc gia đi đầu về công nghệ. Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ lần 1 diễn ra chủ yếu ở quốc gia này đã đem lại
cho thế giới những thành tựu khoa học đáng kinh ngạc. Mỹ luôn là quốc gia
đứng đầu về số các phát minh mới và có đội ngũ các nhà khoa học giỏi nhất.
Chính vì lẽ đó, hệ thống công nghệ thông tin quản lý của quốc gia này đã phát
triển rất nhanh và vững vàng. Công nghệ thông tin phát triển đem lại cho Mỹ
những cách quản lý điện tử chính xác. Điều này chủ yếu có tác dụng lớn nhất đến
2 vấn đề của quá trình thi hành thuế TNCN tại Mỹ: Tăng khả năng quản lý, giám
sát chặt chẽ hồ sơ thuế và thuận tiện tối đa cho người dân nộp thuế.
Công nghệ thông tin giúp cơ quan quản lý lưu giữ hồ sơ thuế của từng cá
nhân trên khắp nước Mỹ. Tại Mỹ, mỗi trẻ em khi sinh ra đều được cấp 1 mã số

an sinh xã hội. Người mới nhập cư cũng được cấp mã số này. Mã số này sẽ gắn
bó với công dân mỹ cả đời trong tất cả hoạt động của anh ta với cơ quan chính
quyền. Như vậy, hồ sơ thuế của một người được không những xác định rõ rang,
nhanh chóng cho cán bộ quản lý thuế mà còn tiết kiệm được thời gian và công
sức. Ví dụ, một cá nhân có tiền sử là đã từng trốn thuế vào năm trước, hệ thống
thông tin tự động ghi nhận tình trạng “đã từng trốn thuế” của cá nhân đó trong hồ
sơ của anh ta. Cho những tính toán thuế của các năm sau, bản kê khai thuế của cá
nhân này sẽ được xếp loại kiểm tra chặt chẽ hơn, hệ thống cũng sẽ đều đặn gửi
đến các giấy đòi nợ đến cá nhân này, trong quá trình xét khấu trừ và hoàn thuế,
cá nhân này cũng mất đi một số quyền lợi, đặc biệt là khi gặp khó khăn vì đã
từng “trốn thuế”.
Một tác dụng khác là nhờ hệ thống cơ sở dữ liệu này, nhiều cơ quan quản lý
của chính phủ từ nhiều ngành khác nhau đều có thể phối hợp trong quản lý xã
hội. Ví dụ, một cá nhân từng có tiền án trong “sơ yếu lý lịch” điện tử của mình
với tội danh buôn bán ma túy của bộ phận an ninh. Cục thuế cũng sẽ xếp đối
tượng này vào sổ đen và thường xuyên kiểm tra về độ trung thực trong kê khai
thu nhập. Nếu thu nhập của người ngày đều đặn tăng lên và chi tiêu quá nhiều
22
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
mà không chứng minh được nguồn gốc của thu nhập, kê khai không đầy đủ, đối
tượng này sẽ được cả ngành thuế xếp vào đối tượng trốn thuế, còn cục an ninh sẽ
bắt đầu điều tra những hành vi phạm pháp từ sự mập mờ trong thu nhập của anh
ta. Như vậy, một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ về tất cả người dân là điều kiện
cho thi hành nghiêm ngặt luật thuế TNCN. Sự quản lý chặt chẽ sẽ giảm tối đa cơ
hội trốn thuế của những cá nhân có ý định đó.
Sự phối hợp giữa cục thuế liên bang IRS và các ngân hàng. Báo cáo hàng
năm của các ngân hàng về tài khoản và các giao dịch thu chi của đối tượng nộp
thuế sẽ đánh giá được sự trung thực trong khai báo của đối tượng nộp thuế. Xã
hội trong đó các giao dịch chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng

đem lại nhiều sự tiện lợi khiến cho người dân cảm thấy thích khi không phải sử
dụng tiền mặt. Hơn nữa đối với cơ quan quản lý thuế, giao dịch qua các ngân
hàng giúp cơ quan này kiểm soát được chi tiết các giao dịch của các cá nhân,
đánh giá chính xác thu nhập, chi tiêu cũng như các hoạt động tài chính khác. Từ
đó, cơ quan quản lý tính chính xác số thuế mỗi cá nhân phải trả cho chính phủ và
thu nhập thực sự của người dân là bao nhiêu để phục vụ cho mục đích thống kê,
hoạch định chính sách.
Công nghệ trợ giúp đối tượng nộp thuế rất nhiều trong công tác kê khai và
nộp thuế của họ. Nhờ có sự phát triển của công nghệ, người dân tiếp cận với
những chính sách năng động của IRS theo cách thuận tiện nhất đối với họ như
qua các phương tiện phát thanh – truyền hình hoặc internet. Bước tiếp theo, đối
tượng nộp thuế có thể khai trực tiếp tại trang chủ của IRS và nộp thuế thông qua
tài khoản ngân hàng của mình. Để hoàn thành tất cả các thao tác cần thiết đó, đối
tượng nộp thuế thậm chí không phải rời khỏi nhà mình chứ chưa nói đến phải
tiếp xúc hay bị nhũng nhiễu bởi cán bộ thuế. Tệ nạn tham ô, hối lộ nhờ đó mà
không có điều kiện phát triển. Theo thống kê của IRS, tỷ lệ tờ khai thuế điện tử
chiếm tời 58% tổng số tờ khai thuế năm 2008
11
.
3.5. Đóng thuế là một điều không thể thiếu trong đời sống xã hội tại Mỹ
Luật thuế TNCN đã có lịch sử hơn một trăm năm tại Mỹ. Kê khai và nộp
thuế thu nhập đã trở thành nhận thức không thể thiếu trong xã hội Mỹ. Thuế
11
IRS, 2008, Internal Revenue Service Data Book 2008, trang 2.
23
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
TNCN là thuế chính của người Mỹ với mức đóng khá cao. Tuy nhiên, cùng với
điều đó, người dân được đảm bảo phúc lợi xã hội tốt và hoàn thuế khi khó khăn.
Nhận thức của người dân là thuế để giúp duy trì và đảm bảo phúc lợi và an sinh

xã hội. Ngược lại, trốn thuế làm giảm phúc lợi xã hội trước hết của bản thân họ
(không được hoàn thếu khi khó khăn) và của xã hội. Chính vì vậy, người dân tự
giác đóng thuế với tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ tuân thủ thuế vào khoảng 84% trong năm
gần đây
12
.
Từ khi ra đời cho đến nay, thuế TNCN luôn đóng một vai trò quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách.
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Thuế TNCN (tỷ USD) 0.88 0.94 1.2 1.198 1.23 1.28 1.33 1.51
Tổng thu ngân sách (tỷ
USD)
2.2 2.3 2.4 2.7 2.8 2.9 3.1 3.6
Tỷ lệ thuế TNCN/tổng
thu ngân sách (%)
40 41.3 42.5 44,4 43,9 44 43 42
Bảng 4: Thống kê đóng góp vào ngân sách nhà nước của thuế TNCN
những năm gần đây ở Mỹ
4. Đánh giá về luật và quá trình thực hiện luật thuế TNCN của Hoa Kỳ
Qua xem xét thực trạng xây dựng luật thuế và thi hành thuế TNCN của Hoa
Kỳ, có thể thấy một số ưu nhược điểm sau:
4.1. Về luật
- Ưu điểm: Hệ thống thuế TNCN của Hoa Kỳ khá chặt chẽ, cơ sở tính thuế
được quy tịnh một cách tỉ mỉ, gồm nhiều yếu tố được thuyết minh chi tiết thông
qua các văn kiện pháp lý. Hệ thống thuế TNCN của Hoa Kỳ quy định công dân
phải kê khai tất cả các nguồn thu nhập, hợp pháp lẫn bất hợp pháp với mục đích
phòng chống tham nhũng và tội phạm.
- Nhược điểm: Quy định về thu nhập của Mỹ tương đối phức tạp gần 50000
trang luật, không những chú trọng thu nhập cá nhân mà còn chú trọng đến các
12

IRS, 2008, IRS Strategic Plan for 2009-2013, trang 13.
24
Tiểu luận Thuế và hệ thống thuế Việt Nam – Nhóm
Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thành viên trong gia đình. Cùng một mức thu nhập nhưng khoản nộp thuế của
một đôi vợ chồng có con nhỏ và một đôi vợ chồng không có con chênh lệch khá
nhiều.
4.2. Về quá trình thực hiện luật
- Ưu điểm : Hệ thống trang chủ của IRS: tạo ra các mẫu
khai thuế để người dân có thể điền thông tin thu nhập của mình một cách trực
tuyến. Việc sử dụng hệ thống này giúp cho công việc kê khai trở lên thuận tiện,
nhanh gọn và những điều chỉnh về luật cũng cập nhật đến người dân một cách
nhanh nhất. Hệ thống thuế TNCN của Hoa Kỳ vận hành theo cơ chế tự khai, tự
nộp. Việc này nâng cao tính tự giác của người nộp thuế cũng như tiết kiệm chi
phí quản lý cho cơ quan hành thu thuế. Ngoài ra, luật thuế TNCN cũng thường
xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn từng thời kỳ.
- Nhược điểm : Hệ thống tự khai thuế chỉ có thể vận hành được với điều
kiện người nộp thuế phải trung thực, kê khai một cách đúng đắn nghĩa vụ thuế.
Chính sách tự khai thuế này có thể dẫn đến tình trạng gian lận, trốn thuế và thất
thu thu của chính phủ.
25

×